Xem mẫu

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SỌ MẶT
TRÊN PHIM SỌ NGHIÊNG Ở BỆNH NHÂN CÓ HỘI CHỨNG
NGỪNG THỞ KHI NGỦ DO TẮC NGHẼN
Nghiêm Thị Hồng Nhung1, Võ Trương Như Ngọc1,
Nguyễn Thanh Bình2, Nguyễn Minh Sang3
1

Viện đào tạo Răng Hàm Mặt, Trường Đại học Y Hà Nội
Bệnh viện Lão Khoa Trung ương, 3Khoa hô hấp dị ứng - Bệnh viện Hữu Nghị

2

Nghiên cứu được thực hiện trên 25 bệnh nhân được chẩn đoán xác định có hội chứng ngừng thở khi ngủ
do tắc nghẽn (OSAS) nhằm mô tả đặc điểm kết cấu sọ mặt ở nhóm bệnh nhân này. Nghiên cứu được thiết
kế theo phương pháp mô tả cắt ngang, đánh giá kiểu mặt nhìn nghiêng trên lâm sàng, kích thước eo họng
theo thang điểm Mallampati, đo các góc SNA, SNB, ANB trên phim sọ mặt nghiêng từ xa. Kết quả cho thấy
tỷ lệ bệnh nhân có kiểu mặt lồi chiếm đa số, 18 bệnh nhân (72%). Chỉ số ngừng thở, giảm thở (apnea – hypoapnea index: AHI) trung bình ở nhóm bệnh nhân có Mallampati độ 1 và 2 là 20,63 ± 9,13 và thấp hơn
nhiều so với nhóm Mallampati độ 3 và 4 (AHI trung bình là 49,85 ± 26,14), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p = 0,001). Góc SNB càng nhỏ thì chỉ số AHI càng lớn (r = -0,422, p = 0,036). Góc ANB càng lớn thì chỉ số
AHI càng lớn (với r = 0,409, p = 0,042). Sử dụng thang điểm Mallampati trong khám lâm sàng và phim sọ
nghiêng từ xa có giá trị gợi ý trong chẩn đoán nguyên nhân và mức độ của hội chứng ngừng thở khi ngủ do
tắc nghẽn.
Từ khóa: hội chứng ngừng thở khi ngủ do tắc nghẽn, phim sọ mặt nghiêng từ xa, kết cấu sọ mặt

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng ngừng thở khi ngủ do tắc nghẽn

giữa trưa, hoặc nặng như buồn ngủ khi đang

là bệnh lý mới được nghiên cứu nhiều trong

làm việc hoặc lái xe, ngoài ra có thể có những
triệu chứng ban ngày khác như giảm tập

vòng mấy chục năm trở lại đây. Năm 1965,
Gastaut và cộng sự là những người đầu tiên
mô tả đầy đủ OSAS trên những người béo phì
dựa vào đa ký giấc ngủ, cho đến nay, đã có
nhiều tiến bộ trên con đường tìm hiểu và
nghiên cứu về bệnh lý này [1].
Ngừng thở khi ngủ do tắc nghẽn đặc trưng
bởi những triệu chứng ban đêm như: ngáy,
cảm giác ngạt thở hoặc ngừng thở khi ngủ,
mất ngủ, tiểu đêm…và những triệu chứng ban
ngày thường gặp như: buồn ngủ quá nhiều
ban ngày có thể từ nhẹ như buồn ngủ vào

trung, giảm trí nhớ… làm giảm chất lượng
cuộc sống, là nguyên nhân gây tai nạn giao
thông, tai nạn nghề nghiệp, hạn chế khả năng
học tập, làm việc. Bên cạnh đó ngừng thở khi
ngủ do tắc nghẽn còn là nguyên nhân gây
tăng tỷ lệ tử vong trên các bệnh nhân có bệnh
tim mạch, đái tháo đường, hội chứng chuyển
hóa [2; 3]. Theo nhiều nghiên cứu, tỷ lệ mắc
ngừng thở khi ngủ do tắc nghẽn ở người châu
Á tương đương hoặc cao hơn người da trắng,
mặc dù tỷ lệ béo phì ở Châu Á thấp hơn. Một
số nghiên cứu cũng chỉ ra rằng người châu Á

Địa chỉ liên hệ: Võ Trương Như Ngọc, Viện đào tạo Răng
Hàm Mặt, Trường Đại học Y Hà Nội
Email: votruongnhungoc@gmail.com
Ngày nhận: 05/7/2015
Ngày được chấp thuận: 25/12/2015

