Xem mẫu

  1. Nền mỹ thuật phục hưng tiếp thu nền nghệ thuật nào? Nói tới nền nghệ thuật thời phục hưng Ý thì cả là một vấn đề to lớn và hoành tráng vô cùng .Nền mỹ thuật phục hưng đã đạt tới độ hoàn thiện, mẫu mực, đỉnh cao về nghệ thuật . Danh từ “ Phục Hưng “ ( Renaissance ) theo tiếng pháp có nghĩa là sự tái sinh hay hồi phục . Quan niệm sự tái sinh nghệ thuật , sự hồi sinh của tất cả những gì cao cả và vĩ đại được thể hiện ở nơi nghệ thuật phát triển mạnh mẽ nhất là ở Phờ - lo- răng –xơ ( Florence ) .Người Ý cho rằng nền nghệ thuật vẻ vang của họ thời La Mã cổ đại đã bị người Goth Phá hủy cùng với việc làm sụp đổ La Mã . Vì vậy sứ mệnh cảu họ là phải làm cho nghệ thuật được hồi phục , được sống lại .Vào đầu thế kỉ 14 các nghệ sĩ Ý đã quyết tâm tạo ra một nền nghệ thuật mới , khác xa với nền nghệ thuật thời trung cổ ( Middle –Age ). Cùng với sự tái sinh của mĩ thuật còn có sự tái sinh của văn chương ,thuyết tâm linh …Từ đó làm nảy sinh một làn sóng mới về nghệ thuật và văn học .Phong trào văn hóa mới này được gọi là phong trào văn hóa “ Phục Hưng “ . Thời kỳ Phục Hưng được gọi như thế vì đặc tính cơ bản của thời kỳ này là sự hồi sinh của tinh thần thời kỳ Cổ đại. Chủ nghĩa Nhân văn chính là phong trào tinh thần cơ bản của thời kỳ này. Việc hồi sinh thể hiện ở chỗ nhiều yếu tố của tư tưởng thời kỳ Cổ đại được tái khám phá và sống lại (văn học, tượng đài kỷ niệm, tác phẩm điêu khắc, triết học,...). Về mỹ thuật thời kì phục hưng , những tên tuổi như Filippo Brunelleschi, Lorenzo Ghiberti và Donatello là những người mở đường cho hướng đi mới trong nghệ thuật có tiền thân là Nicola Pisano, Giotto di Bondone và những nghệ sĩ khác.
  2. Nói chung, ở Ý thời gian khoảng từ 1420 đến 1600 được gọi là thời kỳ Phục Hưng, trong châu Âu còn lại là thời gian từ 1500 đến 1600. Bên cạnh sự mô phỏng theo nghệ thuật Cổ đại là việc nghiên cứu thiên nhiên tích cực hơn, một khía cạnh quan trọng trong lịch sử phát triển của nghệ thuật Phục Hưng. Ngay trước Vasari, nhiều nhà thơ như Boccaccio đã khen ngợi họa sĩ Giotto có thể vẽ lại sự vật giống như trong tự nhiên mà không có ai trước ông đạt được. Xu hướng tạo hình sự vật và con người theo tự nhiên từ đấy là một trong những ý muốn chính của các nghệ sĩ. Thế nhưng phải đến thế kỷ 15 thì các nghệ sĩ mới đạt được đến một cách miêu tả theo tự nhiên gần như hoàn hảo. Vì thế mà các sử gia về nghệ thuật thường giới hạn khái niệm Phục Hưng cho các miêu tả nghệ thuật trong thế kỷ 15 và thế kỷ 16. Gắn liền với yêu cầu tự nhiên trong nghệ thuật là sự tôn vinh thời kỳ Cổ đại của các nghệ sĩ. Người ta ngưỡng mộ các tác phẩm nghệ thuật thời Cổ đại như là các thí dụ điển hình trong việc miêu tả theo tự nhiên và vì thế là các thí dụ đáng được mô phỏng theo trong lúc tự diễn đạt tự nhiên. Ngoài ra nhà lý thuyết về kiến trúc người Ý, Leone Battista Alberti, còn đòi hỏi các nhà nghệ thuật "không những ngang bằng với các danh nhân thời kỳ Cổ đại mà còn phải cố gắng vượt lên trên họ". Tức là nghệ thuật không những phải diễn đạt lại một cách trung thực thực tế mà còn phải cố gắng cải thiện và làm hoàn hảo tấm gương của tự nhiên. Bên cạnh xác định mới về quan hệ của nghệ thuật đối với tự nhiên và việc ngưỡng mộ thời kỳ Cổ đại, thời kỳ Phục Hưng cũng đặt câu hỏi về bản chất của cái đẹp. Các nghệ sĩ cố gắng diễn tả một con người đẹp toàn hảo. Kích thước và tỉ lệ lý tưởng đều đóng một vai trò trong việc diễn tả cơ thể con người trong hội họa và điêu khắc cũng như trong phác thảo kiến trúc. Với cách phối cảnh cổ điển các nghệ sĩ đã phát triển một phương pháp để diễn tả sự rút ngắn trong chiều sâu không gian với tính chính xác của toán học.
