Xem mẫu

  1. Mỹ thuật thời Trần I. Sự thành lập triều Trần và những nét khái quát về xã hội thời Trần . 1, Sự thành lập triều Trần: Nhà Lý phát triển thịnh trị vào đời vua Lý Nhân Tông (1072 - 1127), sau đó bắt đầu đi vào con đường suy yếu. Các vua lên ngôi khi còn bé như vua Lý Anh Tông làm vua khi 5 tuổi, Lý Cao Tông 2 tuổi… Quyền hành rơi vào tay những kẻ hại dân. Trước tình hình ấy, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra, góp phần làm lung lay ngai vàng nhà Lý. Khi nhà Lý suy yếu, nạn cát cứ lại xảy ra. Năm 1211, ba dòng họ phong kiến lớn đã nổi dậy. Đó là họ Đoàn ở Hải Dương, Hải Phòng; họ Trần ở Thái Bình, Nam Định và Nam Hưng Yên; họ Nguyễn ở Hà Tây. Triều đình nhà Lý chỉ còn kiểm soát được Thăng Long và các vùng lân cận. Trong khi đó vua Lý Huệ Tông không có con trai. Năm 1225, ông đã nhường ngôi cho con gái thứ là Chiêu Thánh, còn mình là Thái Thượng Hoàng. Lúc này Lý Chiêu Hoàng mới có 7 tuổi. Vì vậy, mọi quyền hành trong tay triều đình đều nằm trong tay viên quan diện tiền Trần Thủ Độ. Dòng họ nhà Trần lúc này đã chiếm giữ một vị trí trọng yếu trong triều đình. Cuối cùng ngày 12 tháng chạp năm ất Dậu (11/1/1226) dưới sự chỉ đạo
  2. của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng tuyên bố nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, Trần Cảnh lên ngôi lấy hiệu là Trần Thánh Tông. Triều Trần chính thức được thành lâp, thực sự thay thế nhà Lý trên vũ đài chính trị, nắm quyền điều hành đất nước từ 1226 đến 1400. Nhà Trần đã thay thế nhà Lý và giữa hai triều đại này không có khoảng cách về thời gian. Vì vậy có thể thấy rằng: nhà Trần đã tiếp thu mọi thành tựu văn hoá của nhà Lý. Mặc dù vậy với thời gian 174 năm tồn tại xã hội thời Trần cũng có nhiều sự thay đổi. Hơn nữa về mặt nghệ thuật, giữa thời Lý và thời Trần lại có khoảng cách về thời gian. Theo một số tài liệu cho biết: "Sau di tích cuối cùng của thời Lý có niên đại cụ thể là chùa Linh Xứng năm 1126, nếu chỉ bằng vào sử sách thì khoảng hơn một thế ký sau mới thấy di tích có niên đại là chùa Phổ Minh 1262 và lăng Trần Thủ Độ năm 1264, mà thật chắc chắn thì đến thế kỷ XIV mới thấy phổ biến các di tích thời Trần " . Những nét khái quát về xã hội thời Trần ý thức dân tộc ngày càng được khẳng định dưới triều Trần. Nhà Trần thay thế nhà Lý, ổn định trật tự trong nước, các phe phái đối kháng đã thu phục chính quyền trung ương. Bộ máy chính quyền được xây dựng có hệ thống từ trung ương tới các địa phương. Nho giáo tuy chưa phát triển mạnh như Phật giáo, nhưng với cơ sở từ thời Lý sang thời Trần, nhà nước cũng rất chú trọng đến việc học hành, thi cử chọn nho sỹ có tài. Nhiều nhân tài được đào tạo trong thời Trần như Chu Văn An, Lê Văn Hưu, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh ..vv.. Năm 1232, nhà nước cho mở khoa thi Thái học sinh để chọn nhân tài. Chữ Nôm ngày càng được phổ biến rộng rãi hơn. Bên
  3. cạnh Nho giáo, Phật giáo vẫn được phát triển mạnh, kế tiếp truyền thống từ thời Lý. Mặt khác ở thời Trần còn có phái thiền do người Việt Nam sáng lập ra. Đó là phái Trúc Lâm với 3 vị tổ: Trần Nhân Tông- Pháp Loa và Huyền Quang. Phật giáo ngày càng hoà hợp và gần gũi với đời sống dân gian. Chùa tháp vẫn được xây dựng nhiều, trong các làng xã cũng có nhiều ngôi chùa đẹp tuy quy mô không lớn như thời Lý. Về kinh tế, nhà nước chú trọng khuyến khích nông nghiệp phát triển. Quân đội nhà Trần vẫn được tổ chức theo chế độ " ngụ binh ư nông"để góp thêm lực lượng sản xuất nông nghiệp. Kinh tế thành thị cũng song song phát triển kéo theo sự thịnh vượng của kinh tế hàng hoá, giao thông… Tất cả những điều đó đã góp phần làm cho nhà nước phong kiến thời Trần ngày một vững mạnh hơn. Cũng ở thời gian này, ở phương Bắc đế quốc phong kiến Mông Cổ đang phát triển mạnh và tìm cách bành trướng thế lực ra nước ngoài. ở Châu Âu, Mông Cổ đã chiếm từ bờ biển Thái Bình Dương tới Hắc Hải, thậm chí đến cả Đại Tây Dương. Năm 