Xem mẫu

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

Nc 584 NHỮNG ĐIỂM KỸ THUẬT CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT 
NANG ỐNG MẬT CHỦ Ở NGƯỜI LỚN 
Đỗ Minh Hùng* 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở bệnh nhân lớn tuổi vẫn là một thách thức về mặt kỹ 
thuật nhất là ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu báo cáo về vấn đề này. Do đó, chúng tôi tiến hành phân tích 
những điểm kỹ thuật để thấy những khó khăn trong phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở bệnh nhân lớn 
tuổi từ kinh nghiệm của 1 phẫu thuật viên duy nhất. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 7‐2009 đến tháng 4‐2013, chúng tôi đã thực hiện phẫu 
thuật nội soi cắt nang ống mật chủ cho 39 bệnh nhân lớn tuổi. Tất cả các trường hợp đều được phẫu thuật nội soi 
cắt nang thành một khối, nối ống gan‐hỗng tràng kiểu Roux‐en‐Y. Phân tích những điểm kỹ thuật của tất cả 
những trường hợp phẫu thuật này. 
Kết quả: Thời gian phẫu thuật 175‐360 phút. Không có trường hợp nào chuyển mổ hở. Có 35 trường hợp 
nối ống gan – hỗng tràng bằng kỹ thuật khâu nội soi ở mức ống gan chung, 4 trường hợp ở ngã 3 ống gan, 1 
trường hợp ống gan trái có vách ngăn phải cắt vách. Nuôi ăn qua miệng bắt đầu từ 1‐4 ngày sau phẫu thuật và 
thời gian hậu phẫu từ 4 – 17 ngày. Thời gian theo dõi 1‐ 46 tháng. 
Kết luận: Phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ có thể thực hiện được và an toàn hơn với kinh nghiệm 
được tích lũy. 
Từ khóa: Những điểm kỹ thuật, phẫu thuật nội soi, cắt nang ống mật chủ. 

ABSTRACT 
TECHNICAL NOTE ON LAPAROSCOPIC EXCISION OF CHOLEDOCHAL CYSTS IN ADULTS 
Do Minh Hung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 4 ‐ 2013: 304 ‐ 310 
Background:  Laparoscopic  excision  of  choledochal  cysts  in  adults  is  technically  challenging.  In  Vietnam, 
there  have  been  few  reports  on  the  laparoscopic  treatment  of  choledochal  cyst.  We  present  technical  notes  of 
laparoscopic adult choledochal cyst excision from an only surgeon’s experience. 
Materials and methods: From July 2009 to April 2013, we performed laparoscopic resection choledochal 
cyst for 39 adult patients. The current report analyzes the author’s technique of laparoscopic en bloc excision of 
choledochal cysts with Roux‐en‐Y anastomosis. 
Results: The range operating time was 175‐360 min. There was no open conversion. Laparoscopic hepato‐
jejunostomy was fashioned at the level of the common hepatic duct in 35 and at the bifurcation in 4 patients. Oral 
feeds were started from the first to the fourth postoperative day and the duration of post‐operative stay was 4‐17 
days. Follow‐up observations lasted 1‐46 months.  
Conclusion: With accumulated experience, laparoscopic resection of choledochal cyst in adult is feasible and 
safe. 
Key words: Technical note, laparoscopic excision, choledochal cyst. 
mật,  tái  tạo  ống  gan‐ruột  vì  nguy  cơ  diễn  tiến 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
thành ung thư đường mật chính và túi mật. Xử 
Nang  ống  mật  chủ  là  1  bệnh  lý  lành  tính 
trí kinh điển nang đường mật là phẫu thuật mở. 
hiếm  gặp  của  đường  mật  nhưng  một  khi  được 
Với những tiến bộ cả về kỹ thuật và dụng cụ, các 
chẩn  đoán  nang  phải  được  cắt  đi  cùng  với  túi 
* Khoa ngoại tổng quát bệnh viện Bình Dân, TP.HCM 
Tác giả liên lạc: Ths.BS. Đỗ Minh Hùng 
 ĐT: 0903857495 

