Xem mẫu

  1. MỸ THUẬT ĐÔNG KINH - LAM KINH: RỪNG RỰC RỒNG - MÂY ĐAO LỬA - HÀO KHÍ THỜI LÊ SƠ
  2. Ngay từ khi lên ngôi Lê Lợi vẫn lấy tên nước là Đại Việt, đổi tên thành Thăng Long là Đông Kinh. (Cuối thời Trần Thăng Long đổi là Đông Đô. Thời thuộc Minh đổi là thành Đông Quan. Năm1430 Lê Lợi đổi Đông Quan là Đông Kinh (đối lại với Tây Kinh hay Lam kinh). Nghệ thuật Kiến trúc, Điêu khắc và Trang trí thời Lê Sơ gắn với: xây dựng cung đình lầu gác, của nhà vua và hoàng tộc, dinh thự quan lại ở trung ương và địa phương phục vụ vương triều. Các công trình Kiến trúc – nghệ thuật tạo hình vương triều tập trung ở hai khu vực: Đông Kinh (tức Thăng Long) và Tây Kinh (Lam Kinh).
  3. Mỹ thuật Đông Kinh: Thành Đông Kinh, nhà Lê Sơ vẫn giữ nguyên bố cục thành Thăng Long (thời Lý – Trần). Các cung điện trong thành Đông Kinh ngoài xây dựng mới, chủ yếu tu bổ trên cơ sở cũ. Cho xây dựng và tôn tạo nhiều cung điện lớn như: điện Kính Thiên (dựng 1428 ngay trên nền điện cũ thời Lý - Trần), điện Cần Chánh, điện Vạn Thọ có tiếng thời bấy giờ. Các triều sau lại xây thêm các công trình khác như các điện: Hội Anh, Cần Đức, Tường Quang, Giảng Võ, Thủy Ngọc, Thừa Hoa, Kim Loan, Bảo Quang. Văn Miếu được đầu tư sửa sang, tu bổ mở mang phục vụ nhu cầu thời đại (phát triển Nho), dựng 11 tấm bia đá Tiến sĩ ở Văn miếu. Các triều sau dựng tiếp. Năm 1483-1484 Lê Thánh Tông cho mở rộng thành trường đại học lớn hơn trước. Có điện Đại Thành thờ Khổng Tử, và thờ các bậc tiên Nho. Khu bia đá nêu danh các Tiến sĩ, được làm vào các năm: 1484, 1487, 1486 và 1513, 1521. Qua các vương triều tôn tạo hiện nay còn thấy 82 bia tiến sĩ ở Văn Miếu (Hà Nội). Năm 1465 Lê Thánh Tông lại cho sửa sang lại điện Kính Thiên đẹp hơn. Năm 1467 quân ngũ phủ được lệnh xây và sửa chữa Hoàng Thành. Năm 1474 triều đình cho sửa chữa phía Tây Thành trong. Năm 1477 sửa chữa Thành ngoài. Năm 1490 Lê Thánh Tông cho đắp Thành trong rộng 8 dặm ra phía ngoài trường đấu võ đài, trong 8 tháng. Năm 1499, lại cho xây tường phía Đông. Trong việc sửa sang và mở
  4. rộng Thành, Lê Thánh Tông giao cho tiến sĩ Vũ Hữu tính toán đo đạc. Thời Hồng Đức triều Lê Thánh Tông việc xây dựng được quy định rất rõ ràng. Nói chung, kiến trúc thời Lê Sơ có những bố cục theo khuôn mẫu, gợi vẻ trang nghiêm song kém phần đồ sộ, bề thế so với thời Lý, Trần. Cũng tùy theo mức độ quan trọng mà kiến trúc Lê Sơ có kích thước to, nhỏ khác nhau. Các trụ sở to của triều đình là 5 gian, 2 chái. Thường là 3 gian 2 chái. Kiến trúc Lăng mộ quy mô cũng không to bằng thời Lý - Trần. Các triều cuối của Lê sơ đặc biệt là Lê Tương Dực do ăn chơi sa đọa còn cho xây dựng các lầu gác phục vụ mục