Xem mẫu

TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2015

MỘT SỐ RÀO CẢN TRONG HOẠT ĐỘNG THỂ LỰC Ở
BỆNH NHÂN TĂNG HUYẾT ÁP TẠI XÃ TRƢỜNG YÊN,
HUYỆN CHƢƠNG MỸ, HÀ NỘI
Nguyễn Hồng Trang*; Hà Trần Hưng**; Vũ Thị Thanh Huyền***
TÓM TẮT
Mục tiêu: khảo sát một số rào cản trong hoạt động thể lực (HĐTL) ở bệnh nhân (BN) tăng
huyết áp (THA). Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 206 BN THA tại
xã Trƣờng Yên, huyện Chƣơng Mỹ, Hà Nội năm 2013. Kết quả: tuổi trung bình 68,0 ± 1,1. BN
nghiên cứu chủ yếu đƣợc phát hiện THA trong khoảng thời gian từ 3 - 5 năm (52,4%). Khoảng
1/3 số BN THA có mức độ HĐTL ở mức tích cực. 30% cho rằng tập thể lực mất thời gian và
bản thân bị mệt; 33% thấy HĐTL là yếu tố gây mệt mỏi; 28,1% cho rằng địa điểm tập xa nhà;
18,5% cho rằng dụng cụ tập không phù hợp và có ít địa điểm tập 15%. Kết luận: mức độ HĐTL
ở BN THA tƣơng đối thấp và bị ảnh hƣởng từ một số rào cản nhƣ bản thân ngƣời bệnh cũng
nhƣ yếu tố gia đình và xã hội.
* Từ khóa: Tăng huyết áp; Hoạt động thể lực; Rào cản.

Barries of Physical Activity among Hypertensive Patients at
Truongyen Commune, Chuongmy District, Hanoi
Summary
Objective: To assesss some barriers of physical activity among hypertensive patients. Subjects
and methods: 206 hypertensive patients at Truongyen commune, Chuongmy District, Hanoi were
surveyed cross-sectionally from January to June 2013. Results: Mean age was 68.0 ± 1.1. The
patients in the study had duration of hypertension from three to five years (accounting for
52.4%). Approximately a third subjects had positive level of physical activity. 30% of subjects
thought that physical activity takes time and themselves were tired; 33% considered physical
activity as factors causing fatigue; 28.1% said that places for doing physical activity was far from
home; 18.5% said that training tools were not suitable and 15% said that there were not enough
training places. Conclusion: The level of physical activity in hypertensive patients was relatively
low and had been influenced by some barriers such as the patients themselves as well as some
factors from families and society.
* Key words: Hypertension; Physical activity; Barriers.
* Trường Đại học Y tế Công cộng
** Trường Đại học Y Hà Nội
*** Bệnh viện Lão khoa Trung ương
Người phản hồi (Corresponding): Vũ Thị Thanh Huyền (vuthanhhuyen11@yahoo.com)
Ngày nhận bài: 10/03/2015; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 15/04/2015
Ngày bài báo được đăng: 08/05/2015