1271 chúng chiếm được Trung Quốc lập ra triều đại nhà Nguyên. Sau đó chúng có ý đồ chiếm Việt Nam và cả vùng Đông Nam á. Suốt từ 1258 đến 1285, 1287 chúng đã 3 lần đem quân đánh chiếm Đại Việt song cả 3 lần đều thất bại nặng nề. Chiến thắng Mông Nguyên một lần nữa đã khẳng định truyền thống yêu nước và ý chí của dân tộc ta. Đồng thời đưa uy tín và ảnh hưởng của nước ta lên cao hơn. Mặt khác, trong xã hội Đại Việt thời đó cũng có nhiều sự thay đổi lớn. Chế độ nông nô, nô tì tan rã, dần dần biến các nông nô thành những người nông dân tự do. Nhà nước chú ý hơn tới việc "nới sức dân để làm kế
  4. sâu rễ bền gốc". Tất cả những điều kiện xã hội đó đã phần nào ảnh hưởng tới sự phát triển mĩ thuật của thời Trần và nhất là tạo điều kiện thuận lợi cho văn hoá nghệ thuật dân gian phát triển, tạo nên đặc điểm riêng biệt cho mĩ thuật thời Trần. 2.2. Một số đặc điểm của mĩ thuật thời Trần 2.2.1. Sự thừa kế những tinh hoa văn hoá thời Lý Nhà Trần kế tiếp ngay sau thời Lý. Vì vậy khi bắt đầu được thành lập, nhà Trần thừa hưởng toàn bộ gia sản văn hoá thời Lý nhất là về mặt kiến trúc. Mãi đến sau kháng chiến chống quân Nguyên Mông, kinh thành Thăng Long bị tàn phá nặng nề đến năm 1289 nhà Trần mới cho xây dựng lại kinh đô. Các công trình kiến trúc từ thời Lý như tháp Báo Thiên, chùa Dạm, chùa Phật Tích… vẫn còn tồn tại sừng sững và đẹp đẽ. Những công trình kiến trúc, những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc từ thời Lý là cơ sở, nền móng cho mĩ thuật thời Trần phát triển. Mĩ thuật có sự thay đổi về phong cách phù hợp với diều kiện, hoàn cảnh xã hội mới. Tuy vậy cũng không thể có ngay một phong cách khác, mà cần có thời gian. Sự chuyển biến về phong cách sẽ diễn ra từ từ trên cơ sở thừa kế những tinh hoa của văn hoá nghệ thuật thời Lý. Điều này có thể thấy rõ qua một số tác phẩm và hình tượng nghệ thuật tiêu biểu, nhất là trong nghệ thuật chạm khắc trang trí. Những đề tài, hình tượng nghệ thuật ít có sự thay đổi. Trong chạm khắc ta lại gặp những nội dung đề tài quen thuộc. Đó là sóng nước, rồng, hoa sen, hoa văn tay mướp, phượng, người chim, mây, mặt trời…. Về hình thức thể hiện cũng có nhiều sự đồng nhất. Hoa văn sóng nước vẫn mang tinh thần
  5. hoa văn hình nấm, cao tầng như thời Lý. Hình rồng trên viên gạch thuộc hoa chùa Hoa Yên – Yên Tử – Quảng Ninh, vẫn mang những nét điển hình của rồng thời Lý như sự đều đặn, uốn lượn nhịp nhàng và sự mềm mại của đường nét. Đề tài rồng được thể hiện trong các mô típ đã được sử dụng nhiều trong mĩ thuật thời Lý như rồng châu vông sáng. Một số hao văn lá vẫn mang tính cách điệu cao như hình lá dương xỉ trang trí trên bệ đá chùa tháp Phổ Minh (Nam Định). Nhìn chung những chạm khắc trang trí thời Trần vẫn mang phong cách mềm mại, nhẹ nhàng, bộc lộ trí tưởng tượng phong phú và tài năng sáng tạo của ông cha ta. Những nét tinh hoa của văn hoá tạo hình thời Lý vẫn trở lại trên các tác phẩm mĩ thuật thời Trần. Phải chăng đó không phải là đặc điểm của mĩ thuật thời Lý mà còn chính là đặc điểm mang tính dân tộc đậm đà của người Việt, mặc dù thời gian có thay đổi. Nói như vậy cũng không có nghĩa là đồng nhất mỹ thuật thời Lý và thời Trần, mà trên cở sở tinh hoa văn hoá Lý, mỹ thuật Trần lại phát triển trong điều kiện xã hội hội có nhiều biến thiên khác với thời Lý. Do đó bên cạnh việc kế thưà về văn hoá, nghệ thuật các nghệ nhân thời trần còn sáng tạo nhiều công trình tác phẩm mỹ thuậtđặc sắc và mang một phong cách riêng của thời Trần. Mặc dù vậy, những nét dân tộc vẫn được thể hiện rõ trong mỹ thuật thời Trần. 2.2.2. Những thay đổi và sáng tạo trong mỹ thuật thời Trần . Nghệ thuật kiến trúc Kiến trúc thời Trần lúc đầu được thừa kế thành tựu kiến trúc thời Lý do đó có nhiều điểm gần với kiến trúc thời Lý. Tuy vậy từ 1262 trở đi,