64

thường mắc ngừng thở khi ngủ do tắc nghẽn
nặng hơn. Có nhiều lý giải cho hiện tượng
trên, đáng chú ý nhất là các tác giả cho rằng
người Châu Á có cấu tạo xương vùng sọ mặt

TCNCYH 98 (6) - 2015

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
khác với người da trắng, và đó là yếu tố thuận

nghẽn theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Hiệp hội

lợi làm xuất hiện bệnh cũng như tăng mức độ
nặng của bệnh [4 - 6]. Bệnh nhân có hội

Giấc ngủ Hoa Kỳ [7].

chứng ngừng thở khi ngủ do tắc nghẽn
thường đến khám ở nhiều chuyên khoa khác
nhau như tai mũi họng, nội khoa, hô hấp, răng
hàm mặt. Trên thực tế, điều trị hội chứng này
cần có sự phối hợp của nhiều chuyên khoa
để điều trị theo nguyên nhân. Những bệnh
nhân ngừng thở khi ngủ do tắc nghẽn có kèm
theo dấu hiệu lùi xương hàm dưới và không
có các nguyên nhân thực thể khác kèm theo
thì biện pháp điều trị có thể lựa chọn tối ưu
đó là phẫu thuật đưa xương hàm dưới ra

Tiêu chuẩn loại trừ
Các bệnh nhân có một trong các tiêu
chuẩn sau: 1) Bệnh nhân không muốn tham
gia vào nghiên cứu. 2) Bệnh nhân đang có
bệnh lý cấp tính. 3) Bệnh nhân mắc các bệnh
lý tâm thần. 4) Bệnh nhân không hợp tác.
2. Phương pháp: Mô tả cắt ngang, chọn
mẫu thuận tiện.
Các bước tiến hành

trước trong giới hạn bình thường hoặc đưa

Bệnh nhân đến khám vì có biểu hiện rối
loạn giấc ngủ chủ yếu là ngáy và buồn ngủ

xương hàm dưới ra trước bằng các khí cụ
nếu bệnh nhân không chấp nhận phẫu thuật.

quá nhiều ban ngày, được khám sàng lọc, đo
đa ký giấc ngủ. Những bệnh nhân được chẩn

Ở Việt Nam, hiện tại chưa có nghiên cứu
nào về đặc điểm lâm sàng hàm mặt ở nhóm

đoán xác định có hội chứng ngừng thở khi
ngủ do tắc nghẽn sẽ được chọn chụp phim sọ

bệnh nhân này. Vì vậy, nghiên cứu đề tài này
được tiến hành nhằm mục tiêu mô tả đặc

mặt nghiêng từ xa, khám tai mũi họng, xác

điểm kết cấu sọ mặt với mức độ ngừng thở
khi ngủ do tắc nghẽn trên bệnh nhân có hội
chứng ngừng thở khi ngủ do tắc nghẽn.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Gồm 25 bệnh nhân, trên 18 tuổi, không
phân biệt giới tính, được chẩn đoán xác định
có hội chứng ngừng thở khi ngủ do tắc nghẽn
tại bệnh viện Lão khoa Trung ương và Trung
tâm Hô hấp – bệnh viện Bạch Mai, chụp
Xquang sọ mặt nghiêng từ xa tại Trung tâm kỹ
thuật cao khám chữa bệnh Răng Hàm Mặt Viện Đào tạo Răng Hàm Mặt - Trường Đại
học Y Hà Nội từ tháng 6/2014 đến tháng
3/2015.
Tiêu chuẩn lựa chọn: Các bệnh nhân đáp
ứng đủ các tiêu chuẩn sau: 1) Tuổi từ 18 trở
lên. 2) Các bệnh nhân được chẩn đoán xác
định có hội chứng ngừng thở khi ngủ tắc
TCNCYH 98 (6) - 2015

định kích thước eo họng theo thang điểm Mallampati [8; 9] .
3. Xử lý và phân tích số liệu
Các số liệu sau khi được thu thập và xử lý
bằng phần mềm SPSS 16.0 và một số thuật
toán thống kê y học như phân tích hồi quy
tuyến tính, Mann - Withney t - test.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu này chỉ được thực hiện khi có
sự đồng ý và hợp tác của bệnh nhân. Phim sọ
nghiêng từ xa được chụp để góp phần xác
định nguyên nhân của bệnh và đánh giá vị trí
của xương hàm dưới. Mọi thông tin thu thập
được trong quá trình nghiên cứu sẽ được giữ
bí mật để phục vụ nghiên cứu. Các bệnh nhân
được tư vấn và điều trị đúng chỉ định.

