Xem mẫu

  1. NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Vì tương lai nền học thuật nước nhà, trong thời kỳ hội nhập, những sự ngại khó bước đầu do thói quen lâu ngày đã sử dụng hệ thống danh pháp - thuật ngữ chưa thống nhất, chưa khoa học trước đây cần phải nỗ lực để thay đổi. Tài liệu tham khảo [1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chương trình giáo dục phổ thông môn hóa học, 2018 [2]. Bộ Khoa học và Công nghệ, TCVN 5529:2010 - Thuật ngữ hóa học - Nguyên tắc cơ bản, 2010. [3]. Bộ Khoa học và Công nghệ, TCVN 5530:2010 - Thuật ngữ hóa học - Danh pháp các nguyên tố và hợp chất hóa học, 2010. [4]. Bộ Y tế, QCVN 03: 2019 - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia giá trị giới hạn tiếp xúc cho phép của 50 yếu tố hóa học tại nơi làm việc, 2019. [5].  G.J. Leigh, Principles of chemical nomenclature - A guide to IUPAC recommendations, Blackwell science, 1997. [6]. Hội Hóa học Việt Nam, Danh pháp và Thuật ngữ hóa học Việt Nam, NXB. Khoa học và kỹ thuật, 2010. Ngày nhận bài: 18/02/2020 Ngày gửi phản biện: 05/3/2020 Ngày chấp nhận đăng: 30/3/2020 1 Trường ĐHXD Miền Tây. MỘT SỐ BỆNH LÝ, CHẤN THƯƠNG THƯỜNG GẶP VÀ CÁCH PHÒNG TRÁNH CHẤN THƯƠNG TRONG TẬP LUYỆN VÀ THI ĐẤU THỂ DỤC THỂ THAO SOME DISEASES, INJURIES AND PREVENTION INJURIES IN SPORTS TRAINING AND COMPETITION Nguyễn Minh Đức1 Tóm tắt: Bài viết này sẽ giới thiệu về một số bệnh lý, chấn thương thường gặp và cách phòng tránh chấn thương trong tập luyện và thi đấu thể dục thể thao. Tác giả hy vọng những thông tin hữu ích này sẽ giúp người đọc hiểu được nguyên nhân và phòng tránh chấn thương tốt hơn trong tập luyện và thi đấu thể dục thể thao. Từ khóa: Một số bệnh lý, chấn thương thường gặp, nguyên nhân, cách phòng tránh. Abstract: The paper attempts to introduce some common diseases, injuries and prevention injuries in sports 110 Soá 39 - Quyù I naêm 2020
  2. NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI training and competition. It is hoped that useful information will help you to understand the causes and prevent injuries better in sports training and competition. Keywords: Some common diseases, injuries, causes, prevention. 1. Đặt vấn đề Y học thể dục thể thao (TDTT) là một lĩnh vực chuyên ngành thuộc Khoa học Y học, nghiên cứu cơ thể con người trong mối tác dụng tương hỗ giữa vận động, tập luyện và TDTT. Từ những kiến thức thu nhận được trong quá trình nghiên cứu như vậy, Y học TDTT rút ra những biện pháp nhằm ngăn chặn, chữa trị và phục hồi chấn thương cho những người luyện tập thể dục thể thao. Trong tập luyện và thi đấu TDTT thường xảy ra những vấn đề chấn thương và các bệnh lý thường gặp gây ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và thành tích của người tập. Tuy nhiên, nếu chúng ta hiểu và biết được các nguyên nhân và cách phòng tránh sẽ giúp người tập thực hiện tốt hơn. Vì vậy, tôi chọn báo cáo chuyên đề “Một số bệnh lý, chấn thương thường gặp và cách phòng tránh chân thương trong tập luyện và thi đấu TDTT” để góp phần phát triển TDTT trong Bộ môn cũng như toàn trường. 