  3. Thông thường người ta chia thời kỳ lịch sử nghệ thuật Phục Hưng, đặc biệt là Phục Hưng Ý, ra làm 3 giai đoạn : Sơ Phục Hưng (tiếng Anh: Early Renaissance) Thịnh Phục Hưng (tiếng Anh: High Renaissance) Hậu Phục Hưng hay Mannerism . Giai đoạn đầu của thời kỳ Phục Hưng (từ khoảng 1420 đến 1490/1500) khởi điểm từ thành phố Firenze (tiếng Anh: Florence) với những bức tượng của Donatello, tranh phù điêu đồng của Ghiberti, bích họa của Masaccio và các công trình xây dựng của Filippo Bruelleschi. Thời gian từ khoảng 1490/1500 cho đến 1520 là đỉnh cao của thời kỳ Phục Hưng. Trung tâm của thời kỳ vươn đến hoàn mỹ và hài hòa cao độ này là thành phố Roma của giáo hoàng. Đây là thời gian của phác thảo kiến trúc cho nhà thờ thánh Peter ở Roma của Bramante, các bức họa nổi tiếng nhất của Leonardo da Vinci, của Raffaello, các bức tượng và bích họa của Michelangelo cũng như các tác phẩm khắc đồng của Albrecht Dürer. Sau đó là thời kỳ Hậu Phục Hưng hay Mannerism với đặc trưng là có nhiều xu hướng nghệ thuật khác nhau. Mannerism có khuynh hướng cường điệu hóa kho tàng hình dáng của Phục Hưng (thí dụ như diễn tả cơ thể con người được kéo dài ra và uốn cong trong một cử động mạnh). Giai đoạn cuối của thời kỳ Hậu Phục Hưng dần dần chuyển sang phong cách Baroque. Thế nhưng thời kỳ Phục Hưng không diễn ra theo một khuôn mẫu hoàn toàn giống nhau trên khắp châu Âu. Trong khi tinh thần Phục Hưng bắt đầu rất sớm và đặc biệt nở rộ ở Ý, có ảnh hưởng đều khắp trong hội họa, điêu khắc và kiến trúc thì mãi đến khoảng năm 1500 hay sau đó thời kỳ Phục Hưng mới bắt đầu ở phía Bắc của châu Âu và cũng chỉ chiếm ưu thế một phần, đồng thời mang nhiều
  4. tính cách dân tộc. Trong các quốc gia khác ngoài Ý kiến trúc và điêu khắc chịu ảnh hưởng nhiều hơn là hội họa. Tại Pháp và Đức phong cách cổ đại được hòa trộn với nhiều yếu tố dân tộc, nổi bật trong thời kỳ đầu của Phục Hưng hơn là trong thời kỳ Hậu Phục Hưng, thời kỳ mà hình dáng được thể hiện đầy đặn và mạnh mẽ hơn, chuyển đến cường điệu hóa của phong cách Baroque. Phong cách Phục Hưng tại Hà Lan, Ba Lan, Anh và Tây Ban Nha cũng mang sắc thái dân tộc. Về hội họa Hội hoạ thời Phục Hưng ở Ý . Chúng ta sẽ thấy rằng, nghệ thuật của Byzance, và của Kitô giáo ở phương Đông, nói chung, đặc biệt là nghệ thuật tranh thờ vẽ trên nền gỗ (icônes) và các bức tiểu hoạ (miniatures), sẽ có một ảnh hưởng trực tiếp lên nền hội hoạ ở Ý vào thời kỳ tiền phục hưng và phục hưng, bắt đầu từ các hoạ sĩ của trường phái Siena và các hoạ sĩ ở Firenze như : Pisano, Berlinghieri, Cimabue, Duccio di Buoninsegna, Simone Martini, v.v. Ảnh hưởng này tích cực chủ yếu về mặt thẩm mỹ. Còn về nội dung, đặc