304

 Email: dominhhung@rocketmail.com 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
phẫu thuật viên đã thực hiện các phẫu thuật có 
mức độ phức tạp cao mà vẫn đảm bảo kết quả 
với  ít  chấn  thương  hơn  và  mau  hồi  phục  hơn. 
Farello  lần  đầu  tiên  báo  cáo  phẫu  thuật  nội  soi 
cắt nang ống mật chủ type I, nối ống gan‐hỗng 
tràng  Roux‐en‐Y  vào  1995  cho  1  bé  gái  6 
tuổi(6,20,21).  Shimura  tiếp  đó  đã  báo  cáo  một 
trường hợp phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật 
ở bệnh nhân 19 tuổi vào 1998(15). Nhiều tác giả đã 
báo cáo kinh nghiệm phẫu thuật cắt nang đường 
mật  bằng  phẫu  thuật  nội  soi.  Tuy  nhiên,  phẫu 
thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở bệnh nhân 
lớn tuổi vẫn là một thách thức về mặt kỹ thuật 
nhất  là  ở  Việt  Nam,  chưa  có  nhiều  nghiên  cứu 
báo  cáo  về  vấn  đề  này.  Do  đó,  chúng  tôi  tiến 
hành  phân  tích  những  điểm  kỹ  thuật  để  thấy 
những  khó  khăn  trong  phẫu  thuật  nội  soi  cắt 
nang ống mật chủ ở bệnh nhân lớn tuổi qua 39 
trường  hợp  từ  kinh  nghiệm  của  1  phẫu  thuật 
viên  duy  nhất,  rút  kinh  nghiệm  để  có  thể  thực 
hiện phẫu thuật này ngày một hiệu quả, an toàn 
và dễ dàng hơn. 

ĐỐI TƯỢNG‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đây  là  một  nghiên  cứu  tiền  cứu  mô  tả  loạt 
ca, đối tượng là những bệnh nhân có nang ống 
mật  chủ  từ  16  tuổi  trở  lên  được  phẫu  thuật  tại 
bệnh viện Bình Dân thành phố Hồ Chí Minh.  
Thời  điểm  nghiên  cứu  từ  7  –  2009  đến  4  – 
2013, 39 trường hợp đã được chúng tôi thực hiện 
phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ thành 
một khối, nối ống gan‐hỗng tràng Roux‐en‐Y.  
Kỹ thuật 

Tư thế bệnh nhân 
Bệnh  nhân  nằm  ngửa,  đầu  cao,  nghiêng 
trái,  dạng  2  chân.  Phẫu  thuật  viên  đứng  bên 
trái bệnh nhân. 
Vị trí trocars 
Chúng tôi sử dụng 4 trocars. 1 trocar 10‐mm 
ở rốn cho camera, 1 trocar 10‐mm ở thượng vị, 2 
trocars 5‐mm ở hạ sườn phải, 1 trường hợp đặt 
thêm 1 trocar 5‐mm ở bên trái đường giữa giữa 
trocar  thượng  vị  và  rốn.  Sử  dụng  dụng  cụ  đốt 
đơn cực. 

Nghiên cứu Y học

 
Hình 1: Vị trí trocars và phẫu thuật viên 
Qui trình phẫu thuật 
Chúng  tôi  thực  hiện  kỹ  thuật  cắt  nang 
thành một khối, phẫu tích từ phần xa của ống 
mật trước, kẹp cắt đầu xa và phẫu tích ngược 
lên rốn gan. 
Kẹp  túi  mật  vén  lên  phía  hoành  phải  hoặc 
khâu  treo  lên  thành  bụng  để  phơi  bày  nang  và 
làm  rộng  phẫu  trường  khi  phẫu  tích.  Mở  lớp 
thanh  mạc  che  ống  mật  chủ  để  bộc  lộ  thành 
nang. Phẫu tích dọc thành nang để tách nang ra 
khỏi 2 thành phần còn lại của cuống gan là động 
mạch gan riêng và tĩnh mạch cửa. Phẫu tích về 
phía đầu xa của ống mật chủ. Không cố gắng tìm 
kênh chung mật tụy. Cột hoặc clip, cắt đoạn xa. 
Phẫu tích nang ra khỏi cấu trúc lân cận về phía 
trên.  Phẫu  tích,  kẹp,  cắt  động  mạch  túi  mật. 
Phẫu  tích  ống  túi  mật,  làm  rõ,  rộng  vùng  tam 
giác  gan  mật.  Cắt  túi  mật  khỏi  giường  từ  đáy. 
Phẫu  tích  nang  lên  sát  2  ống  gan.  Đánh  dấu 
hỗng  tràng  cách  góc  Treitz  khoảng  20cm.  Mở 
rộng đường mổ ở rốn làm miệng nối hỗng‐hỗng 
tràng  (40‐60cm  tới  rốn  gan).  Mở  lỗ  nối  cách  bờ 
cắt #2cm ở quai ruột nối với ống gan. Đưa ruột 
vào,  đóng  nhỏ  lại  vết  mổ  rốn.  Đưa  quai  hỗng 
tràng để nối lên gần rốn gan. Tiến hành cắt đầu 
trên nang. Nối hỗng tràng‐ống gan. Mặt sau nối 
mũi liên tục, mặt trước nối mũi rời nếu ống gan 
> 10mm, nối mặt trước sau đều bằng mũi rời nếu 
ống gan 5mm,  khả  năng  tổn 
thương ống tụy thấp khi phẫu tích xuống đoạn 
cuối  ống  mật  nằm  trong  nhu  mô  tụy.  Nếu 
khoảng  cách  này  ≤5mm  hoặc  không  có,  phần 
nang  trong  tụy  chỉ  phẫu  tích  một  phần,  lòng 
bên trong ống được cột lại để tránh tổn thương 
ống tụy(1). Chúng tôi cũng không cố gắng phẫu 
tích để tìm kênh chung mật tụy một khi phần 
hẹp bình thường của ống mật chủ đã được xác 
định  vì  nguy  hiểm(2).  Một  trường  hợp  trong 
nghiên cứu của Jang J.Y(4) bị đứt đoạn cuối ống 
mật chủ vì lôi kéo nang lên phía trên quá mức, 
cho nên thao tác cần hết sức cẩn trọng. Chúng 
tôi có 2 trường bị đứt đầu dưới ống mật chủ, 1 
trường hợp được tìm thấy và kẹp lại, 1 trường 
hợp  không  xử  trí  gì  thêm.  Cả  hai  trường  hợp 
này  do  cố  gắng  phẫu  tích  cho  đoạn  cuối  nhỏ 
nhất và lực  kéo căng nên gây đứt.  Tuy nhiên, 
cả hai trường hợp này đều không có viêm tụy 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013