2. Nội dung 2.1. Khái niệm chấn thương thể thao Chấn thương là sự tổn hại những tổ chức tế bào của cơ thể do tác động nào đó từ bên ngoài gây nên như tác động cơ học, hóa học, lý học. 2.2. Phân loại chấn thương trong thể thao Chấn thương có thể chia thành 2 dạng: chấn thương hở và chấn thương kín. - Chấn thương hở: là chấn thương làm phá hủy sự nguyên vẹn của da để lộ những tổ chức dưới da. - Chấn thương kín: là chấn thương không làm rách ra (trong thể thao phần lớn các chấn thương kín thường gặp là: dụng dập, giãn dây chằng, sai khớp,…) 2.3. Nguyên nhân gây nên chấn thương trong tập luyện TDTT Trong tập luyện thể thao, có rất nhiều nguyên nhân gây nên chấn thương. Những nguyên nhân chính gây nên chấn thương trong tập luyện TDTT là: - Sai lầm trong phương pháp huấn luyện. - Thiếu sót trong tổ chức tập luyện và thi đấu. - Không đáp ứng đủ yêu cầu vật chất kỹ thuật của buổi tập. - Điều kiện khí hậu và điều kiện vệ sinh không phù hợp. - Hành vi không đúng đắn của vận động viên. - Vi phạm các nguyên tắc kiểm tra y học. - VĐV tham gia tập luyện và thi đấu trong tình trạng chuẩn thể lực – tâm lý chưa tốt, chưa đáp ứng được yêu cầu thực hiện các động tác khó. Đó là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến chấn thương trong tập luyện và thi đấu TDTT. Vì vậy, HLV, GV giảng dạy TDTT, VĐV, các y bác sĩ TDTT cần phải nắm bắt được các nguyên nhân phòng tránh và cách khắc phục những chấn thương có thể xảy ra. 2.4. Các bệnh lý và chấn thương thường gặp trong tập luyện TDTT Thoâng tin KH - GD Tröôøng Ñaïi hoïc Xaây döïng Mieàn Taây 111
  3. NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI 2.4.1. Các bệnh lý thường gặp 2.4.1.1. Đau bụng trong tập luyện Đau bụng là một loại chứng bệnh thường gặp nhất trong quá trình tập luyện. Ở một số môn thể thao như chạy cự ly trung bình, chạy dài, maratông, đi bộ thể thao, đua xe đạp, bóng rổ,… số người bị nhiều hơn. Trong đó, một phần ba nguyên nhân không phải xuất phát từ bệnh mà là do một vài yếu tố tập luyện TDTT gây ra. Đại đa số khi yên tĩnh không đau, trong tập luyện mới xuất hiện. Quá trình đau phụ thuộc vào lượng vận động, cường độ vận động và tốc độ vận động. * Nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh Một vài nhân tố có liên quan đến sự phát sinh ra đau bụng trong tập luyện TDTT là tập luyện không đầy đủ, trình độ tập luyện thấp, chuẩn bị khởi động không tốt, không kỹ, sức khỏe không đảm bảo, mệt mỏi, tinh thần căng thẳng; các động tác hoạt động kết hợp với thở không nhịp nhàng; chế độ ăn uống không hợp lý, thức ăn trong dạ dày chưa kịp tiêu hóa, tốc độ và cường độ vận động tăng quá nhanh hoặc quá đột ngột. Nguyên nhân chủ yếu của đau bụng trong tập luyện bao gồm: - Trình độ tập luyện kém nên khi phải thực hiện hoạt động với cường độ cao, máu ở tĩnh mạch trở về tim bị cản trở, máu tập trung nhiều ở gan, lách làm cho màng gan và lách căng dẫn đến đau bụng. - Phương pháp thở không đúng nhất là sự phối hợp giữa các động tác với nhịp thở không tốt làm quan hệ của tuần hoàn - hô hấp và máu bị rối loạn. Máu đọng lại nhiều ở tĩnh mạch và nội tạng dẫn đến đau bụng. Một yếu tố nữa là do thở quá gấp làm cho hoạt động của cơ hoành bị rối loạn, cơ hoành thiếu oxy, hoặc bị chuột rút gây nên đau bụng. - Chuẩn bị khởi động không tốt hoặc bắt đầu chạy quá nhanh làm cho chức năng của hệ tiêu hóa không thích nghi sinh ra đau. Sau khi ăn xong tập luyện ngay, thức ăn chưa kịp tiêu hóa, tích tụ lại ở dạ dày