biệt về mặt hiệu quả truyền đạt các thông điệp, nhằm giáo dục quần chúng, thì theo sự đánh giá của Roger Bacon (1219-1292), một nhà khoa học, thày tu dòng thánh Phan-xi-cô, người sẽ có một vai trò hàng đầu trong giáo hội về mặt thẩm định nghệ thuật Kitô giáo, thì các tác phẩm này còn bị hạn chế và chưa đạt yêu cầu. Hội hoạ tiền phục hưng Ý Vào những năm 60 của thế kỷ XIII, Roger Bacon, đã đưa ra nhiều ý tưởng mới mẻ, làm đảo lộn hoàn toàn các quy tắc và tiêu chuẩn từ trước tới nay vẫn đuợc áp dụng trong nghệ thuât hội hoạ Kitô giáo. Ông đã vạch ra khuyết điểm quan trọng nhất của nền hội hoạ này, là sự không sáng sủa của các hình tượng và của cách diễn đạt, do đó đã không đáp ứng được nhu cầu giáo dục quần chúng. Đây không phải chỉ là do các hoạ sĩ, mà do chính những người đặt hàng cho các hoạ sĩ,
  5. những người có trách nhiệm trong giáo hội. Phong cách mà ông đề nghị là một phong cách được gọi là " tự nhiên ", không công thức, không cách điệu hoá như phong cách Kitô giáo nguyên khai, và phong cách Byzantin nữa. Điều mới mẻ quan trọng nhất, mà theo ông, cần đưa vào áp dụng trong hội hoạ Kitô giáo, là sự hiểu biết và cảm nhận sâu sắc thế giới tự nhiên và các truyện tích trong Kinh Thánh, mà các danh hoạ như Jacopo Torriti, như Giotto, học trò của Cimabue, sẽ là những người diễn dịch tài tình nhất. Đức Mẹ và chúa Giêxu (phong cách Byzantin, 1280) Thời Phục Hưng ở Ý bắt đầu với thế kỷ XV (người Ý gọi là Quatrocento - 1400), nhưng thực ra nó đã nẩy mầm ngay từ thời Tiền Phục Hưng, với những bức
  6. bích hoạ đầu tiên do Giotto thực hiện ở nhà thờ Santa Maria dell’Arena ở Padoue (1305), đem đến một phong cách hoàn toàn mới mẻ, và những ý tưởng nghệ thuật độc đáo, trùng hợp với những ý tưởng đã được Roger Bacon đề xướng và thực hiện ở Assise Vào thời kỳ này, khi khen một hoạ sĩ nào, người ta thường có thói quen nói rằng : tác phẩm của hoạ sĩ đó có thể sánh ngang với "người xưa", người xưa đây là những hoạ sĩ Hy Lạp, La Mã cổ điển. Khái niệm "phục hưng" ở nơi người Ý đương thời, chính là để nói lên cái ý tưởng "khôi phục" lại ưu thế của La Mã về mặt văn hoá vào thời kỳ oanh liệt nhất, trước khi bị giặc Goth xâm lược ở thế kỷ VI, trong khi đối với người Âu châu, nói chung, thời kỳ Phục Hưng có một ý nghĩa rộng hơn : đó là thời kỳ người ta muốn quay trở lại với những quy tắc nghệ thuật cổ điển Hy-Lap, sau khi đã trải qua thời kỳ Trung cổ với các nền nghệ thuật rômăng, gôtích… Uccello “Thánh George giết rồng 1455” . Giotto là người hoạ sĩ đầu tiên đã đem lại một phong cách hội hoạ Kitô giáo mới mẻ, tuy khác hẳn với phong cách byzantin, nhưng lại vẫn như có một cái gì đó rất khoẻ mạnh trong nét vẽ.