  6. vớikiến trúc chùa, tháp Phổ Minh, tháp Bình Sơn, chùa Thái Lạc… cùng với các tác phẩm chạm khắc trang trí trên các công trình đó đã bắt đầu bộc lộ phong cách mỹ thuật của thời Trần. Sự thay đổi về quan niệm đã dẫn đến sự thay đổi về vị trí, kiểu dáng các công trình kiến trúc, cách thể hiện các đề tài trang trí mang tính hiện thực phóng khoáng và thoáng đạt hơn. Qua dấu vết còn lại của một số ngôi chùa thời Lý cho thấy các chùa thời Lý thường được xây dựng ở những nơi đất cao và có cảnh đẹp như ở chân núi, trên núi…Vì vậy mặt bằng các chùa thời Lý thường được trải dài trên ba bốn bậc cấp và cao dần. Sang thời Trần, các chùa tháp đượcphân bố rộng rãi trên cả nước, tuy vậy nhiều hơn cả là những công trình được dựng lên ở ven triền sông của vùng đồng bằng như Hà Tây, Hải Dương, Nam Định, Quảng Ninh… Vì lẽ đó, bố cục mặt bằng chùa thời Trần cũng có thể có nhiều kiểu. Chùa Yên Tử, trung tâm của phái Trúc Lâm tam tổ được xây dựng trên núi, do đó phải bạt núi để xây dựng thành cụm chùa riêng theo từng cấp bậc. Lối kiến trúc này gần giống với lối kiến trúc của chùa Phật Tích, chùa Dạm thời Lý. Tuy vậy, còn có thể có bố cục theo kiểu " nội công ngoại quốc" có nghĩa là 3 toà Tiền Đường,Thiên Hương, Thượng Điện được sắp xếp theo kiểu chữ công ( ) hành lang bao quanh giống như chữ quốc ( ). Kiểu bố cục mặt bằng này sẽ gặp hiều hơn trong kiến trúc các thời kỳ sau. Qua đó cho thấy có những thừa kế và sự sáng tạo trong phong cách mỹ thuật thời Trần. Cùng với kiến trúc thời Lý, kiến túc thời Trần đã làm phongphú thêm, hoàn chỉnh thêm kiến trúc Phật giáo nói riêng và đóng góp cho kho tàng kiến trúc dân tộc nhiều công trình có giá trị cao.
  7. Tháp thời Trần được xây dựng theo kiểu tháp vuông 4 mặt, có nhiều tầng, nhỏ dần về phía ngọn. Tầng dưới cùng thường cao nhất có thể từ 2 đến 2,2 m. Bề ngoài thường được trang trí bằng nhiều hình tượng. Tháp có hai loại thờ Phật, thờ Tổ và tháp có đặt xá lị của các sư tổ ( tháp mộ). Đứng ở dưới đất ngước nhìn lên, ngọn tháp như vươn tới trời cao. Cây tháp như nét nối giữa trời và đất. Từ đó, những điều cầu nguyện, những mong muốn sự tốt lành cho con người sẽ đến được với Đức Phật. Có thể vì lẽ đó, mà tháp thường đứng với kiến trúc chùa và có chiều cao hơn ngôi chùa rất nhiều. Căn cứ trên các ngôi tháp còn lại ở thời Trần như tháp Phổ Minh, tháp Bình Sơn… thì chiều cao của tháp thường gần bằng hoặc bằng chu vi chân tháp ( có nghĩa là tỷ lệ giữa các cạnh đáy và chiều cao xấp xỉ tỉ lệ 1/4 ). Cùng với kiến trúc Phật giáo, trong thời Trần hai loại kiến trúc cung đình và kiến trúc lăng mộ cũng rất khá triển. Năm 1289, nhà Trần cho xây dựng lại kinh thành Thăng Long. So với thời Lý, kinh thành Thăng Long thời kỳ này đựơc mở mang thêm nhiều đường phố, xây dựng thêm nhiều cung điện, lầu gác. Trước đó,( năm 1253) nhà Trần cho mở Quốc Học Viện đẩy mạnh việc thi cử, học hành. Ngoài ra, ở vùng quê hương Nam Định còn xây dựng phủ Thiên Trường với quy mô tương đối lớn trong thời gian từ 1262 đến 1264. Ngày nay các nhà khảo cổ còn tìm thấy nhiều dấu vết của khu cung điện đó. ở đây có khu Trùng Quang được to lớn và đẹp đẽ được Trần Nguyên Đán ví như cung điện nhà Hán, ngoài ra còn có nhiều cung điện làm chỗ nghỉ và làm việc cho các vua, các Thái Thượng Hoàng. Nơi đây có trường học, chùa Tháp Phổ Minh… Tất cả các công trình
  8. đó làm cho phủ Thiên Trường trở thành nơi đô hội sầm uất, thịnh vượng của nhà Trần. Cuối thời Trần, lợi dụng sự suy yếu của giai cấp thống trị của nhà Trần, Hồ Quý Ly đã nuôi âm mưu cướp ngôi của nhà Trần. Năm 1397, Hồ Quý Ly đã ép vua Trần Thuận Tông dời đô về Vĩnh Lộc – Thanh Hoá và xây dựng ở đây một kinh đô mới, đó là thành Tây Đô. Năm 1400, khi đã lên ngôi, Hồ Quý Ly vẫn coi đây là kinh đô cho nước Đại Ngu của mình. Kiến trúc cung đình thời Trần có 3 công trình lớn như kinh thành Thăng Long, Phủ Tây Đô và Phủ Thiên Trường( Nam Định). Ngoài hai thể loại kiến trúc cung đình và kiến trúc Phật giáo, thời kỳ này đã bắt đầu có những kiến trúc lăng mộ của các vua hoặc quan lớn như: Trần Thủ Độ cũng được xây lăng ở Hưng