29

TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2015

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tỷ lệ mắc bệnh THA ngày càng tăng,
tạo ra các thách thức cho Ngành Y tế ở
cả nƣớc đã và đang phát triển, do tăng
gánh nặng bệnh tật và chi phí. Theo phân
tích dữ liệu toàn cầu năm 2006, uớc tính
trên thế giới có khoảng 972 triệu ngƣời
THA [6], dự đoán con số này sẽ tăng lên
1,56 tỷ ngƣời vào năm 2025 [6]. Một
trong những biện pháp phòng và điều trị
THA là thay đổi lối sống theo hƣớng tích
cực, làm giảm nguy cơ phát triển bệnh,
bao gồm kiểm soát cân nặng, giảm uống
rƣợu, không hút thuốc và tăng HĐTL [7].
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, HĐTL đƣợc
định nghĩa là bất kỳ hoạt động nào của hệ
cơ xƣơng trong cơ thể làm tiêu hao năng
lƣợng [2]. Các bằng chứng lâm sàng cho
thấy HĐTL giúp giảm huyết áp tâm thu ở
BN THA [1, 2, 7]. Chính vì vậy, Tổ chức
Y tế Thế giới khuyến cáo nên HĐTL với
cƣờng độ trung bình ít nhất 30 phút/ngày.
Mặc dù HĐTL giúp ngăn ngừa và điều trị
THA, đa số cá thể vẫn không thể đạt
đƣợc mức khuyến cáo này. Các rào cản
về HĐTL bao gồm tâm lý, thể lực và tình
trạng bệnh có ảnh hƣởng đến việc HĐTL
ở ngƣời khỏe mạnh lẫn ngƣời THA. Vì
vậy, để áp dụng HĐTL ở BN THA không
chỉ đơn giản là giải thích, đề nghị BN tập
luyện mà còn phải xem xét đến ảnh
hƣởng của tâm lý, xã hội, thể chất và
mức độ bệnh trong việc tập luyện. Tại
Việt Nam, hầu hết các nghiên cứu về
THA tập trung vào thực trạng và yếu tố
nguy cơ, tuân thủ điều trị, chủ yếu là tuân
thủ điều trị dùng thuốc hoặc lồng ghép
vào những nghiên cứu về quản lý BN
THA [1, 2]. Một vài nghiên cứu cũng bắt
đầu quan tâm đến các khuyến cáo khác

30

nhƣ tuân thủ chế độ ăn, luyện tập [5, 6].
Tuy nhiên các nghiên cứu về rào cản
trong HĐTL ở BN THA vẫn còn hạn chế.
Mục tiêu của nghiên cứu này: Khảo sát
một số rào cản trong HĐTL của BN THA
tại xã Trường Yên, huyện Chương Mỹ,
Hà Nội năm 2013.
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tƣợng nghiên cứu.
BN THA (đƣợc chẩn đoán theo Quyết
định số 3192/QĐ/BYT ngày 31/8/2010
của Bộ trƣởng Bộ Y tế) [5] đang điều trị
và quản lý tại Trạm Y tế xã Trƣờng Yên,
huyện Chƣơng Mỹ, Hà Nội đƣợc lựa
chọn vào nghiên cứu từ tháng 01 - 2013
đến 06 - 2013.
* Tiêu chuẩn lựa chọn: BN có trong danh
sách quản lý BN THA tại trạm y tế xã,
đã uống thuốc điều trị THA tại trạm y tế,
đang sinh sống trên địa bàn xã, có khả
năng trả lời phỏng vấn và đồng ý tham
gia nghiên cứu.
* Tiêu chuẩn loại trừ: ngƣời từ chối tham
gia nghiên cứu, ngƣời không đủ tỉnh táo
để trả lời câu hỏi nghiên cứu.
2. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Mô tả cắt ngang.
* Cỡ mẫu nghiên cứu: áp dụng công
thức tính cỡ mẫu cho nghiên cứu mô tả:
Z2(1 – α/2).p.(1 - p)
n=
d2
Trong đó: Z(1 – α/2) = 1,96 (với độ tin cậy
95%, α = 0,05), p: tỷ lệ BN tuân thủ chế
độ HĐTL (theo nghiên cứu của Nguyễn
Thị Hải Yến [6] là 21,9%); p = 0,219, d: độ
chính xác tuyệt đối của p (chọn d = 0,06),

TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2015

Chọn mẫu theo phƣơng pháp ngẫu
nhiên hệ thống. Lập danh sách BN đang
đƣợc quản lý tại Trạm Y tế xã Trƣờng Yên,
dựa theo hồ sơ quản lý bệnh tại trạm y tế
(483 BN, tính đến tháng 2 - 2013). Tính
khoảng cách k = 2,356 (làm tròn 2). Chọn
BN đầu tiên trong danh sách là một số
ngẫu nhiên k bằng 1. Chọn BN tiếp theo
bằng cách lấy số thứ tự của đối tƣợng
đầu cộng hệ số k (k = 2). Nếu BN không
đủ tiêu chẩn, chọn BN có thứ tự ngay
sau đó. Chọn đến khi đủ đối tƣợng nghiên
cứu thì dừng lại.

