Xem mẫu
- Nghệ thuật lãnh đạo quân sự trong những
cuộc chiến tranh nhân dân
Bên cạnh chiến thắng, lịch sử những cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
của Việt Nam có ghi lại 3 lần thất bại: thất bại của An Dương Vương
trước Triệu Đà; thất bại của Hồ Quý Ly trước nhà Minh, và thất bại của
triều Nguyễn trước thực dân Pháp. Dù không có chung bối cảnh lịch sử,
nhưng cả 3 thất bại trên đều có chung một nguyên do. Nguyên do ấy
xuất phát từ tầng lớp lãnh đạo của cuộc kháng chiến: để mất lòng dân.
Bảo vệ Tổ quốc: phản xạ có điều kiện
Một quốc gia nhỏ nằm cạnh một đại cường quốc. Một chiếc cầu nối
phương bắc với phương nam. Xét riêng về mặt địa chính trị, vị trí đất
nước này đã đủ khiến cho việc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trở thành một
trong những thử thách khó tránh khỏi trên hành trình gìn giữ biên
- cương.Mỗi bước tiến của dân tộc là mỗi bước người dân Việt Nam phải
đánh đổi bằng trí tuệ, mồ hôi và sinh mạng.
Ngay từ những ngày đầu dựng nước, Việt Nam - khi ấy có tên là Văn
Lang - đã phải đối phó với hoạ xâm lăng đến từ đội quân đầy tham vọng
của Tần Thuỷ Hoàng (thế kỷ thứ 3 TCN). Trước sức mạnh của quân
Tần, người Việt đã trốn vào rừng, ngày ẩn đêm hiện, tiến hành cuộc
chiến tranh du kích rộng lớn. Sau hơn 10 năm chiến đấu, tướng chỉ huy
của quân giặc là Đồ Thư phải bỏ mạng giữa lúc sĩ khí của chúng đã hao
mòn. Cuộc trường kỳ kháng chiến đầu tiên của dân tộc thắng lợi.
Chẳng bao lâu sau, (từ 184 đến 179 TCN), người Việt lại phải đối mặt
với một cuộc xâm lăng mới. Vì mất cảnh giác, An Dương Vương để
giang sơn rơi vào tay Triệu Đà. Cái giá cho bài học đau đớn đó là 1000
- năm Bắc thuộc - 1000 năm mà bản sắc và sự tồn tại của dân tộc phải qua
thử lửa, xương máu của không ít thế hệ đã đổ xuống để tìm lại tự chủ.
Đó cũng là 1000 tinh thần bất khuất của từng người dân Việt được rèn
vào trong máu.
Năm 938, trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán, kết
thúc chuỗi nỗ lực thiên niên kỷ để giành lại độc lập của người Việt. Kỷ
nguyên độc lập dân tộc bắt đầu với sự ra đời của nhà Ngô (938-965),
Đinh (968-979), tiền Lê (980-1009) và được các triều đại Lý (1010-
1225), Trần (1226-1399), Hồ (1400-1407), Lê (1428-1527), Tây Sơn
(1788-1801) và Nguyễn (1802-1884) vun đắp và hoàn thiện.
Trong khoảng thời gian này, người dân Việt Nam vẫn tiếp tục chiến đấu
để tạo nên bao chiến công hiển hách: 2 lần đập tan âm mưu xâm lược
- của quân Tống (năm 981 và 1076-1077); 3 lần đánh bại đội quân hùng
mạnh nổi danh khắp thế giới Mông-Nguyên (1258, 1285 và 1288); đè
bẹp và giành lại đất nước từ tay nhà Minh cướp nước (1417-1427) và
đẩy lui chớp nhoáng 29 vạn quân Thanh xâm lược (1789).
Cách đây chưa lâu, để giành lại độc lập và bảo tồn toàn vẹn lãnh thổ,
người dân Việt Nam lại buộc phải chiến đấu với những kẻ thù hùng
mạnh nhất thế giới: thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thiếu thốn đối đầu
với đầy đủ, lạc hậu đối đầu với hiện đại, chính nghĩa đối đầu với phi
nghĩa, sau "30 năm dân chủ cộng hoà", Việt Nam lại là người chiến
thắng.
Lịch sử của đất nước này là lịch sử của những cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ
quốc. Chiến đấu vì dân tộc dường như đã trở thành một phản xạ có điều
- kiện trong mỗi người dân Việt Nam.
Thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước, và chẳng biết từ bao giờ, người Việt
Nam đã tự đúc kết cho mình một “cẩm nang” chống ngoại xâm.
"Cẩm nang" chống ngoại xâm
Làm thế nào để không bị quân thù đè bẹp? Làm thế nào để nắm quyền
chủ động? Làm thế nào để xoay chuyển tình thế? Đó là vấn đề tưởng
chừng như không thể trong cuộc đối đầu giữa một quốc gia nhỏ bé và
những kẻ xâm lược khổng lồ. Tuy thế, lịch sử Việt Nam đã chứng minh
rằng dù kẻ địch có đến từ đâu, lớn mạnh cỡ nào, ta vẫn có cách để tiêu
- diệt chúng.
Trong binh pháp của người Việt, kỹ thuật lấy ít đánh nhiều, lấy yếu
chống mạnh đã trở thành nghệ thuật: Những đội quân xâm lược có tiềm
lực mạnh luôn muốn đánh nhanh, thắng nhanh vì chúng chắc rằng nếu
cự lại sức mạnh của chúng, chúng ta sẽ không thể tồn tại được lâu. Thế
nên, thay vì chọn cách đối đầu ngay như ý muốn của quân giặc, người
Việt Nam tìm cách làm suy giảm sức mạnh địch. Nhưng bằng cách nào?