đích đó. Kiến trúc dân dã với tường xây đất, mái lợp gianh. Kiến trúc cung đình triều Lê Sơ trải qua thời gian và biến động của lịch sử, bị mất mát rất nhiều. Hiện nay chỉ còn lại mặt bằng phế tích và một số di vật. Với thành Đông Kinh xin dẫn hai di tích, qua đó thấy lại hiện tồn của Mỹ thuật Lê Sơ. Đó là: Thành bậc đá Đàn Nam Giao (ở Thái ấp Hà Nội) dựng vào thời niên hiệu Hồng Đức (1470-1497) có kích thước: (ngang 3m. dọc 2,60m, cao 1,30m). Thành bậc đá được tạo là những dải khối cuộn, uốn khúc (trừu tượng hình rồng). Trang trí mặt ngoài của thành bậc là các mảng chạm hình mây xoắn, trong đó đôi chỗ vút lên hình mũi đao dài như dáng ngọn lửa. Khung tam giác vuông phần dưới có viền hình hoa chanh. Trong khung chạm đề tài dân dã như: “Đôi vịt bơi”, “Cá hóa Rồng”, “sóng nước”. Thành bậc đá điện Kính Thiên (ở trong thành Hà Nội) có
  5. kích thước: (ngang 14m, dọc 4,45m, cao 2,10m), niên đại 1467 thời vua Lê Thánh Tông. Gồm 4 dải thành bậc, chạy dài suốt 9 cấp từ dưới đất lên thềm điện, tạo thành ba lối lên điện. Nghệ thuật điêu khắc đá còn tương đối nguyên vẹn. Lối lên chính giữa là hai hình Rồng uốn khúc, bò từ trên nền thềm điện xuống. Đầu Rồng to nhô cao, có hai nhánh sừng, mắt lồi, bờm mượt cuộn ra sau. Lưng Rồng nhô hình vây nhọn theo khúc uốn. Một tay Rồng cầm lấy râu. Hai dải thành bậc (tạo lối lên hai bên) được chạm thành khối cuồn cuộn nhịp nhàng (phỏng theo khúc uốn của hình Rồng). Mặt dựng mé ngoài thành bậc trang trí bằng chạm khắc các hình mây xoắn vút lên hình mũi đao dài hình ngọn lửa. Chúng tôi gọi là mây hình đao lửa, là mô típ trang trí điển hình thời Lê Sơ. Khung tam giác vuông có viền hình hoa chanh, trong khung chạm hoa lá cách điệu với đặc trưng riêng. Nét chạm sắc sảo, điêu luyện của nghệ thuật chạm khắc đá cổ truyền. Mỹ thuật Lam Kinh: Lê Thái Tổ không những xây dựng Đông Kinh còn chú trọng cho xây dựng, sửa sang vùng Lam Sơn. Đó là mảnh đất quê hương Hoàng tộc của Lê Lợi, và là nơi tụ nghĩa, của nhiều anh hùng hào kiệt, nơi phong trào khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược, giải phóng dân tộc. Các vua thời Lê Sơ kế nghiệp đều nghĩ việc xây dựng và tu bổ. Lam Sơn mảnh đất thiêng của dân tộc, trở thành kinh đô thứ hai,
  6. nằm phía Tây. Được gọi là Tây Kinh (Tây Đô hay Lam Kinh - nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân Thanh Hóa). Điện Lam Kinh là công trình xây dựng năm Thuận Thiên 6, tức năm 1433, ngay sau khi Lê Lợi mất (1418 - 1433). Cuối năm 1448 làm các cung điện. Năm 1456 sửa 3 cung điện: Quang Đức, Diên Khánh và Sùng Hiếu. Điện Lam Kinh nguy nga, bề thế xây dựng trên triền đồi thoai thoải, được cải tạo thành 3 lớp