3 - 6 MET và hoạt động > 6 MET đƣợc
coi là gắng sức ở mức độ nhiều [8]. Hoạt
động tích cực gồm một trong hai tiêu chí
sau đây: (a) Cƣờng độ hoạt động mạnh ít
nhất trên 3 ngày và tích lũy ít nhất 1.500
MET-phút/tuần; (b) Đi bộ kết hợp với hoạt
động cƣờng độ vừa phải trong 7 ngày
hoặc hoạt động mạnh, tích lũy ít nhất
3.000 MET-phút/tuần. Hoạt động trung
bình gồm một trong ba tiêu chí sau đây:
(a) ≥ 3 ngày hoạt động cƣờng độ mạnh ít
nhất 20 phút mỗi ngày; (b) ≥ 5 ngày có
hoạt động cƣờng độ trung bình và/hoặc đi
bộ ít nhất 30 phút mỗi ngày; (c) ≥ 5 ngày
có kết hợp của đi bộ, hoạt động trung
bình, tích lũy ít nhất 600 MET-phút/tuần.
Hoạt động thấp tức là không có hoạt
động nào hay một số hoạt động trong thời
gian rảnh rỗi: đọc báo, xem ti vi, chơi cờ...

Phỏng vấn trực tiếp đối tƣợng nghiên
cứu theo bộ câu hỏi về HĐTL đƣợc thiết
kế sẵn dựa trên bộ câu hỏi về HĐTL quốc
tế đã chuẩn hóa cho Việt Nam (International
physical activity questionnaire - IPAQ) [8] và
thực tế HĐTL tại xã Trƣờng Yên.

* Phân tích xử lý và số liệu: sử dụng
phần mềm SPSS 16.0. Thống kê mô tả
phân bố tần số các biến số, thống kê
phân tích: xác định mối liên quan giữa
mức độ HĐTL và đặc điểm của đối tƣợng
nghiên cứu.

q = (1 - p) = 1 - 0,219 = 0,781, n: cỡ mẫu
nghiên cứu tối thiểu. Thay số vào công
thức tính đƣợc: n = 182,5. Thực tế phỏng
vấn đƣợc 220 ngƣời, tuy nhiên khi kiểm
tra lại số phiếu thấy có 206 phiếu hợp lệ
đạt tiêu chuẩn nghiên cứu.
* Kỹ thuật chọn mẫu:

* Đánh giá HĐTL:
Đánh giá HĐTL bằng năng lƣợng chuyển
hóa tƣơng đƣơng (metabolic equivalents
- MET). MET là tỷ lệ của HĐTL. Cụ thể,
thể hiện tỷ lệ trao đổi chất khi nghỉ ngơi.
Một đơn vị MET là chi phí năng lƣợng
đang ngồi yên lặng (1 kcal/kg/giờ) và oxy
hấp thu khoảng 3,5 ml/kg/phút. Nhƣ vậy,
hoạt động nghỉ tƣơng đƣơng 1 MET, các
hoạt động nhẹ nhàng tƣơng đƣơng với
giá trị từ 1 - 3 MET, hoạt động có cƣờng
độ trung bình tƣơng đƣơng với giá trị từ

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ
BÀN LUẬN
1. Đặc điểm chung của đối tƣợng
nghiên cứu.
Tổng số có 206 đối tƣợng nghiên cứu
(89 BN nam chiếm 43,2%, 117 BN nữ =
56,8%). Tuổi trung bình 68,0 ± 1,1, tuổi
cao nhất 91, tuổi thấp nhất 40. BN trong
nghiên cứu chủ yếu đƣợc phát hiện THA
trong khoảng thời gian từ 3 - 5 năm
(52,4%). 21,4% phát hiện < 3 năm, 26,2%
có tiền sử phát hiện THA > 5 năm.