III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên 25 bệnh
65

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
nhân, trong đó có 23 nam và 2 nữ, có tuổi

mức độ nhẹ (5 ≤ AHI, ≤ 15 lần/giờ), 9 (36%)

trung bình là 50,68 ± 15,8 tuổi thấp nhất là 27
và tuổi cao nhất là 85.

bệnh nhân mắc bệnh mức độ vừa (15 < AHI ≤
30 lần/giờ) và 12 (48%) bệnh nhân mắc bệnh

Các bệnh nhân có chỉ số khối cơ thể (BMI)
trung bình là 24,52 ± 3,27, BMI thấp nhất là

mức độ nặng ( AH > 30 lần/giờ).
2. Đặc điểm kết cấu sọ mặt trên bệnh

14, 69 và BMI cao nhất là 30,44. Trong 25
bệnh nhân có 4(16%) bệnh nhân mắc bệnh

nhân có hội chứng ngừng thở khi ngủ do
tắc nghẽn

Bảng 1. Kiểu mặt nhìn nghiêng trên lâm sàng
Kiểu mặt

n

%

AHI

p

Lồi

18

72

39,49 ± 2,29

Phẳng

6

24

29,60 ± 2, 92

Lõm

1

4

7,8

Tổng

25

100

35,82 ± 2,45

0,476
(Mann - Withney
test)

AHI trung bình của 2 nhóm mặt lồi và mặt phẳng không có sự khác biệt, (p = 0,476).

Biểu đồ 1. Mối liên quan mức độ nặng của bệnh với kích thước eo họng
theo thang điểm Mallampati
AHI trung bình ở nhóm có phân độ Mallampati 1, 2 là 20,63 ± 9,13 và nhóm có phân độ 3,4 là
49,85 ± 26,14. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi kiểm định bằng t - test.

66

TCNCYH 98 (6) - 2015

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

Biểu đồ 2. Mối liên quan giữa AHI

Biểu đồ 3. Mối liên quan giữa AHI

với góc ANB

với góc SNB

Kết quả cho thấy có mối liên quan có

Kết quả cho thấy có mối liên quan giữa chỉ

ý nghĩa thống kê giữa chỉ số ngừng thở,
giảm thở (AHI) và góc ANB với r = 0,409,

số ngừng thở, giảm thở (AHI) với giá trị góc
SNB với r = -0,422, (p < 0,05).

(p < 0,05).

Biểu đồ 4. Mối liên quan giữa AHI với góc SNA
Kết quả cho thấy không có mối liên quan giữa chỉ số ngừng thở, giảm thở (AHI) với góc SNA,
p = 0,521.

IV. BÀN LUẬN
Qua nhóm bệnh nhân cho thấy, tỷ lệ mắc

ngừng thở khi ngủ do tắc nghẽn [6; 10; 11].

hội chứng ngừng thở khi ngủ do tắc nghẽn

Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi trung
bình là là 50,68 ± 15,8, tuổi thấp nhất là 27 và

tăng dần theo tuổi. Chính vì vậy, tuổi cao là
một trong các yếu tố nguy cơ của hội chứng

cao nhất là 85, các bệnh nhân tuổi từ 40 trở
lên chiếm 18 bệnh nhân (72 %).

TCNCYH 98 (6) - 2015

67

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Ở Châu Âu và Hoa Kỳ tỷ lệ mắc OSAS của

phân loại mức độ bệnh [13; 15]. Trong nghiên

người da trắng tuổi trung niên là khoảng từ
2% ở nữ và 4% ở nam, tỷ lệ bệnh theo giới

cứu của chúng tôi, khi so sánh giá trị trung
bình của chỉ số ngừng thở, giảm thở giữa 2

nam/ nữ là 3/1 [10]. Nguyễn Thanh Bình
nghiên cứu trên 60 bệnh nhân cũng cho thấy

nhóm: nhóm 1 có độ Mallampati 1 và 2 có chỉ
số AHI là 20,63 ± 9,13, và nhóm 2 có độ Mal-

tỷ lệ 2,33 nam/1 nữ [11]. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, có 23 (chiếm tỷ lệ 92%) nam và

lampati 3 và 4 có chỉ số AHI là 49,85 ± 26,14,
chúng tôi thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống

2 (chiếm tỷ lệ 8%) nữ, tỷ lệ nam/nữ là 11,5

kê, phân độ Mallampati càng lớn thì chỉ số

chênh lệch lớn có thể do cỡ mẫu của chúng
tôi nhỏ, chưa đại diện được cho cộng đồng.