Nhân ( Thái Bình ) . Mặc dù vậy về kiểu dáng cũng chưa có gì đáng kể. Phần lớn các lăng ngày nay đã bị tàn phá, không còn được nguyên vẹn và việc xác định vị trí lăng rất khó. Tài liệu thì không còn nhiều, tuy vậy cũng có một số tài liệu nhắc đến khu lăng mộ của Trần Thủ Độ ở Thái Bình, lăng vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiển Tông ở An Sinh - Đông Triều – Quảng Ninh… . Nghệ thuật điêu khắc: Thời kỳ này điêu khắc vẫn gắn liền với kiến trúc, đi cùng kiến trúc và mang đặc điểm phong cách phù hợp với kiến trúc. Đi với kiến trúc chùa tháp có tượng Phật, tượng sấu, tượng rồng. Với lăng mộ có tượng quan hầu, tượng thú vừa mang tính chất trang trí cho lăng mộ vừa là người canh gác, hậu cần giữ cho trang nghiêm, tĩnh lặng của ngôi mộ
  9. tạo sự bình yên cho linh hồn người đã khuất. Nếu các bức tượng phù điêu còn lại của thời Lý tập trung nhiều ở chùa Phật Tích, chùa Dạm…thì ở thời Trần các tác phẩm tìm được lại tập trung ở các khu lăng mộ là chính. Trong số những tác phẩm điêu khắc còn lại của thời Trần có rất nhiều tượng đá. Tượng Phật thì hầu như chưa tìm được tác phẩm nào, nhưng bệ đá hoa sen thì lại tìm được khá nhiều như bệ đá chùa Ngọc Đình (1374), chùa Bối Khê (1382)… Theo nhiều nhà nghiên cứu mĩ thuật thì những bệ đá hoa sen có thể là bệ tượng Phật hoặc để bày đồ lễ và thường được đặt ở vị trí tôn nghiêm nhất trong chùa. Bệ đá hoa sen thường được thể hiện là một khối chữ nhật, phần trên cùng chạm hai lớp cánh sen, phần tiếp theo thu nhỏ lại, bốn góc tạo hình bốn con chim thần. Các mặt chia ô chạm rồng, mây, hoa, lá… Dưới cùng là bế đệ Trong một số lăng mộ của vua quan thời Trần có những con vật gần gũi với đời sống người dân như con trâu, con chó… bên cạnh những đề tài chính thống khác như tứ linh… Mặc dù vậy ngay cả trong những pho tượng thể hiện đề tài chính thống vẫn bắt gặp những nét dân gian, chất hiện thực sinh động và biểu hiện cảm xúc mạnh mẽ. Trên các pho tượng thời Trần, trang trí hoa văn đơn giản và bớt đi nhiều so với thời Lý. Các tác phẩm chạm khắc, trang trí vẫn thể hiện những đề tài quen thuộc như : rồng, mây, sông nước, hoa lá… Tuy vậy cũng có một số thay đổi như đề tài thể hiện tổng hợp: đầu rồng, sừng tê, ngọc báu… Hình tượng các cô tiên dâng hương, dâng hoa đều thể hiện trong hình thức nửa
  10. người, nửa chim rất phong phú và sinh động. Hình tượng này gặp nhiều trong các trang trí ở chùa Lạc Thái – Hải Hưng. Mật độ các hoa văn trang trí thoáng hơn, đường nét bớt sự đều đặn và phóng khóang hơn. ở một số nơi còn trang trí các đề tài mang đậm chất dân gian như tác phẩm: " Dê, hoa, lá" ở bệ tượng phật chùa Bối Khê (1382) – Hà Tây. Hình tượng rồng mặc dù về cơ bản vẫn giữ nhiều nét kế thừa rồng thời Lý song trong cách thể hiện lại có nhiều sự thay đổi. Các uốn khúc không còn đều đặn, thoăn thoắt mà khúc doãng, khúc mau tạo sự sống động và hiện thực cho con rồng thời Trần. Những nét mềm mại trong con rồng thời Lý bớt đi nhiều, thay vào đó là nét mập mạp, khoẻ khoắn và cứng cáp hơn. Một vài chi tiết như chân, đầu móng rõ ràng khúc chiết hơn. Có thể so sánh ở nhiều tác phẩm, nhiều thể loại nghệ thuật để thấy rõ sự thay đổi trong phong cách sáng tạo của thời Trần dựa trên những cơ sở tinh hoa nghệ thuật được tiếp thu của thời Lý. Đặc điểm này bộc lộ rất rõ trong mỹ thuật thời Trần. .Nghệ thuật hội hoạ: Bên cạnh những tác phẩm chân dung mang tính chất lý tưởng như bức tranh chân dung 72 người học trò vủa Khổng Tử, thời Trần còn có bộ tranh chân dung của những người có công trongcuộc kháng chiến chống quan Nguyên Mông. Những bức tranh đó được tập trung trong bộ " Trung hưng thực lục". Trong đó có ghi rõ tiểu sử, chép truyện và vẻ hình. Đây là một bộ sách có giá trị lịch sử và giá trị nghệ thuật cao. Song rất tiếc là đến nay vẫn chưa tìm thấy được tranh, mà chỉ lưu truyền những câu thơ vua ban khi tặng tranh. Qua đó chúng ta biết