31

TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2015

2. Mức độ HĐTL chung.
45%
40%
35%
30%
25%
20%
15%

39,8%
33,0%
27,2%

10%
5%
0%
H§TL tÝch cùc

H§TL trung b×nh

H§TL thÊp

Biểu đồ 1: Tỷ lệ HĐTL của đối tƣợng
nghiên cứu (n = 206).
Khoảng 1/3 số đối tƣợng nghiên cứu
có mức độ HĐTL ở mức tích cực, 27,2%
hoạt động ở mức trung bình và có đến
39,8% hoạt động thấp (hay thiếu hoạt
động). Nhƣ vậy, tỷ lệ HĐTL đầy đủ ở
nhóm đối tƣợng này là 60,2%. Hoạt động
đầy đủ ở đây bao gồm hoạt động tích cực
và hoạt động trung bình, có chi phí tiêu
hao năng lƣợng > 600 MET-phút/tuần
tƣơng đƣơng với mức độ tập luyện là đi

bộ tốc độ trung bình 30 phút/ngày trong 7
ngày. Mức độ hoạt động ở đây đƣợc chia
theo phân loại HĐTL của Tổ chức Y tế
Thế giới (2008) thành 3 mức: hoạt động
tích cực, hoạt động mức độ trung bình và
hoạt động mức độ thấp, trong đó hoạt
động mức độ thấp khi có chi phí tiêu hao
năng lƣợng < 600MET-phút/tuần và là
một trong 4 yếu tố nguy cơ của bệnh
không lây nhiễm hiện nay.
Để xác định mối liên quan giữa thực
trạng HĐTL với đặc điểm thuộc yếu tố cá
nhân, yếu tố xã hội, chúng tôi đề xuất
chia HĐTL thành 2 nhóm: nhóm hoạt
động đầy đủ (bao gồm nhóm hoạt động
tích cực và trung bình) và nhóm hoạt
động không đầy đủ (thiếu hoạt động).
Theo thống kê, tần số và tỷ lệ các nhóm
nhƣ sau: hoạt động đầy đủ: 124 BN
(60,2%): thiếu hoạt động: 82 BN (39,8%).
2. Một số rào cản khi tham gia HĐTL
của đối tƣợng nghiên cứu.
* Do bản thân đối tượng nghiên cứu:

Bảng 1: Yếu tố rào cản khi tham gia HĐTL từ bản thân đối tƣợng nghiên cứu (n = 206).
YẾU TỐ RÀO CẢN BN

KHÔNG CÓ Ý KIẾN

KHÔNG ĐỒNG THUẬN

n

%

n

%

n

%

Mất nhiều thời gian

1

0,4

61

29,7

144

69,9

Bản thân thấy mệt

4

1,9

60

29,1

142

69,0

HĐTL quá sức với tôi

1

0,5

27

13,1

178

86,4

Xấu hổ khi luyện tập

1

0,4

32

15,6

173

84,0

Về phía bản thân đối tƣợng nghiên
cứu, một số rào cản ảnh hƣởng đến tham
gia HĐTL nhƣ: mất nhiều thời gian, bản
thân bị mệt, thấy quá sức và thấy xấu hổ
khi luyện tập trƣớc mọi ngƣời. Qua kết
32

ĐỒNG THUẬN

quả trên, chúng tôi thấy khoảng 30% cho
rằng tập thể lực mất thời gian và bản thân
bị mệt. Khoảng 15% thấy quá sức và xấu
hổ khi tập luyện. Phần lớn đối tƣợng (70 85%) cho rằng đây không phải là yếu tố

TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2015

rào cản khi tham gia HĐTL. Nghiên cứu
về mối liên quan giữa HĐTL ở ngƣời lớn
của Owen (1999) đã kết luận ngƣời lớn
tham gia vào HĐTL là mối quan hệ tổng
hòa giữa yếu tố cá nhân, xã hội và môi
trƣờng [9]. Về yếu tố cá nhân, trong đó
một số yếu tố nhân khẩu học đƣợc xác
định có liên quan đến HĐTL. Theo báo
cáo của Trost, Owen và CS [9]: yếu tố
nhân khẩu học liên quan đến hoạt động
thể chất, bao gồm tuổi, giới, trình độ học

vấn và thực trạng kinh tế-xã hội. Đối với
nghiên cứu xác định tỷ lệ thiếu HĐTL ở 9
khu vực nông thôn và hệ thống giám sát
nhân khẩu học (HDSS) tại 5 nƣớc châu Á
[10] đã chỉ ra tỷ lệ thiếu HĐTL dao động
từ 13% trong Chililab HDSS lên 58% trong
Filabavi HDSS tại Việt Nam. Phần lớn
những ngƣời đƣợc hỏi, cả nam và nữ đều
không hoạt động trong thời gian giải trí
của họ. Phụ nữ, ngƣời lớn tuổi và trình độ
giáo dục cao có liên quan đáng kể với HĐTL.

* Do yếu tố khách quan từ gia đình:
Bảng 2: Yếu tố rào cản cho tham gia HĐTL từ gia đình đối tƣợng nghiên cứu (n = 206).
YẾU TỐ RÀO CẢN
TỪ GIA ĐÌNH

RẤT ĐỒNG Ý

ĐỒNG Ý

KHÔNG ĐỒNG Ý

RẤT KHÔNG
ĐỒNG Ý

KHÔNG
Ý KIẾN

n

%

n

%

n

%

n

%

n

%

HĐTL gây mệt mỏi

6

2,9

62

30,1

133

64,6

5

2,4

0

0,0

Mất nhiều tiền

1

0,5

23

10,7

150

73,3

32

15,5

Bạn đời không thích
bản thân HĐTL

1

0,5

17

8,3

167

81,1

15

7,3

Chiếm thời gian cho
gia đình

6

2,9

30

14,6

157

76,2

13

6,3

Gia đình không
khuyến khích HĐTL

3

1,4

14

6,8

173

84,0

14

6,8

Với các yếu tố khách quan đến từ phía
gia đình đối tƣợng nghiên cứu gồm yếu
tố HĐTL gây mệt mỏi, mất nhiều tiền,
bạn đời không thích bản thân HĐTL, các
thành viên trong gia đình không khuyến
khích HĐTL và tập luyện chiếm mất thời
gian dành cho gia đình. Trong các yếu tố
này yếu tố gây mệt mỏi chiếm tỷ lệ cao
nhất (33%), tiếp đến là chiếm thời gian
dành cho gia đình (17,5%), mất nhiều
tiền (11,2%), bạn đời không thích bản
thân HĐTL (8,8%) và cuối cùng là các

0,0
6

2,8
0,0

2

1,0

thành viên trong gia đình không khuyến
khích tập luyện (8,3%). Tuy nhiên, các
yếu tố này thực sự cũng chƣa phải là rào
cản cho việc tham gia HĐTL của đối
tƣợng nghiên cứu, vì phần lớn đều
không đồng ý với những ý kiến trên (65 90%). Để đánh giá sơ bộ những yếu tố
thuộc về bản thân cá nhân tham gia
nghiên cứu và một số yếu tố khách quan
khác liên quan đến tham gia HĐTL (trong
đó có yếu tố khách quan từ phía gia đình
và yếu tố liên quan đến địa điểm tập),

33

nguon tai.lieu . vn