  7. Giotto -Đám tang chúa 1306 Người hoạ sĩ tài hoa nhất sau Giotto, người đã mang đến một phong cách hội hoạ tôn giáo mới mẻ khác, là Masaccio (1401-1428), với bức bích hoạ đầu tiên sử dụng phép vẽ phối cảnh, đó là tác phẩm mang tên "Tam vị Nhất thể, Đức Mẹ, Thánh Jean và các nhà hảo tâm" (1425-1428), Adam và Eve bị đuổi khỏi địa đàng (1425)
  8. Masaccio “Adam và Eve bị đuổi khỏi địa đàng “(1425). Thời Phục Hưng có lẽ là thời kỳ nghệ thuật Kitô giáo đã sản sinh ra nhiều tài năng hội hoạ nhất ở hầu khắp mọi nước Âu châu, nhiều nhất là ở Ý, với : Masaccio, Fra Angelico, Paolo Uccello, Piero della Francesca, Filippo Lippi, Ghirlandaio, Botticelli, Pietro Purigino, Raphael, Leonardo da Vinci, Michelangelo, v.v. ; ở Hà Lan, với : Jan van Eyck, Van der Weyden, Petrus Christus, Hans Memling, Hugo Van der Goes, Gerard David, và cả một trường phái được gọi là "trường phái nguyên khai Flamand" ; ở Pháp, với : Jean Fouquet, Engerrand Quarton, và ba anh em Limbourg ; ở Đức, với : Stefan Lochner, Albrecht Durer ; ở Bồ Đào Nha, với : Nuno Gonçalves, v.v Hội hoạ thời Phục Hưng ở Hà Lan và ở Pháp :
  9. Người ta thường chỉ hay nói nhiều đến nền hội hoạ "Phục Hưng Ý", nhưng thực ra, cùng trong thời kỳ này, ở Âu châu, còn có ít nhất hai nền hội hoạ khác cũng quan trọng không kém, về mặt nghệ thuật thuần tuý. Đó là nền "hội hoạ nguyên khai Flamand" ở xứ Flandre, xưa kia thuộc Hà Lan, nay thuộc Bỉ, mà tính chất hiện thực còn vượt xa hơn cả nền hội hoạ phục hưng Ý, và nền "hội hoạ quốc tế" chủ yếu đã phát triển ở Pháp và ở Anh, dưới dạng các tranh tiểu hoạ, dựa trên truyền thống hội hoạ rômăng và gôtích. 1495 Nuno Gonçalves: Thánh Vincent Jan van Eyck (1390-1441), là một trong những hoạ sĩ xuất sắc nhất của "trường phái nguyên khai Flamand", tác giả của nhiều tác phẩm sơn dầu nổi tiếng, như : "Con cừu huyền thoại - L’Agneau mystique" (1432), "Giovanni Arnolfini và phu nhân" (1434), "Đức Mẹ ở Chanoine Van der Paele" (1436). Chính ông là người đầu tiên đã chế ra chất sơn dầu để thử nghiệm trên các tác phẩm của mình.