nền phẳng hình chữ nhật (315m x 256m). Sau các lần bị cháy, đã tu bổ vào thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn, rồi cũng bị đổ nát. Ngày nay còn thấy toàn bộ mặt bằng nền, bốn bề còn những dấu tích thành bao. Lớp nền 1: dài 126m, có cổng ngoài, cổng trong, và sân. Qua khe Ngọc xây Cầu (dài15m), rồi Hồ bán nguyệt. Cổng trong dấu tích còn lại một số tảng đá kê chân cột. Lớp nền 2: dài 65m, đây là nền Điện chính (48m x 37m). Trước nền Điện hiện còn khá nguyên vẹn lối lên điện với Thành bậc của điện Lam Kinh, có kích thước: (ngang 5,6m; dài 4,15m; cao 1,85m). Quy cách và trang trí của 4 thành bậc, chia làm 3 lối lên (giống kiểu Thành bậc điện Kính Thiên). Mặt trước thành bậc với hai hàng Rồng chạm đá làm lối lên chính giữa (rộng 1,9m). Hai lối bên (mỗi lối rộng 1,3m). Trên hai mặt ngoài thành bậc trang trí hoa văn là: những hình mây xoắn cuộn, nổi ở giữa là nét lượn hình đao lửa (gọi là mây hình đao lửa), mang đặc trưng nổi bật và điển hình trong khá nhiều trong trang trí kiến trúc thời Lê Sơ. Bên dưới là khung hình tam giác vuông, có dải khung viền hoa văn hình hoa chanh. Trong khung chạm hoa Sen hoa cúc và lá
  7. cách điệu. Lối chạm sắc nét, điêu luyện, bố cục chặt trẽ của nghệ thuật chạm khắc đá cổ truyền do nghệ nhân thời Lê Sơ tạo nên. Trên mặt nền điện vẫn còn các trụ đá kê chân cột. Còn tìm thấy một số gạch (47cm x 47cm) có trang trí hoa văn hoa lá, Hoặc một số gạch để trơn (47cm x 74cm). Lớp nền 3: dài 65m, gồm 9 nền nhà nhỏ cấu trúc thành hàng ngang (so với khu điện) và giếng nước phía sau. Cạnh khu điện còn có), bia Vĩnh Lăng (tôn tạo lại vào thời Nguyễn, nhà bia xây lại năm 1960, nay vẫn còn cây đa to lớn cổ thụ (ngót 600 năm) ghi nhận năm tháng từng trải của hào khí Lam Sơn. Nghệ thuật Lăng mộ Lam Kinh thờ 6 vị vua, bắt đầu từ Lê Lợi: Vĩnh Lăng 1433 của Lê Thái Tổ (1428 – 1433. Lăng Lê Lợi vị thế trung tâm, nằm riêng hẳn ra phía sau khu điện Lam Kinh, có hai đôi Voi to lớn nằm phủ phục chầu vào. Tiếp tục là Lăng của các vua sau nằm tản sang các bên: Hựu Lăng 1442 của Lê Thái Tông (1434 – 1442), Mục Lăng 1459 của Lê Nhân Tông (1443 – 1459), Chiêu Lăng 1498 của Lê Thánh Tông (1460 – 1497), Dụ Lăng 1504 của Lê Hiến Tông (1498 – 1504), Kinh Lăng 1505 của Lê Túc Tông (1504 – 1505). Nghệ thuật kiến trúc điêu khắc ghi nhận phong cách thời đại vương triều. Còn có các lăng của bà Ngô thị Ngọc Giao (1498), lăng của bà Nguyễn Thị Ngọc Huyền (1505). Bốn vua sau cùng thời Lê Sơ (có lẽ vì lí do nào đó) nên không đưa về Lam Sơn. Đó là: Lê Uy Mục