làm trướng bụng, căng màng ruột và màng dạ dày cũng dẫn đến đau bụng. Ngoài các nguyên nhân do tập luyện gây ra, còn có những nguyên nhân thường gặp khác do bệnh tật như: viêm gan, các bệnh về đường mật (như viêm túi mật, sỏi mật,…), bệnh loét đường tiêu hóa, viêm ruột thừa,… * Triệu chứng Trước tập luyện không thấy đau bụng. Khi khởi động và bước vào phần trọng động (phần cơ bản của buổi tập) thì thấy đau ở vùng hạ sườn phải, hạ sườn trái. Lúc đầu, dùng tay ấn vào cảm thấy đỡ, sau đó cơn đau lại tăng lên và không thể tiếp tục tập luyện được. Dừng tập luyện thì cơn đau giảm dần và cảm thấy dễ chịu hơn. Nếu tiếp tục tập lại xuất hiện đau bụng. * Cách xử lý Nếu xuất hiện đau bụng nhẹ, dùng tay ấn vào chỗ đau, giảm tốc độ vận động, thở sâu và nhịp nhàng trong thời gian từ 5 - 10 phút có thể khỏi. Nếu đau bụng quá nặng thì phải dừng tập luyện, mời bác sĩ đến khám xác định nguyên nhân để điều trị cho đúng, có thể bấm huyệt: túc tam lý, nội quan, tam cân giao,… * Phương pháp phòng ngừa - Tăng cường huấn luyện toàn diện cho vận động viên. - Trước khi tập luyện không được ăn quá no, uống quá nhiều. Sau khi ăn no cần nghỉ ngơi từ 90 - 120 phút được mới được tập. 112 Soá 39 - Quyù I naêm 2020
  4. NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI - Khi tập trước tiên cần phải khởi động kỹ càng, chú ý các động tác hoạt động phải kết hợp với thở nhịp nhàng và sâu. - Phải tuân theo các nguyên tắc trong tập luyện TDTT nhất là nguyên tắc tăng tiến. 2.4.1.2. Chuột rút Chuột rút là hiện tượng cơ bắp bị co cứng không chủ động duỗi ra được. Trong tập luyện TDTT thường gặp hiện tượng chuột rút ở cơ tam đầu cẳng chân, nhóm cơ gấp ngón bàn chân thứ nhất và nhóm cơ bụng. * Nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh Do bị lạnh: tập luyện trong những ngày thời tiết lạnh rét, nếu khởi động không kỹ thì cơ bắp dễ bị chuột rút. Hay bị nhiều nhất ở các môn thể thao như bơi lội, điền kinh và các môn bóng. - Trong cơ thể bị mất nhiều chất điện giải: tập luyện trong điều kiện trời nóng nực, oi bức, cơ thể ra mồ hôi nhiều làm mất nhiều nước và muối. Khi đó, cơ thể sẽ bị rối loạn các chất điện giải và bị thiếu muối. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến chuột rút. - Trong tập luyện và thi đấu, việc cơ bắp phải liên tục co rút nhanh và thả lỏng không đầy đủ hoặc quá ngắn trong một thời gian dài sẽ dẫn đến bị chuột rút. Nguyên nhân này thường gặp ở những VĐV mới tập hoặc trình độ tập luyện còn thấp. Tập luyện mệt mỏi: khi cơ thể mệt mỏi, việc đào thải các sản phẩm trao đổi chất giảm, trong cơ bắp bị tích tụ lượng axit lactic lớn. Đây chính là nguyên nhân làm cho cơ bắp bị co cứng gây ra hiện tượng chuột rút. * Triệu chứng Cơ bị co cứng không tự thả lỏng được, sờ vào nhóm cơ bị chuột rút thấy cứng chắc và rất đau. Người bị chuột rút không thể hoạt động được nữa. Nguy hiểm nhất là bị chuột rút ở dưới nước dễ dẫn đến tử vong vì tắc thở. * Cách xử lý Khi cơ bị chuột rút không nghiêm trọng thì chỉ cần kéo căng cơ bị chuột rút theo hướng ngược lại đến lúc cơ đó không tự co lại được nữa.Ví dụ, khi cơ tam đầu cẳng chân bị chuột rút làm cho bàn chân duỗi thẳng ra. Cách xử lý là dùng lực đẩy mũi bàn chân để gấp mu bàn chân lên cẳng chân. Sau đó, dùng các kỹ thuật của xoa bóp để xoa