  10. Ông đã dùng dầu thay thế cho lòng trắng trứng, để cho màu đỡ bị khô, mà lại óng mượt hơn, trong hơn. Jan van Eyck: Giovanni Arnolfini và phu nhân (1434)
  11. Vào những năm này, lần đầu tiên, người ta thấy xuất hiện những bức hoạ mà nội dung không có tính chất tôn giáo. Bức hoạ "Giovanni Arnolfini và phu nhân" của Jan van Eyck, hoàn toàn không có ý nghĩa tôn giáo, cũng như bức hoạ "Trận chiến San Romano" (1450) của Paolo Uccello, một hoạ sĩ gốc Ý, người tỉnh Firenze. Chúng ta thấy rằng nghệ thuật hội hoạ thời Phục Hưng rồi ra sẽ phát triển theo hướng này, trải qua các thời kỳ barốc, cổ điển, v.v. cho đến mãi sau này cũng vẫn giữ cái phương châm ấy : đưa những chi tiết hiện thực của đời sống vào hội hoạ, dù là hội hoạ tôn giáo, hay chỉ là những truyện tích thần thoại, lịch sử, hoặc những cảnh sinh hoạt đời thường. Mục đích của nghệ thuật không còn giới hạn vào việc minh hoạ những truyện tích có tính chất tôn giáo nữa, mà người hoạ sĩ còn có sứ mệnh phản ánh cái thế giới xung quanh mà mắt mình nhìn thấy. Phải chăng, lý tưởng nghệ thuật không còn chỉ là đức tin nữa, mà đã trở thành lý tưởng về một cái đẹp tuyệt đối ? Các tác phẩm này có những màu sắc nhẹ nhàng, tươi mát, nét vẽ tế nhị, cách bố cục trang trọng, và đây đó cũng dùng chất liệu vàng kim, không khỏi làm cho người ta nghĩ đến nền hội hoạ gôtích, mà chắc hẳn nó đã chịu ảnh hưởng trực tiếp, cũng như nó không khỏi làm cho người ta nghĩ đến những bức bích hoạ và một hai bức hoạ vẽ trên nền gỗ của Fra Angelico, cũng với những màu sắc nhẹ nhàng ấy và phong cách ấy vài chục năm sau, tuy rằng Fra Angelico vẫn có những nét độc đáo riêng của mình, không thể nào nhầm lẫn được (ví dụ như tác phẩm "Lễ đăng quang Đức Mẹ Đồng Trinh-1435).
  12. Fra Angelico: Lễ đăng quang Đức Mẹ Đồng Trinh, 1434-1435. Điêu khắc: Cùng với sự đổi trong hội họa , điêu khắc cũng có những thành tựu lớn.Những nhà điêu khắc danh tiếng của thời kì này là Lô-ren-giô Ghi-béc-ti với tác phẩm Hai cánh cửa rửa tội , ở Phờ -lo-răng-xơ , Đô-na-ten-lô với pho tượng “ Vị thủ lĩnh Gát- ta-mơ-la-ta, ĐaVit.. Vê-rô-ki-ô Với các pho tượng kị mã nổi tiếng , micchel Ange buonarroti với các tác phẩm như là Đa Vít tượng đá cẩm thạch , Pi-ét-ta … Chúng ta có thể thấy rằng , ở thời kì cổ điển , Pô-li-clet đã dành thời gian , sự nghiệp nghiên cứu sáng tạo của mình cho việc tìm ra tỉ lệ chuẩn cân đối , hài hòa của cơ thể nam giới .một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là tượng Đô- ri-pho, pho tượng có tỉ lệ 7 đầu , điều đáng nói ở đây là sự hài hòa của các tỉ lệ giữa đầu , thân , tay , chân, sự mềm mại sống động của hệ thống cơ. Nếu Đô-ri- phô của Pô-li -clét có tỉ lệ 7 đầu thì tượng A-Pô-xi-ô-men có tỉ lệ 8 đầu , mang vẻ đẹp thanh mảnh hơn , đầu nhỏ thân dài.
  13. Cho đến thời kì Phục Hưng các nhà điêu khắc đã dựa theo chuẩn mực này để nghiên cứu và đưa ra tỉ lệ vàng của cơ thể con người đó là 7.5 đầu Các nghiên cứu về giải phẫu học được dùng để miêu tả lại cơ thể con người giống như trong thực tế. Ngoài các phù điêu đề tài tôn giáo , gắn với các công trình kiến trúc tôn giáo , Các nhà điêu khắc Phục Hưng còn sáng tạo nhiều nhất là những tượng đứng và tượng bán thân.Hầu hết các bức tượng đều là tượng tròn. Ở thời kỳ Phục Hưng trên các quảng trường thành phố là các tượng đài kỷ niệm thí dụ như các tượng kỵ sĩ. Mộ bia cho danh nhân trong và ngoài đạo liên kết tượng cùng với kiến trúc trở thành một tác phẩm nghệ thuật.