  11. được một di sản văn hoá của dân tộc rất quý giá mặc dù không thể thưởng thức trực tiếp được. Những bài thơ đó chứng tỏ một điều rất rõ ràng là cùng với sự phát triển của kiến trúc và điêu khắc thời Trần cũng có nhiều tác phẩm đánh dấu sự phát triển của hội hoạ. Cuối thế kỷ XIV, tình hình suy yếu của nhà Trần làm nảy sinh mưu đồ phản loạn, vì thế vua Trần cho vẽ tranh "tứ phụ" nêu gương bốn người có công giúp vua dựng nghiệp lớn như: Tô Hiến Thành, Chu Công Hoắc Quang và Gia Cát Lượng . Năm 1394, vua ban tặng cho Hồ Quý Ly và mong Hồ Quý Ly sẽ noi theo tấm gương của những trung quân này. Bộ tranh chân dung này có lẽ cũng được vẻ theo lối tượng trương, mang tính lý tưởng hoá. Năm 1396, nhà nước cho ban hành tiền giấy. Trên các đồng tiền giấy đầu tiên có vẽ hình công, sóng nước, mây, phượng, rồng, tuỳ theo giá trị tiền từ 10 đồng đến 1 quan tiền. Điều này cũng phần nào cho biết rõ thêm về hình vẽ thời Trần. Ngoài ra qua thơ còn cho biết số tranh vẽ của thời kỳ này như bài: " Đề Đường Minh Hoàng dục mã đồ " trong Hoàng Việt thi văn tuyển ( Hà Nội- 1957 trang 75). Qua bài thơ chúng ta cảm nhận được nội dung đề tài của bức tranh và sự thông cảm của tác giả trước nổi khổ của nhân dân. Bài thơ vịnh tranh vẽ con Hạc vừa bay vừa quay đầu lại cũng gồm bốn câu. Hai câu đầu nhà thơ cho thấy hình vẽ trong tranh đó là: " Phất phơ rặng trúc, đá một toà - Thung thăng vỗ cánh biếng bay xa". Hai câu thơ sau bộc lộ sự triết lý, sự suy tư của nhà thơ trước hình tượng trong tranh vẽ, liên hệ với cuộc sống cách ứng xử trong cuộc đời: " Ngoảnh cổ quay đầu không phòng nạn – E khi trước mắt lưới giăng ra"
  12. Thời Trần đã trôi quakhá lâu, sốlượng tác phẩm không còn nhiều. Tuy vậy, qua nhiều nguồn tư liệu và sự dày công nghiên cứu của nhiều nhà lý luận mỹ thuật cũng làm rõ những thành tựu về các mặt kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ thơì Trần. Qua đó thế hệ cháu con cảm nhận được giá trị và phong cách nghệ thuật của ông cha qua các thời kỳ lịch sử. Thời kỳ sau tiếp thu, kế thừa tinh hoa của thời kỳ trước. Đồng thời trên cơ sở đó phát triển phù hợp với hoàn cảnh xã hội đương thời. Nếu phong cách mỹ thuật thời Lý bộc lộ rõ tính tư tưởng hoá, mẫu mực, đường nét mềm mại, nhịp nhàng, chau chuốt thì mỹ thuật thời kỳ Trần mang đậm nét hiện thực, sống động, khoẻ khoắn, đơn giản. Mặc dù vậy, cả hai thời kỳ Lý và Trần mĩ thuật Phật giáo đều tiêu biểu. Do đó, dù có sự khác nhau về phong cách mỹ thụât của hai thời kỳ này cũng có nhiều nét tương đồng, biểu hiện nét mỹ thuật dân tộc 2.3. Những tác phẩm mỹ thuật tiêu biểu của thời Trần 2 .3.1. Chùa, tháp Phổ Minh (Lộc Vượng – Nam Định ) Chùa Phổ Minh là một trong nhữmg công trình kiến trúc tiêu biểu của thời Trần. Chùa được xây dựng từ thời Lý, sang thời Trần chùa được xây dựng mở mang hơn. Chùa Phổ Minh nằm trong vùng đất của Phủ Thiên Trường. Năm 1262, khi bắt đầu xây dựng chùa có quy mô khá lớn. Ngày nay, trải qua hơn 700 năm chùa đã được tu sửa nhiều lần. Di tích còn lại là tháp Phổ Minh, một số thành bậc cửa bằng đá chạm rồng, sấu, bộ cánh cửa nhà tiền đường có chạm rồng. Chùa Phổ Minh được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc. Hai bên chùa có hai dãy hành lang, mỗi dãy dài 12 gian . Phía sau chùa còn có
  13. một số công trình nối tiếp nhau thành dãy nhà Tổ, điện mẫu và nhà Tăng. Lối kiến trúc này trở nên quen thuộc và hoàn thiện vào các thời kỳ sau. Trước điện thờ Phật là cây tháp cao 21,20m, đáy hình vuông có cạnh là 5,20m. Chùa Phổ Minh có 14 tầng, tầng dưới cùng cao nhất, các tầng trên thu nhỏ dần lên về phía ngọn. Nhiều viên gạch xây tháp có khắc dòng chữ: " Hưng long thập tam niên" tức năm 1305. Như vậy, cây tháp được xây dựng chừng sau chùa rất nhiều năm. Đặc biệt, ở các tầng trên được xây dựng bằng gạch. Mặt ngoài của viên gạch được chạm hình rồng. Cây tháp vươn cao, màu gạch đỏ nổi bật trên nền cây xanh và in bóng xuống mặt ao phía trước. Tất cả hoà hợp tạo nên một tổng thể hài hoà, cân