bóp cục bộ cơ bị chuột rút. Chú ý sử dụng lực xoa bóp tương đối mạnh. Cuối cùng có thể bấm huyệt ủy trung, thừa sơn, dũng tuyền. Nếu bị chuột rút ở dưới nước cần phải nhanh chóng đưa nạn nhân lên bờ, sau đó mới xử lý. 2.4.1.3. Hội chứng hạ đường huyết của VĐV Đường huyết của người bình thường dao động trong khoảng từ 80 – 120mg%. Nếu đường huyết hạ thấp hơn 50 - 60 mg% thì lúc đó xuất hiện hàng loạt các chứng được gọi là chứng hạ đường huyết. Trong tập luyện TDTT, khi cơ bắp phải co rút mạnh sẽ tiêu hao rất nhiều năng lượng và nguồn năng lượng đó chủ yếu lấy từ việc oxy hóa đường. Vì vậy, khi hoạt động với cường độ vận động lớn, thời gian dài thì lượng glucoza trong cơ thể bị tiêu hao rất nhiều và rất dễ sinh ra hiện tượng hạ đường huyết. Chứng hạ đường huyết thường gặp ở các môn thể thao như chạy cự ly dài, maratông, đua xe đạp cự ly dài, trượt tuyết,… Chứng hạ đường huyết có thể xảy ra ngay trong quá trình vận động hoặc sau vận động. * Nguyên nhân và cơ chế phát sinh bệnh Chứng hạ đường huyết phát sinh trong tập luyện TDTT chủ yếu là do thời gian tập luyện dài, Thoâng tin KH - GD Tröôøng Ñaïi hoïc Xaây döïng Mieàn Taây 113
  5. NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI cường độ vận động lớn làm tiêu hao nhiều lượng đường trong cơ thể. Quá trình điều tiết cơ chế chuyển hóa đường của vỏ não bị rối loạn. Có tác giả cho là nếu đường huyết giảm đến 50mg% cơ thể sẽ xuất hiện hiện tượng vô lực, cảm giác đói, tinh thần không ổn định. Đường huyết giảm dưới 50mg% thì trí nhớ bị giảm, co giật và nặng hơn là hôn mê. Đây là do lượng đường ở các tế bào não bị giảm gây nên. Có tác giả lại cho rằng trung khu thần kinh điều tiết cơ chế trao đổi đường của cơ thể bị rối loạn, lượng insulin tăng sẽ làm đường huyết giảm. * Triệu chứng Vận động viên bị hạ đường huyết có các biểu hiện sau đói không chịu được, bủn rủn chân tay, chóng mặt, toát mồ hôi, sắc mặt tái nhợt. Hạ đường huyết nặng hơn có thể xuất hiện những cơn kích động do rối loạn tinh thần, nói năng không lưu loát, co giật toàn thân hoặc cục bộ (giống như động kinh), hôn mê. Kiểm tra toàn thân - mạch nhanh yếu, huyết áp biến đổi không rõ ràng (trước hôn mê thì cao, nhưng sau hôn mê giảm), thở nông nhanh. Kiểm tra đường huyết giảm dưới 55mg%. * Xử lý cấp cứu Sau khi chuẩn đoán đúng là hạ đường huyết thì đưa VĐV vào nơi yên tĩnh, nằm nghỉ, chú ý mặc ấm. Cho VĐV uống nước đường, nước trà đường nóng và cho ăn thức ăn dễ tiêu hóa nhiều lần. Bình thường nằm nghỉ một thời gian ngắn hiện tượng hạ đường huyết sẽ mất dần. Trong trường hợp nặng thì có thể tiêm tĩnh mạch glycoza 50% từ 50 - 100ml. Nếu hôn mê có thể châm cứu vào các huyệt: Nhân trung, bách hội, dũng tuyền, hợp cốc. Nhanh chóng đưa vận động viên đến các bác sĩ để giải quyết. * Phòng ngừa Những người mới tham gia tập luyện, ốm yếu, bệnh tật hoặc người bị đói không nên tham gia tập luyện trong thời gian dài và cường độ vận động lớn như chạy 10.000m trở lên, chạy maratông, đua xe đạp cự ly dài,… Trước khi tập luyện và thi đấu có thể bổ sung đường cho VĐV. Trước khi thi đấu từ 10 - 15 phút có thể uống 100gram đường glucoza. Trong các cuộc thi đấu có thời gian dài thì nên bổ sung nước đường cho VĐV tại các trạm tiếp nước trên tuyến đường đua. 2.4.2. Các chấn thương