AHI càng cao.
Phân tích hồi quy tuyến tính giữa chỉ số

Béo phì là yếu tố nguy cơ chính của hội
chứng ngừng thở khi ngủ do tắc nghẽn, đặc

AHI với các góc SNA, SNB, ANB trong nghiên
cứu của chúng tôi cho kết quả:

biệt là béo ở phần trên cơ thể. Béo phì làm
tăng mức độ nặng của bệnh do sự tập trung

Góc SNB càng nhỏ thì chỉ số AHI càng lớn
(r = -0,422, p = 0,036) cho thấy những bệnh

mỡ ở vùng quanh đường hô hấp trên, làm hẹp

nhân có xương hàm dưới càng lùi sau so với

đường thở [10; 12]. Kết quả từ nghiên cứu
của chúng tôi, các bệnh nhân có chỉ số khối

nền sọ thì mức độ nặng của bệnh càng cao.
Góc ANB càng lớn thì chỉ số AHI càng lớn,

cơ thể (BMI) trung bình là 24,52 ± 3,27. Có 15
bệnh nhân béo phì (BMI từ 25 trở lên).

điều này gợi ý góc ANB càng lớn thì mức độ
bệnh lý càng trầm trọng. Do vậy, các bệnh

Vòng cổ lớn là yếu tố quan trọng giúp gợi ý
dự đoán dễ mắc hội chứng này [13; 14; 15].

nhân còn nhỏ, đang trong độ tuổi tăng trưởng,
nếu có lùi xương hàm dưới thì nên điều trị

Trong nghiên cứu này, chúng tôi gặp các bệnh

sớm, kích thích xương hàm dưới phát triển ra

nhân có vòng cổ trung bình là 39,71 ± 1,92
cm, thấp nhất là 36 cm và cao nhất là 44 cm.

trước để giảm nguy cơ mắc bệnh.
Trong nhóm nghiên cứu, chúng tôi thấy

Đặc điểm cấu trúc sọ mặt ở tư thế mặt
nhìn nghiêng, chúng tôi thấy 18 bệnh nhân có

không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê
giữa chỉ số AHI với góc SNA. Do xương hàm

kiểu mặt lồi chiếm, 6 bệnh nhân có kiểu mặt
phẳng, và chỉ có 1 bệnh nhân có kiểu mặt lõm.

trên không có nhiều ảnh hưởng lên cấu trúc
đường hô hấp trên, nhất là đường hô hấp trên

Kết quả này cho thấy đa số bệnh nhân có kiểu

ở vùng ngã 3 hầu họng.

mặt lồi, kiểu mặt này gợi ý có tương quan
xương hàm loại II, xương hàm dưới lùi sau

V. KẾT LUẬN

hơn so với xương hàm trên. Tuy nhiên, khi so
sánh giá trị trung bình của chỉ số ngừng thở,
giảm thở ở 2 nhóm bệnh nhân có kiểu mặt lồi
và phẳng, chúng tôi thấy không có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê. Từ đó cho thấy phân
tích mô mềm khuôn mặt không phản ánh
chính xác tương quan xương, điều này có thể
giải thích do khả năng bù trừ của mô mềm.
Đánh giá kích thước eo họng theo thang
điểm Mallampati có giá trị trong chẩn đoán và

68

Qua nghiên cứu này, cho phép rút ra một
số kết luận sau: kiểu mặt lồi chiếm đa số
(72%). Các bệnh nhân có lùi xương hàm dưới
nên được can thiệp sớm để kích thích xương
hàm dưới phát triển ra trước. Những bệnh
nhân có độ Mallampati càng lớn thì AHI càng
cao. Góc SNB càng nhỏ thì chỉ số AHI càng
lớn. Góc ANB càng lớn thì chỉ số AHI càng lớn
và mức độ ngừng thở khi ngủ càng trầm
trọng. Phim sọ nghiêng từ xa có vai trò quan

TCNCYH 98 (6) - 2015

nguon tai.lieu . vn