  8. (dân gọi là Quỷ vương 1505 – 1509), Lê Tương Dực (táng ở Nguyên Lăng 1510 – 1517), Lê Chiêu Tông (táng ở lăng Vĩnh Hưng 1517 – 1522), Lê Cung Hoàng (táng ở lăng Hoa Dương 1522 – 1527). Mô thức chung của các lăng mộ Lam Kinh gồm: phần mộ, đường thần đạo có hai dãy tượng đứng đối xứng. Là năm đôi tượng: Người và thú (Lân, Tê giác, Ngựa, Hổ (hoặc Voi). Tấm bia đặt trên lưng Rùa (trong nhà Bia của mỗi Lăng). Gần khu Lam Kinh còn có đền thờ Lê Lai (gồm kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc, trang trí). Giá trị Mỹ thuật thời Lê Sơ: Hợp thể nghệ thuật Kiến trúc, điêu khắc và trang trí biểu hiện phong cách của triều đại Lê Sơ. Trải qua thời gian và biến động lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật cung đình đã bị mất mát nhiều, chỉ còn lại một số mặt bằng kiến trúc như: điện Kính Thiên, điện Lam Kinh. Nghệ thuật điêu khắc: Đông Kinh (đế đô nhiều triều đại), và Lam Kinh (quê hương hoàng tộc của Lê Lợi, căn cứ địa 10 năm kháng chiến) còn lại ít ỏi. Nay hai khu di chỉ đó còn lại những tác phẩm điêu khắc: Tượng Rồng và chạm khắc trang trí hoa văn thành bậc, hoặc tượng lăng mộ. Có thể hiện vật Lam Kinh vẫn còn nằm trong lòng đất mà chưa được phát hiện? Chẳng hạn: Khi khai quật Khảo cổ học ở Hậu Lâu (1998), Đoan Môn và Bắc Môn (1999), phát hiện loại hình gốm men trắng cao cấp và bình dân với các loại bát, đĩa, bình ở kinh
  9. đô Thăng Long, cùng với phát lộ Hoàng thành trong đầu những năm 2000 bổ sung thêm hiện vật về men và những loại hoa văn trên Gốm của thời Lê Sơ. Các kiến trúc tôn giáo: do chủ trương “Dương Nho, ức Phật”, nên ít xây mới, lấy việc tu bổ làm chính. Chùa chiền về mặt quy mô kiến trúc không có gì đáng kể. Tượng chùa cũng ít hẳn so với thời trước. Chùa, Tháp không dựng mới, mà tập trung tu sửa như: chùa Hoa Yên, tháp Huệ Quang (ở Yên Tử - thời Trần) một trong những trung tâm Phật giáo được chú ý sửa sang, trùng tu thời Lê Sơ. Tên chùa Hoa Yên do Lê Thánh Tông đặt lại trong thời gian này. Một điều rất đáng chú ý về phong cách nghệ thuật là: Pho tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông (đá trắng, cao 0,62m) đặt trong ngôi Tháp trước chùa. Hình tượng Phật Hoàng: đầu trọc, ngồi xếp bằng, hai tay đặt trên đùi, khoác pháp y, để lộ một bên vai. Đây là hình tượng đặc trưng của tượng Phật Trúc Lâm Tam Tổ với tư tưởng nhập thế, mang phong cách thời Trần. Hình trang trí trên bệ tượng: là hình Rồng mào dài, thân uốn khúc mềm mại mang hình thức Rồng Trần. Đây là tượng của thời Trần. Song trên bệ tượng còn có chạm các hình hoa văn trang trí như: hình mây đao lửa, hoa văn hoa sen cánh tròn, dáng nghiêng, cho thấy có sự tham gia trang trí của các nghệ nhân thời Lê Sơ khi trùng tu Tháp. Đó là sự kết hợp nghệ thuật chạm khắc thời Lê sơ vào di tích của thời Trần.