thường gặp 2.4.2.1. Chấn thương phần mềm: là chấn thương gây nên các tổn thương ở các phần mềm của cơ thể như da, gân, cơ, dây chằng. Tùy vào mức độ nặng nhẹ và tính chất của tổn thương, người ta có thể phân chia thành các loại sau: - Vết xây sát da: là tổn thương bề mặt da. - Vết thương: là chấn thương phần mềm gây rách da và các tổ chức dưới da, tổn thương có thể vào sâu trong cơ và mạch máu. - Vết đụng dập: là chấn thương phần mềm do va chạm không gây rách da nhưng làm dập nát chảy máu tổ chức dưới da. - Bong gân: là tổn thương dây chằng quanh khớp và bao khớp ở các mức độ khác nhau. Khớp được tạo nên do các đầu xương áp sát vào nhau và được giữ bởi hệ thống bao khớp, dây chằng gân cơ vừa mềm dẻo vừa vững chắc để khớp hoạt động được chính xác, linh hoạt. Khi có tác động mạnh gián tiếp hoặc trực tiếp làm khớp bị văn mạnh. Khe khớp bị mở rộng ra làm các dây chằng bị kéo căng khi bị giãn mạnh hoặc dứt hẳn, đồng thời làm tổn thương luôn cả bao khớp gây chảy máu nhiều và rất đau. Do đó, làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động của khớp. 114 Soá 39 - Quyù I naêm 2020
  6. NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI - Tổn thương cơ: Gồm 2 dạng giãn cơ và đứt cơ. Giãn cơ làm cho cấu trúc giải phẫu cơ không thay đổi nhưng tổn thương tổ chức xung quanh sợi cơ, có thể đứt các mao mạch; rách cơ khi thực hiện động tác co giật đột ngột có thể xảy ra rách hoặc đứt cơ, khi đó xuất hiện cảm giác đau mạnh, chảy máu nhiều tạo thành đám tụ máu. Trong môn bóng chuyền chấn thương, phần mềm xảy ra chủ yếu là các chấn thương: bong gân khớp cổ chân, chấn thương gối, chấn thương ngón tay (khớp ngón cái), tổn thương cơ – gân do căng cơ quá mức (thường xảy ra ở những cơ chi dưới và gân khe, chi trên ít xảy ra hơn và nếu có thì chủ yếu là cơ delta). * Nguyên nhân chấn thương - Bong gân khớp cổ chân: do bị cầu thủ khác dẫm vào chân hoặc bàn chân đột ngột xoay vào trong và gập mạnh trong quá trình chơi (chấn thương này gọi là chấn thương quặt ngược). - Bong gân khớp ngón tay: là chấn thương hay xảy ra trong khi thực hiện động tác chắn bóng nhất là ngón thứ 4 và thứ 5. - Căng cơ quá mức: do tập luyện quá nhiều gây mệt mỏi, khởi động chưa đủ, phương pháp tập luyện lạc hậu, chương trình tập luyện không hợp lý, mất cân bằng và thiếu hụt chất khoáng. * Triệu chứng của các chấn thương - Khớp cổ chân: đau khớp cổ chân, nghe thấy tiếng rạn – phựt – rắc xuất hiện khi VĐV đang chơi bóng, sưng, bầm tím, có khi lan tỏa ra xung quanh, tụ máu trong khớp (nếu xuất hiện chứng này thì VĐV bị tổn thương khớp cổ chân nặng), giảm cơ năng của khớp: cử động của khớp bị hạn chế vì đau nhưng vẫn vận động được khớp (trường hợp gãy xương và sai khớp mất cơ năng). - Khớp ngón tay: đau khớp ngón tay, sưng và bầm tím lan tỏa xung quanh, tụ màu trong khớp; cử động của ngón tay bị hạn chế. - Căng cơ quá mức: đau đột ngột và dai dẳng tại một vùng cơ. * Phương pháp xử lý các chấn thương - Bong gân khớp cổ chân: + Chườm lạnh: cũng như các loại chấn thương khác việc làm đầu tiên là chườm lạnh và nâng cho lên cao sau khi tháo giày và tất. Đồng thời khớp cổ chân phải được băng cố định bằng loại băng thu đàn hồi (nên hoàn tất việc khám khớp cổ chân ngay sau chấn thương vì sau đó có sự co cơ, sưng nề khó