đối giữa kiến trúc do con người tạo nên và cảnh quan môi trường xung quanh. Tháp Phổ Minh ( Nam Định) Tháp Phổ Minh không những đẹp về tổng thể kiến trúc mà đi sâu vào chi tiết càng thể hiện tài năng kết hợp trang trí với kiến trúc của ông cha ta. Tầng dưới cùng được bắt đầu trang trí bằng hai lớp cánh sen ngửa và úp gợi cho ta cảm giác cây tháp được xây dựng tren một đoá sen. Quanh cửa tháp ở 4 hường, các chân cột góc của tầng dưới cùng được trang trí bằng mô típ hoa, lá, mây cách điệu rất sinh động. ở đây còn kết hợp vẻ đẹp của kiến trúc đá (tầng dưới cùng) và kiến trúc gạch ở 13 tầng trên Tháp Phổ Minh được xây dựng trên một sân nhỏ hình vuông có cạnh 8,7m, xung quanh có xây tường bao, mỗi hướng đều có cửa, thành bậc cửa đều có chạm hình tượng rồng bằng đá hoặc dằp hình tượng sấu
  14. bằng vôi vữa. Tất cả các hình trang trí két hợp với màu gạch đỏ nhân ánh sáng mặt trời, phản chiếu toả sáng tạo cho tháp có một vẻ đẹp riêng biệt. Đến ngày nay chùa tháp Phổ Minh vẫn còn tồn tại, và trở thành một di tích nghệ thuật tiêu biểu cho thời Trần. 2.3.2. Tháp Bình Sơn (chùa Vĩnh Khánh, xã Tam Sơn, huyện Lập Thạch, tỉnh Phú Thọ) Tháp Bình Sơn là một cây tháp đất nung có giá trị nghệ thuật cao, niên đại xây dựng tháp chưa xác định được. Các học giả phương Tây thời Pháp thuộc (tài liệu của Viễn Đông bác cổ ) cho rằng tháp Bình Sơn thuộc nghệ thuật thời Đường thế kỷ IX, X. Nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam cũng xếp tháp Bình Sơn vào thời Lý (XI,XII). Theo Giáo sư Chu Quang Trứ khi so sánh tháp Bình Sơn với tháp thời Lý về các yếu tố ngôn ngữ tạo hình thể hiện qua các hình trang trí, hệ thống con sơn… đã cho rằng phong cách nghệ thuật tháp Bình Sơn xa lạ vời thời Lý, nhưng lại rất quen thuộc với nghệ thuật cuối thời Trần, có cả những nét nghệ thuật thời Lê. Do đó Giáo sư đã kết luận rằng niên đại sớm nhất của tháp cũng phải từ thời Trần và muôn hơn tháp Phổ Minh. Tháp Bình Sơn ( Lập Thạch - Phú Thọ ) Về hình dáng, tháp Bình Sơn gần với tháp Phổ Minh. Cũng là kiểu tháp cao nhiều tầng, bốn đáy, mặt vuông. Đến nay tháp không còn nguyên vẹn, đỉnh tháp bị gãy, chỉ còn 11 tầng, cao 15 m. Cạnh chân tháp là 4,45m. như vậy, nếu ta tính chiều cao theo tỉ lệ tháp Phổ Minh thì tháp Bình Sơn phải cao trên 17m.
  15. Tháp Bình Sơn có kết cấu, cách xây dựng khá độc đáo. Lòng tháp rỗng, vách tháp gồm 2 lớp. Bên trong gồm 2 loại gạch: vuông 22 x 22cm và dại 45 x 22cm. bên ngoài có sự khác nhau giữa phần bệ được xây dựng 6 hàng gạch trơn, các hàng trên có hình trang trí hoa dây, con giống, ô trám. Các tầng tháp đều được ốp bằng gạch nung có trang trí kích thước không đều nhau. Mỗi cạnh đều có lỗ mộng hình thang. Hai lỗ của viên gạch cạnh nhau tạo thành mộng cá. Cách xây dựng với kĩ thuật mộng cá chì là một phương pháp khá độc đáo của ông cha ta. Điều đáng chú ý ở tháp Bình Sơn là vẻ đẹp về màu sắc và hình trang trí. Toàn bộ cây tháp được trang trí kín mặt ngoài bằng hệ thống hoa văn phong phú như hình rồng, sư tử , hình vòng sáng nhọn đầu, cánh hoa sen, hoa cúc bố cục thành dây…. Ngoài ra còn nhiều hình vẽ tay trên gạch ốp ngoài tháp rất hồn nhiên, tạo hình đơn giản như mặt người, hình voi… thể hiện thẩm mỹ dân gian rõ nét. Nét vẽ rất phóng khoáng, thoải mái. ở cửa ra vào tầng một có trang trí hình rồng rất gần với rồng thời Lý. Tuy vậy uốn khúc tự nhiên hơn. Đầu rồng không có đầy đủ chi tiết mà rồng Lý đã có. Tháp có màu đỏ của gạch nung già. Trong đất làm gạch có nhiều thành phần, do đó tạo cho tháp có nhiều màu phong phú. Ngày nay cây tháp Bình Sơn vẫn đứng một mình giữa vùng đồi càng làm tăng thêm vẻ đẹp trong các kiến trúc nhiều tầng của người Việt Cổ. Trong thời Trần còn có nhiều ngôi chùa khác cũng nổi tiếng: đó là chùa Dâu (Thuận Thành – Bắc Ninh), chùa Bối Khê (Tam Ưng – Thanh Oai – Hà Tây) chùa Thái Lạc (Lạc Hồng – Văn Lâm – Hưng Yên). Ngoài ra trong kiến trúc tôn giáo thời Trần còn có hệt hống chùa là trung tâm phái Trúc Lâm Tam Tổ ở vùng Yên Tử – Quảng Ninh. Nơi đây ngày