  10. Dựa vào các tư liệu bia ký, ta biết còn được các chùa khác được tu bổ như: năm 1445 với chùa Nghi Tàm (Hà Nội), năm 1470 với chùa Thúy Lai (Hà Tây). Thời Lê Hiến Tông với sự tu bổ chùa Thày khá quy mô. Hiện vật còn thấy là bệ tượng Lý Thần Tông hình lục lăng chạm rồng, mây, và pho tượng Lê Hiến Tông làm vào thời này. Theo truyền thuyết để lại cả hai pho tượng này đều là hiện hóa thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh (Tượng Lý Thần Tông là Từ Đạo Hạnh hóa thân làm con Sùng Hiền Hầu. Tượng Lê Hiến Tông cũng là Từ Đạo Hạnh hóa thân, đáp ứng việc Quang Thục hoàng thái hậu đã từng cầu đảo, sai Trình Quốc Công (Nguyễn Đức Trung) đến cầu ở am Từ Công núi Phật Tích (tức chùa Thày), chiêm bao thấy đến trước mặt thượng đế cầu hoàng tử. Thượng đế phán: “Cho sao Thiên Lộc làm con Nguyễn Thị”. Nói rồi cho ẵm đến ngồi ở trước. Bấy giờ, Trường Lạc Thánh Từ hoàng thái hậu ở cung Vĩnh Ninh tức thì có mang. Đến khi đủ ngày tháng, chiêm bao thấy rồng vàng từ trên trời sa xuống bay vào trong phòng, một lát sau thì sinh ra vua) – (theo Đại Việt Sử Ký bản kỷ thực lục). Các tác phẩm điêu khắc đó ở chùa Thày là thời Lê Sơ. Nghệ thuật Gốm thời Lê Sơ cũng phát triển, nhờ sự tiếp thu kế thừa nghệ thuật thời Lý Trần. Vẽ trang trí trên gốm thường là những hình: Tôm, cua, cá, hoặc những hoa văn hoa lá, hoa sen, hoa chanh, hoa cúc, mây đao lửavẽ trên bát, đĩa…với nét bút phóng khoáng, lanh lẹ. Màu trên gốm thường điểm. Các lò gốm như: Bát Tràng, Thổ Hà sản xuất nhiều loại gốm gia dụng.
  11. Mỹ thuật thời Lê sơ phát triển phù hợp với yêu cầu thời đại. Sự kế thừa tinh hoa Mỹ thuật Lý – Trần, và nghệ thuật dân gian làm gốc dân tộc. Tuy những quy chế khắt khe trong trật tự xã hội do ảnh hưởng của Nho giáo tác động, khiến cho văn hóa Trung Hoa ảnh hưởng đến Văn hóa Nghệ thuật thời Lê. Nhưng truyền thống độc lập dân tộc, hội tụ những đỉnh cao của trí tuệ Đại Việt để phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đưa nền mỹ thuật thời Lê Sơ có phong cách riêng. Những tác phẩm điêu khắc như: tượng Rồng trên thành bậc ở điện Kính Thiên (Thăng Long - Hà Nội), trên thành bậc điện Lam Kinh (Lam Sơn - Thanh Hóa), với Rồng 5 móng sắc nhọn, các hình xoắn trang trí nổi cao trên thân Rồng. Những tượng Quan hầu, những con Vật linh ở hai bên đường thần đạo của các lăng: Lê Lợi, Lê Hiến Tông, Lê Thánh Tông… cùng với những chạm khắc hoa văn trang trí thành bậc các điện, trên các văn bia (Văn Miếu), hoặc trong nghệ thuật dân gian ở chùa… Nổi bật với mây hình đao lửa, và hình tượng Rồng trang nghiêm, râu bờm và sừng nổi cao dũng mãnh uy quyền, mở ra một phong cách thời Lê Sơ khác với các thời trước. Giá trị nghệ thuật không chỉ ở việc sử dụng mà còn là dấu ấn quan niệm thẩm mỹ, mang đặc thù dân tộc và sắc thái dân gian. Những tác phẩm điêu khắc đá: tượng tròn, hay chạm khắc trang trí Điện Kính Thiên (Đông Kinh), cùng Điện Lam Kinh (Tây Kinh), với hình tượng Rồng và các mô típ trang trí Mây đao lửa, hoa văn hoa Chanh, hoa Sen, hoa lá cách điệu … là tiêu biểu của nghệ thuật điêu khắc rừng rực hào khí thời Lê Sơ. Tinh thần đó được
  12. các triều Lê sau phát huy, phát triển, làm nên giá trị nghệ thuật, mang tính nhất quán phong cách Mỹ thuật thời Hậu Lê.
nguon tai.lieu . vn