307

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

Nghiên cứu Y học 
sau  mổ.  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi, 
đường  kính  đoạn  cuối  ống  mật  phần  trong 
nhu mô tụy được phẫu tích trung bình 2,2 ± 0,4 
mm (1‐3mm). 
Tạo chân hỗng‐hỗng tràng 
Chúng tôi tạo chân hỗng‐hỗng tràng ngoài 
ổ bụng bằng cách đưa đoạn đầu hỗng tràng ra 
ngoài qua việc mở rộng lổ trocar ở rốn khoảng 
2‐4cm.  Thực  hiện  kỹ  thuật  này  giúp  tiết  kiệm 
chi phí đáng kể cho bệnh nhân, giảm thiểu thời 
gian phẫu thuật(7,17). Việc tạo miệng nối hỗng –
hỗng tràng trong ổ bụng bằng stapler gây mất 
thời  gian  vì  các  vị  trí  trocars  không  thích  hợp 
lắm nhất là ở trẻ em(6). Tuy nhiên, trong ca đầu 
tiên chúng tôi mất hơn 1 giờ cho thì này vì sợ 
xoắn chân.  
Nối ống gan‐hỗng tràng 
Vấn  đề  cắt  đầu  trên  nang,  các  phẫu  thuật 
viên đều cố gắng cắt cao, ở ống gan chung hoặc 
gần chỗ hợp lưu của 2 ống gan phải và trái(9,14). 
Todani  thích  cắt  cao  và  nối  ở  rốn  gan  nhưng 
Miyano  cho  rằng  nối  với  ống  gan  chung  là  đủ 
hiệu quả, chỉ nối ở rốn gan trong một số trường 
hợp đặc biệt, và một số tác giả cũng ủng hộ quan 
điểm của Miyano(3,8,11). Trong nghiên cứu của Lee 
chỉ  có  23%  trường  hợp  (14/75  bệnh  nhân)  cần 
phẫu  tích  cao  và  nối  ở  chỗ  hợp  lưu  2  ống  gan 
phải  và  trái(8).  Tác  giả  Cho(1)  thường  nối  ở  ống 
gan chung cách chỗ hợp lưu 2 ống gan khoảng 
5mm. Để hạn chế hẹp miệng nối sau mổ có tác 
giả  khuyên  nên  tạo  hình  miệng  nối  có  đường 
kính  ít  nhất  3cm(16);  một  số  tác  giả  sử  dụng 
đường khâu mũi rời cho những trường hợp ống 
gan  nhỏ  hơn  10mm(3,11),  hoặc  15mm(13,  19),  mũi 
liên  tục  ở  mặt  sau  và  mũi  rời  ở  mặt  trước  cho 
miệng  nối  lớn  hơn  10mm(3,  11),  hoặc  15mm(13,19). 
Điều  quan  trọng  là  tạo  được  miệng  nối  niêm‐
niêm  để  mô  lành  tốt  không  gây  xơ  hẹp  miệng 
nối(14). Trường hợp có vách ngăn trong ống gan 
phải cắt bỏ vách này đi. 
Nối  ống  gan  hỗng  tràng  là  thì  phẫu  thuật 
quan  trọng  và  khó  khăn  nhất(2,4,6,15)  vì  đòi  hỏi  1 
kỹ năng khâu nội soi tốt để tránh hẹp miệng nối 

308

sau mổ. Có 25 trường hợp của chúng tôi có phần 
ống  gan  còn  lại  >10mm,  đều  được  khâu  bằng 
mũi liên tục ở mặt sau và mũi rời ở mặt trước; 14 
trường hợp khâu nối hoàn toàn bằng mũi rời vì 
phần  ống  gan  nhỏ
nguon tai.lieu . vn