khám). + Nếu sự bong gân làm cho khớp không còn vững chắc phải nẹp bất động khớp cổ chân và VĐV không được đi lại cho đến khi có sự can thiệp của cơ quan y tế. + Nếu chấn thương nhẹ khớp cổ chân mà VĐV có thể chạy nhảy bình thường thì cho VĐV trở lại tập luyện. Tuy vậy, cần phải đề phòng bằng cách băng bó tổn thương và ngay sau tập luyện và thi đấu xong phải điều trị theo chỉ định. - Bong gân khớp ngón tay: + Chườm lạnh: nếu chấn thương nhẹ có thể tiếp tục bằng cách nép 2-3 ngón tay vào nhau. + Trong trường hợp chấn thương khe gian đốt thì xem có trật khớp không và dùng biện pháp cố định thích hợp để tránh trật khớp tái phát và tổn thương mãn tính. + Nếu tổn thương nặng ngón tay thì phải có sự can thiệp của cơ quan y tế, tiến hành chụp X quang để phát hiện các trường hợp xương bị vỡ và gãy. Thoâng tin KH - GD Tröôøng Ñaïi hoïc Xaây döïng Mieàn Taây 115
  7. NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI - Căng cơ quá mức: + Chườm lạnh, chống viêm bằng thuốc và nghỉ ngơi hợp lý. + Chườm nóng và các dạng điều trị nhiệt tuyệt đối chống chỉ định trong rách cơ cấp vì gây dãn mạch làm tăng nguy cơ xuất huyết gây sơ hóa. 2.4.2.2. Chấn thương phần cứng: bao gồm 2 dạng gãy xương và sai khớp. Gãy xương: là một loại tổn thương nặng trong chấn thương TDTT. Các dạng gãy xương thường gặp là gãy xương kín, rất hiếm gãy xương hở. - Gãy xương kín: xương bị gãy nhưng không tổn thương bề mặt da. - Gãy xương hở: da, cơ bị rách, đầu xương lộ rõ ra ngoài qua miệng vết thương. - Gãy xương hoàn toàn: xương gãy thành 2 đoạn hay nhiều đoạn rời nhau. - Gãy xương không hoàn toàn: xương gãy không rời nhau như mẻ xương, rạn xương, lún xương. - Gãy xương có thể làm đứt, rách mạch máu và dây thần kinh hoặc đầu gãy của xương có thể làm chèn ép gây bó tắt mạng thần kinh. Trong tập luyện và thi đấu bóng chuyền ít xảy ra trường hợp gãy xương, nếu có thì chỉ xảy ra trường hợp gãy xương không hoàn toàn (rạn xương). * Triệu chứng của gãy xương: khi bị chấn thương mạnh, gãy xương nặng gây mất nhiều máu. Nạn nhân đau đớn, mất cử động, chi biến dạng, cử động bất thường, khi sờ vào chỗ gãy có tiếng lạo xạo, bệnh nhân có thể bị sốc biểu hiện: hốt hoảng, da xanh tái nhợt, chân tay lạnh, đổ mồ hôi, thờ ơ với mọi vật xung quanh, mạch nhanh khó bắt, huyết áp hạ thấp. * Triệu chứng rạn xương trong bóng chuyền: khi VĐV kêu đau ở xương bàn chân nhất là đau khi hoạt động mạnh và đỡ đau khi nghỉ ngơi. Các dạng rạn xương thường gặp trong bóng chuyền là rạn xương sống, xương chày, xương mác, xương trụ,..., rạn xương trong quá trình tập luyện và thi đấu bóng chuyền. Nguyên nhân không chỉ do bệnh lý ở xương mà còn do nhiều nguyên nhân khác nhau như tập luyện quá sức, bộ xương lệch, hai chi dưới không đều, mặt sân chơi cứng và không bằng phẳng. * Phương pháp xử lý các chấn thương: - Trường hợp gãy xương: phải chống sốc ngay bằng cách động viên, an ủi, ủ ấm cho bệnh nhân, cho bệnh nhân uống nước chè nóng, tiêm thuốc giảm đau, truyền dịch, truyền máu; nếu xương gãy mà đầu xương chưa lệch đi thì ta nên tiếng hành các nguyên tắc bất động (sơ cứu không nắn vào chỗ gãy, không cởi quần áo giày dép của nạn nhân, nẹp cố định); nếu gãy xương hở phải tiến hành xử lý như với một vết thương cầm máu, xử trí chống nhiễm trùng, tiêm