  14. Kỵ sĩ Gattamelata ở Padoue. tượng đài kỵ sĩ Gattamelata ở Padoue phỏng theo tượng đài kị sĩ Macr Aurèle thời La mã, có cá tính hơn.. Các nhà điêu khắc Phục Hưng hướng về các tác phẩm tiêu biểu của thời kỳ Cổ đại khi sáng tác. Bức tượng được làm mô hình toàn diện, con người được biểu diễn khỏa thân, tư thế hai chân thường là theo kiểu Contrapposto cổ điển. Tượng ĐaVit - micchel Ange. Một mẫu mực hoàn thiện của vẻ đẹp cơ thể con người , điều này đúng cả về nghĩa đen và bóng .
  15. Kiến trúc : Về nguyên tắc có thể phân biệt hai xu hướng khác nhau trong kiến trúc Phục Hưng. Một xu hướng hồi sinh các đường nét thời kỳ Cổ đại một cách nghiêm khắc. Tại Ý, Donato Bramante đã đạt đến mục tiêu này trong đỉnh cao của thời kỳ Phục Hưng vào khoảng năm 1500 và từ đó chiếm lĩnh ưu thế trong kiến trúc trên toàn nước Ý. Các công trình xây dựng Phục Hưng ở Ý được phác thảo trong sáng và hài hòa cân đối. Trong sơ đồ mặt bằng các kiến trúc sư hướng về các hình dáng đơn giản lý tưởng trong hình học như hình vuông hay hình tròn. Các chi tiết kiến trúc như cột, trụ bổ tường, đầu cột, đầu hồi tam giác,... đều trực tiếp dựa vào kiểu mẫu thời Cổ đại. Bên cạnh đó là các phát triển mới dẫn xuất từ khuôn mẫu của thời kỳ Cổ đại. Tất cả các phần xây dựng riêng lẻ đều phải được hòa hợp với nhau và với toàn bộ tòa nhà. Các luận thuyết kiến trúc của nhà xây dựng nổi tiếng người La Mã Vitruvius được tham khảo để tìm ra những tỷ lệ tương quan lý tưởng. Xu hướng thứ hai tuy cũng dựa vào thời kỳ Cổ đại nhưng biến đổi hình dáng các yếu tố xây dựng tương tự như nghệ thuật xây dựng thời Trung cổ, không vươn đến một nghệ thuật xây dựng theo các định luật một cách nghiêm ngặt. Nói chung khi nền văn hóa càng bám rễ sâu trong thời Trung cổ mang dấu ấn của miền Bắc châu Âu thì phong cách kiến trúc tương tự của Phục Hưng càng mạnh, tức là trước tiên là ở vùng Trung Âu và Bắc Âu. Trên bán đảo Iberia hai xu hướng này tồn tại bên cạnh nhau cho đến thời kỳ Baroque. Tại vùng châu Âu của Đức và Ba Lan hai xu hướng này được trộn lẫn một phần (thí dụ như lâu đài Heidelberg (Đức) hay lâu đài tại Wawel, Kraków (Ba Lan), thế nhưng xu hướng tương tự vẫn chiếm ưu thế cho đến thời gian cuối.
  16. Fillipo Brunelleschi (1377-1446) được coi là kiến trúc sư lớn nhất của Florence, ông là tác giả của nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng như mái vòm nhà thờ Santa Maria del Fiore, Dục anh viện, Nhà thờ S. Lorenzo, đền thờ Pazzi,… Giáo đường Pazzi , Phờ -lo -răng-sơ Bru –nen –chi ( thiết kế khoảng 1430 ). Kiến trúc giáo đường Pazzi là sự kết hợp thể thức kiến trúc trung cổ ( Gô- tích) với nghệ thuật kiến trúc La Mã. Trong thiết kế vị trí quan trọng cho nóc tròn trên đồ án hình vuông . Chòm cột nhỏ ở nhà thờ Gootich được thay thế bằng trụ vuông hay cột tròn to. Vòm bán nguyệt trong kiến trúc Rô-Măng được thay thế bằng vòm hỗn hợp cung tròn và nhọn của Rô Măng và Gô tích. Sang nửa thế kỷ 15 phong cách kiến trúc thời kỳ đầu từ phờ-lo-răng-xơ được lan truyền đến các trung tâm khác của Ý như Vơ-ni-rơ . Trong phong cách cũng có sự thay đổi bởi sựu tĩnh lặng , nghiêm trang thoáng đạt hơn và trang trí nhiều hơn.