Bằng một thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, bằng sức mạnh thoắt
ẩn thoắt hiện và dường như ở đâu cũng có của các lực lượng tại chỗ - mà
sau này chúng ta gọi bằng cái tên du kích.
Chiến tranh du kích đã xuất hiện ngay trong cuộc chiến bảo vệ tổ quốc
đầu tiên của dân tộc - kháng chiến chống quân Tần xâm lược của nhà
- nước Văng Lang. Theo sách Hoài Nam Tử thì người Việt đã trốn vào
rừng và tiến hành chiến tranh du kích. Sau hơn 10 năm không thể tiêu
diệt được ta, quân Tần rệu rã, mất hết ý chí và thất bại.
Sau này, những chiến thắng lớn của dân tộc đều mang dấu ấn của việc
huy động sức mạnh toàn dân trong cuộc chiến tranh nhân dân rộng khắp.
Ba lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông - đội quân hung bạo,
đánh bại một loạt các quốc gia từ Á sang Âu, là ba lần người dân Đại
Việt cùng nhau thực hiện kế “vườn không nhà trống” (kế thanh dã), cả
nước đánh giặc khiến quân Nguyên không những không thể đánh theo
lối sở trường của mình mà còn rơi vào tình trạng điêu đứng, tạo điều
kiện cho những cái tên Vạn Kiếp, Tây Kết, Chương Dương, Hàm Tử,
Bạch Đằng đi vào lịch sử.
- Sau đó 7 thế kỷ, bài học về chiến tranh nhân dân lại được vận dụng
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) và chống Mỹ
(1954-1975). Tướng Pháp Pellet đã đánh giá về sức mạnh và hiệu quả
của loại hình chiến tranh này như sau: “Trong cuộc chiến tranh du kích
này, kẻ địch [quân dân Việt Nam] ở khắp nơi – không có mặt trận cố
định cũng không có những công trình phòng ngự đặt đúng vị trí mà ở đó
chúng ta có thể sử dụng có hiệu quả những phương tiện chiến đấu mạnh
và hiện đại để tiêu diệt địch. Mỗi bụi tre, mỗi mái nhà đều có thể che dấu
kẻ địch. Như thế sẽ thấy tinh thần của quân đội ta căng thẳng đến chừng
nào, vì ở bất cứ đâu, không kể ngày đêm đều phải chống cự với kẻ địch
mà ta không thể nắm được”.
Chính sức mạnh của nhân dân Việt Nam là điều khiến kẻ thù sợ hãi nhất.
- Bên cạnh đó, sự chủ động và biết chớp thời cơ cũng là hai thành tố cơ
bản tạo nên bất kỳ một chiến thắng nào. Nhìn lại những cuộc chiến tranh
yêu nước trong lịch sử dân tộc mới hay, hai bài học này đã được vận
dụng một cách rất độc đáo: từ thời Hai Bà Trưng cho tới Ngô Quyền, Lý
Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung và gần đây nhất là kháng
chiến chống Pháp - Mỹ.
Gom sức dân, khơi dòng yêu nước - Vai trò của những nhà lãnh đạo tài
ba
Nhân dân ta không ngại đánh giặc. Chúng ta có cẩm nang chống ngoại
xâm. Nhưng có một yếu tố mà nếu thiếu nó, tất cả những điều nói trên
về lòng yêu nước hay sức mạnh dân tộc chỉ là những khái niệm mơ hồ.
Đó là sự dẫn dắt của những nhà cầm quân tài ba.
- Hồ Chí Minh đã từng nói: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó
là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị
xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng
mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm
tất cả lũ bán nước và cướp nước”. Nhưng để biến nguồn sức mạnh này
trở thành một mãnh lực xoá sạch bóng quân thù, dân tộc đó phải sản sinh
và nuôi dưỡng được những con người có bàn tay “gom”, khơi và hướng
đường cho dòng sức mạnh ấy.
Nhớ lại thời Hồ (1400-1407), khi quân Minh ùn ùn sang xâm lược, dù đã
gắng sức chống chọi nhưng vì chiến đấu đơn độc, không huy động được
lòng dân nên Hồ Quý Ly - vị vua đầu tiên và duy nhất của triều Hồ -
nhanh chóng thất trận. Đất nước sa vào tay giặc.
- Một trong những thất bại đáng tiếc nữa là thất bại của triều Nguyễn
(1802-1884). Không chỉ nhu nhược, thiếu kiên quyết, các vị vua nhà
Nguyễn còn không thấy được sức mạnh tiềm ẩn trong nhân dân. Bị động
trước sức tấn công của thực dân Pháp nhưng triều Nguyễn lại làm ngơ
trước cuộc chiến đấu của nhân dân, quay sang chủ hoà với địch. Việc
làm ấy đã đẩy những đất nước rơi vào cảnh lầm than trong suốt gần một
thế kỷ.
“Có lật thuyền mới biết sức dân như nước”, nhà quân sự tài trí Nguyễn
Trãi của nghĩa quân Lam Sơn (1417-1427) đã đúc kết ra điều ấy. Nhìn
lại lịch sử, những thất bại lớn của các triều đại trên đều nằm ở chỗ họ
không huy động được nhân tâm, xa rời quần chúng và thiếu tầm lãnh
đạo chiến lược.
- “Trải Đinh, Lý, Trần xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Nhưng hào kiệt đời nào cũng có”.
(Nguyễn Trãi, “Cáo bình Ngô”)
Tham chiếu lại lịch sử, bắt đầu từ số này, chuyên trang Lanhdao.net sẽ
cùng điểm lại đôi điều về nghệ thuật lãnh đạo quân sự của Hai Bà
Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung và những vị
tướng lỗi lạc của thời đại Hồ Chí Minh.
nguon tai.lieu . vn