  16. nay đã trở thành một di tích văn hoá nổi tiếng thu hút nhiều khách tới tham quan, chiêm ngưỡng tài năng kiến trúc cổ của ông cha ta. Các chùa kể trên đều có bố cục mặt bằng theo kiểu nội công ngoại quốc và đến nay di tích còn lại của thời Trần rất ít. Trong số các ngôi chùa này có hai ngôi chùa thờ Pháp Vân, một trong cụm chùa tứ pháp, một trong thứ tôn giáo thờ các lực lượng thiên nhiên của các cơ dân nông nghiệp trồng lúa nước. Hai cụm chùa còn lại thờ các tổ của phái thiền Trúc Lâm. Như vậy, bên cạnh tôn giáo đạo phật từ nước ngoài truyền vào, ở thời Trần có một hệ thống Phật giáo mang tinh thần dân gian, dân tộc nghệ thuật rất phát triển. Bên cạnh những ngôi chùa do nhà nước xây dựng như chùa tháp Phổ Minh còn có một hệ thống chùa làng xã hội do dân chúng bỏ tiền ra xây dựng. Những công trình kiến trúc với quy mô vừa phải đã gắn bó với đời sống cộng đồng dân cư, giúp dân chống giặc ngoại xâm, cầu mưa thuận gió hoà cho đời sống nhân dân dễ, dàng thuận lợi. 2.3.3. Tượng ở lăng mộ Tượng hổ lăng Trần Thủ Độ ( Hưng Nhân – Thái Bình) ở thời Trần bên cạnh các lăng vua, còn có lăng một số viên quan đóng góp nhiều cho triều đình, Trần Thủ Độ là một trong số đó. Ông là người mưu lược cao sâu, khi nói về thời Trần mà không nhắc đến Trần Thủ Độ là một thiếu sót lớn. Lăng của ông được xây dựng từ năm 1264. Theo nhiều tư liệu, ở lăng Trần Thủ Độ có tượng tứ linh cuả trời. Đó là tứ linh chỉ phương hướng, hay nói cách khác đó là bốn vị thần chỉ phương hướng: Bạch Hổ ở Tây; Thanh Long ở phía Đông; Chu Tước ở phía Nam và Huyền Vũ ở phía
  17. Bắc. Trong Kiến văn tiểu lục Lê Quý Đôn trong đã xác nhận ở đây có tượng hổ, tượng chim, dơi và bình phong bằng đá. Tượng hổ là một trong những pho tượng còn nguyên vẹn tới nay. Tượng hổ có kích thước dài 1,43m cao 0,75m rộng 0,64m và được diễn tả trong tư thế nằm nghỉ ngơi, chân thu về phía trước, đầu ngẩng cao.Các nghệ sỹ thời Trần đã sáng tạo hổvới hình khối đơn giản, chọn lọc, đường nét khoẻ, dứt khoát. Khối đuôi được thể hiện thành khối chữ nhật, đường nét thẳng, sắc đã tạo thế vững chải cho hình tượng hổ. Tựơng không lớn, tuy vậy bằng sự kết hợp tài tình các yếu tố khối, đường nét, dáng…đã tạo vẻ ung dung, đường bệ và hoành tráng cho bức tượng. Cách thể hiện mang đậm tính chất dân tộc và tính cách của con người Việt Nam. Tượng hổ thể hiện sức mạnh, song đó là một sức mạnh tiềm ẩn dưới vẻ ngoài trầm lặng, hiền lành. Bằng dáng vẻ ung dung thư thái, sức mạnh dường như được tăng lên rất nhiều. Điều này càng cho thấy tài năng ông cha ta khi tìm một hình thức phù hợp để biểu hiện ý tưởng sáng tạo một cách sâu sắc nhất. " Ngoài ra cùng với sự trau chuốt, nuột nà của hình khối và đường nét, những đường chải mượt tinh tế của bờm tóc, những đường vằn đều đặn trên ức đóng vai trò của những hoa văn trang trí càng khiến cho cái dũng mãnh của nó trở nên ung dung, đường bệ". Lăng Trần Hiến Tông được xây dựng vào giữa thế kỷ XIV, ở đây tìm được một số tượng thú như: tượng trâu, tượng chó bằng đá và hai pho tượng quan hầu
  18. Tượng trâu, tượng chó đều được diễn tả trong tư thế nằm, đầu cúi. Toàn thân đặt trên bệ đá gắn thành một khối. Khối và đường nét đều thu gọn trong bố cục hình e – líp hoặc hình chữ nhật ( tượng trâu). Cả hai pho tượgn kích thước đều nhỏ, tượng chó dài 0,54m tượng trâu dài khoảng 1m, hai pho tượng đều thể hiện con vật trong trạng thái tĩnh lặng. Song sự phong phú về đường nét, hình khối đã tăng hình ảnh động cho pho tượng. Hai pho tượng hai cách tạo khối khác nhau nhưng đều chungmột phong cách một tinh thần biểu cảm, đó là sự đơn giản, chân thực, chặt chẽ. Ngay cả việc chọn con trâu, con chó đặt trong lăng vua cũng thể hiện tinh thần và phong cách mỹ thuật thời Trần. Nghệ thuật tạo hình mang theo quan niệm thẩm mỹ dân gian, bộc lộ ngay ở việc chọn nội dung đề tài sáng tác. Đề tài ở lăng