dự phòng huyết thanh chống uốn ván, sau đó mới tiến hành bất động. - Rạn xương: khi phát hiện rạn xương, cho VĐV nghỉ ngơi trong điều trị rạn xương cơ bản nhưng không nhất thiết phải ngừng tập hoàn toàn ở tất cả trường hợp trong giai đoạn phục hồi, mà vẫn có thể tập nhẹ nhàng khi không đau quá; dùng nẹp bó bột khi rạn xương; ngoài ra nếu rạn xương bàn chân thì có thể đóng giày riêng để trọng lượng dàn đều lên bàn chân là điều rất quan trọng, chỉ tập luyện khi đã điều trị khỏi, tập sớm và mạnh dễ bị tái phát. - Sai khớp: là sự sai lệch các diện khớp xảy ra đột ngột do tai nạn, chấn thương làm thay đổi vị trí liên quan bình thường về cấu trúc giải phẫu của khớp và cản trở hoạt động tự nhiên của khớp. Trong hoạt động bóng chuyền với những tác động mạnh, nhanh thường xảy ra sai khớp nhất là khớp cổ chân, khớp ngón cái, khớp vai, khớp khuỷu, khớp gối. Khớp bị sai có thể bị lệch nhau hoàn toàn, nhưng cũng có thể chỉ sai lệch một phần (gọi là bán sai khớp). 116 Soá 39 - Quyù I naêm 2020
  8. NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI * Triệu chứng của sai khớp: - Đau: khi bị chấn thương mạnh tác động đến khớp gây đau dữ dội. - Mất cử động tự nhiên của khớp. - Biến dạng khớp: đầu xương có thể lồi hoặc lõm vào. - Đối với khớp vai: vai có vẻ vuông hơn, hẹp hơn, gồ lên ở phía trước vai, cánh tay bị dang ra không áp vào bình thường được và tay luôn ngửa. - Đối với khớp khuỷu: khuỷu hơi gập, mõm khuỷu nhô cao phía sau làm cho cánh tay phía trước như bị lõm vào và nạn nhân thường có động tác đỡ tay bị đau. * Phương pháp xử lý: trường hợp sai khớp phải được thầy thuốc chuyên khoa chữa trị. Tuy nhiên, việc sơ cứu ban đầu rất quan trọng và cần thiết, các biện pháp sơ cứu ban đầu như: - Bất động khớp tạm thời: để chi ở nguyên tư thế biến dạng của nó, không tự nhiên nắn kéo, sửa lại tư thế. - Nếu sai khớp vai chúng ta cố định tạm thời bằng cách dùng khăn treo cẳng tay để trước ngực. - Nếu sai khớp khuỷu có thể dùng khăn buộc ép chặt cánh tay vào thân mình hoặc cố định bằng nẹp trước và sau có độn bông. - Khi bất động khớp xong, nhanh chóng đưa bệnh nhân đến bện viện để nắn lại khớp càng sớm càng tốt vì càng để lâu khớp sưng tấy lên gây khó nắn và làm đau bệnh nhân, thời gian phục hồi lâu hơn. 3. Kết luận Mỗi môn thể thao đều có đặc điểm riêng về các hoạt động vận động và thi đấu. Do vậy chấn thương xảy ra ở mỗi môn thể thao đều khác nhau. Chính vì vậy, HLV, GV giảng dạy TDTT, VĐV, các y bác sĩ TDTT ngoài việc nắm bắt được triệu chứng và các biện pháp xử lý, sơ cứu ban đầu mà còn phải tìm hiểu nguyên nhân cụ thể xảy ra chấn thương trong tập luyện và thi đấu ở môn chuyên sâu của mình để có biện pháp phòng tránh và hạn chế các chấn thương có thể xảy ra. Tài liệu tham khảo [1]. Đặng Quốc Bảo, Lê Quý Phượng, Cơ sở y sinh học của tập luyện thể dục thể thao vì sức khỏe, Nhà xuất bản Thể dục thể thao Hà Nội, 2002. [2]. Lê Tấn Đạt, Lê Văn Xanh, Y Học thể thao, NXB. Thể dục thể thao Hà Nội, 2012. [3]. Lưu Quang Hiệp, Phạm Thị Uyên, Sinh lý học Thể dục Thể thao, NXB. Thể dục thể thao Hà Nội, 2000. Ngày nhận bài: 18/02/2020 Ngày gửi phản biện: 05/3/2020 Ngày chấp nhận đăng: 20/3/2020 1 Trường ĐHXD Miền Tây. Thoâng tin KH - GD Tröôøng Ñaïi hoïc Xaây döïng Mieàn Taây 117
nguon tai.lieu . vn