  17. Công trình đầu tiên đem lại vinh quang cho tên tuổi của Brunelleschi và cũng chính là công trình mở đầu cho thời đại Phục Hưng huy hoàng chính là vòm mái của nhà thờ Florence. Nhà thờ Santa Maria del Fiore (Duomo) mang phong cách Gotic.
  18. Mặt tiền nhà thờ Duomo Khác với kiến trúc Gotic coi trọng kết cấu, kiến trúc phục hưng thời kỳ này chỉ chú ý đến tổ hợp công trình, như Dục Anh Viện và lâu đài Medici chẳng hạn. Nếu như mái vòm nhà thờ Florence mở đầu cho thời kỳ Phục Hưng, tiếp tục hoàn tất công trình dang dở của thời đại trước, thì công trình Dục Anh Viện ở Florence của Brunelleschi được coi như công trình trọn vẹn đầu tiên được thiết kế trong thời kỳ này. Dục Anh Viện (hay nhà thương phúc trẻ em) là tác phẩm kiến trúc Italia đầu tiên cố gắng rời bỏ hình thức cũ, do kiến trúc sư lớn nhất của Florence là Brunelleschi (1377-1446) xây dựng vào những năm 1421- 1424. Đó là một công trình kiểu sân trong, có bộ phận đáng chú ý nhất là hành lang cột Corin hướng ra quảng trường Annundiata, một quảng trường thương nghiệp của thành phố. Hình thức của hành lang cột này gần gũi với kiến trúc cổ điển ở chỗ dùng hành lang cuốn nửa tròn, có phân vị đơn giản, rõ rang và hoà hợp.Công trình không nặng nề như kiến trúc cổ điển mà nhẹ nhàng, sáng sủa, qua đó ta có thể thấy ảnh hưởng của kiến trúc Gotic vẫn còn lưu lại phần nào .
  19. Mặt tiền Dục Anh Viện (Foundling Hospital) Trong hai công trình nhà thờ S. Lorenzo và S. Spirito, Brunelleschi đã kết hợp hài hoà các yếu tố truyền thống với những tỷ lệ toán học cân đối, chuẩn mực, các vòm cuốn được sử dụng như những modul trong tổ chức không gian công trình. Trong thiết kế nội thất hai nhà thờ này ông đã khéo léo vận dụng nhiều yếu tố kiến trúc cổ điển như: thức cột corin, mái vòm bán cầu… tạo nên vẻ đẹp hoàn hảo cho không gian nội thất công trình.
  20. Sân trong nhà thờ San Lorenzo Một số tác giả , tác phẩm tiêu biểu thời kì phục hưng : Họa sĩ Giotto di Bondine ( 1267-1337 ) Giotto di Bondone (sinh 1267 - mất 8 tháng 1/ 1337), được biết đến với cái tên đơn giản Giotto, là một họa sĩ và kiến trúc sư người Ý. Ông được coi là một trong những hoạ sĩ vĩ đại nhất thời kỳ Phục hưng Ý. Xi-ma-bu-ê là thầy của Ông , sau này đã cùng ông tạo ea một sự thay đổi lớn trong hội họa Theo E.H gom –brich trong sách Câu truyện nghệ thuật ( Lê sĩ Tuấn biên dich-NXB Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh ) Gốt-tô là một thiên tài đã phá vỡ vòng kim tỏa của nghệ thuật Bi- dăng –tanh và thoát ra, mạo hiểm dấn thân vào một thế giới mới , đã chuyển dịch từ hình tượng sống dộng của nghệ thuật điêu khắc Gô-tich và trong hội họa .,Sự tìm tòi có tính cách mạng về hình khối cùng với cách mô tả không gian nặng tính kiến trúc và hiện thực của ông đã giúp cho hội họa phương Tây đạt được một bước tiến lớn. Phong cách vẽ của Giotto đã gây
nguon tai.lieu . vn