Trần thủ Độ mang nặng tính chính thống , tuy cách thể hiện sống động chân thực đơn giản. Còn ở lăng Trần Hiến Tông tính chất dân gian bộc lộ cả nội dung và hình thức thể hiện, ở đây ta bắt gặp cái đẹp khoẻ mạnh, thực thàchats phác, khác hẳn vẻ đẹp mang tính khái quát cao như tượng hổ ở lăng Trần Thủ Độ. Cùng với tượng trâu, tượng chó còn có hai tượng quan hầu, lúc bắt đầu tìm được cả hai pho tượng đều mất đầu. Một trong hai pho tượng hiện còn ( trừ đầu) cao 1,3m. Tượng được tạo ra từ một khối đá hình chữ nhật, tay bó vào thân tạo khối khoẻ, chắc chắn. Nói chung các tượng đều được thể hiện với khối tròn đóng kín, đường nét thẳng, dứt khoát, tượngtrong dáng đứng cân đối vững vàng, bố cục hướng vào điểm trung tâm. Những nếp áo sóng chạy dọc theo tay, thân đã phá vỡ ấn tượng về bề mặt rộng của mảng khối lớn và đó cũng là những nét trang trí chobức tượng. Toàn bộ pho tượng trong thế tĩnh lặng, trang nghiêm
  19. rất phù hợp với không khí tĩnh mịch của ngôi mộ. 2.3.4. Một số bức chạm khắc tiêu biểu Những bức chạm khắc nổi tiêu biểu của thời Trần tập trung ở chùa Thái Lạc (Lạc Hồng – Văn Lâm – Hưng Yên), chùa Bối Khê, chùa Dâu, chùa Hoa Yên…. Đề tại tập trung diễn tả là rồng, phượng, mây, sóng nước, hoa lá, chim muông, tiên dâng hương hoa. Nhạc công cưỡi phượng chạm trên cốn ở toà thượng điện chùa Thái Lạc Đây là một trong những bức chạm trên gỗ tiêu biểu của thời Trần. Tác phẩm thể hiện các nhạc công đang biểu diễn trên nhiều nhạc cụ như sáo, nhị…. Toàn bộ bức chạm sử dụng những đường nét cong mềm mại. Khối nổi thay đổi phong phú giữa mảng người, chim và nền toạ hiểu quả ánh sáng rất sinh động. Hình tượng chim phượng được thể hiện rất to. khoẻ và đơn giản. Hình mây nấm linh chi xen kẽ làm nền cho các nhân vật tạo sự bay bổng cho các hình tượng. Sự thay đổi về mảng to, nhỏ rất phong phú. Các nghệ nhân đã rất chú ý đến tương quan giữa mảng và khoảng trống trên nền một cách cân đối. Đường nét phóng khoáng, thoáng hơn so với chạm nổi thời Lý. Độ nổi của hình tượng không cao, song các nghiệ nhân đã tạo nhiều mảng vênh. Khi ánh sáng chiếu và, các hình tượng sẽ động hơn và nổi khối hơn. Tất cả toát lên vẻ đẹp cân đối, hài hoà của mảng, nét và khối hình. Bố cục hiện hình tượng con người thường không chú ý đến tạo dáng sống động cho hình tượng.
  20. .Bia chùa Hàn ( Xã Nhật Tân – Tứ Lộc – Hải Dương) Bia được làm bằng đá và có chiều cao là 1,50m, rộng 0,80m, được đặt trên lưng một tường rùa đá. Một mặt bia được khắc một bài văn dài, mặt kia có khắc chữ Phật lớn. Đây chính là một tác phẩm nghệ thuật, Chữ được quy trong khung chữ nhật, xung quanh là diềm bia được trang trí hình rồng. Mỗi con rồng bố cục trong hình nửa lá đề được sắp xếp nối tiếp nhau. Chính giữa trán bia chạm một hình mặt trời toả sáng, xung quanh là những bông hoa xen kẽ mô típ cỏ linh chi. Dưới chân là một hàng sóng nước cách điệu cao và gần với phong cách hoa văn sóng nước của thời Lý. Dưới chữ Phật ( ) là một nét ngang đậm như làm bệ cho chữ, tôn sự vững chắc, bề thế cho chữ. Đặc biệt ở hai góc dưới các nghệ nhân đã khắc một bên là lá phướn đang bay trên đầu một chú cò. Bên kia là hình quỷ đội đỉnh đang cháy, bước đi trên con đường gồ ghề. Toàn bộ tác phẩm "chữ" này được bố cục một cách chặt chẽ, song vẫn thoáng và nêu được quan niệm của nhà Phật về thế giới, vũ trụ và cách sống của con người, quan hệ nhân quả ở hiền gặp lành (hoặc ngược lại)… .Hình chạm trên ngai gỗ chùa Thầy (xã Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Tây ) Mảnh gỗ lưng ngai ở chùa Thầy được chạm một đê tài rất đặc biệt. ở đây là sự kết hợp nhiều hình tượng. Hình chạm nằm trong bố cục gần lá đề hay vòng sáng. Dưới cùng chạm sóng nước nhiều lớp ẩn hiện nhấp nhô sống động. Nhô lên từ mặt nước là hai đầu rồng với bờm mềm mại bốc lên cao. Đó chính là hai chiếc rìu thố, đầu rìu hình rồng. Chính giữa ngay hai sừng bắt chéo nhau ôm trọn những quả tròn xếp thành
nguon tai.lieu . vn