- Trang Chủ
- Y khoa - Dược
- Luận văn Y Dược: Khảo sát sự hài lòng của người dân đến tiêm ngừa dịch vụ tại phòng tiêm ngừa, Trung tâm y tế huyện Chợ Gạo năm 2019
Xem mẫu
- SỞ Y TẾ TIỀN GIANG
TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN CHỢ GẠO
KHẢO SÁT SỰ HÀI LÒNG CỦA NGƯỜI DÂN
ĐẾN TIÊM NGỪA DỊCH VỤ TẠI PHÒNG TIÊM NGỪA,
TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN CHỢ GẠO
NĂM 2019
- CHỢ GẠO – NĂM 2019
- LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình làm việc, nghiên cứu và hoàn thành đề tài, tôi đã
nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ tận tình từ quý lãnh đạo TTYT,
khoa Kiểm soát bệnh tật và các bạn bè, đồng nghiệp… Với lòng kính trọng
và biết ơn sâu sắc, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến:
Quý lãnh đạo TTYT huyện Chợ Gạo đã tận tình giúp đỡ tôi trong
suốt thời gian qua.
Lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp Khoa Kiểm soát bệnh tật đã giúp
đõ, động viên và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thu thập số
liệu và hoàn thành nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn vô hạn tới cha mẹ, người thân
và bạn bè, những người đã luôn quan tâm, động viên, khích lệ và tạo mọi
điều kiện để tôi có thể hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này.
Tác giả
- LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đề tài nghiên cứu khoa học “Khảo sát sự hài lòng
của người dân đến tiêm ngừa dịch vụ tại phòng tiêm ngừa, trung tâm y tế
huyện Chợ Gạo năm 2019” là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện
với sự giúp đỡ của quý lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu trong nghiên cứu này là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào.
Tác giả
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Diễn giải
KSBT Kiểm soát bệnh tật
KTC Khoảng tin cậy
NVYT Nhân viên y tế
PTN Phòng tiêm ngừa
TCMR Tiêm chủng mở rộng
TTYT Trung tâm y tế
WHO World Health Organization (Tổ chức Y tế thế giới)
- MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ
Trang
- DANH MỤC CÁC BẢNG
- Trang
- 10
ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta được biết, tiêm chủng mở rộng là một chương trình lớn
được Việt Nam triển khai từ năm 1981 do Bộ Y tế khới xướng với sự hỗ
trợ của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc
(UNICEF). Chương trình có mục tiêu ban đầu là cung cấp dịch vụ tiêm
chủng miễn phí cho trẻ em dưới 1 tuổi nhằm bảo vệ trẻ khỏi mắc 6 b ệnh
truyền nhiễm phổ biến và tử vong cao. Sau thời gian thí điểm và từng bước
nhân rộng cả về địa bàn và đối tượng tiêm chủng, hiện nay hầu hết trẻ em
được sinh ra đều được hưởng lợi từ chương trình này.
Song song đó, tiêm chủng dịch vụ cũng dần hình thành và phát triển
nhằm đáp ứng nhu cầu phòng ngừa bệnh tật ngày càng cao của xã hội.
Nhiều vắc xin dịch vụ được đưa vào sử dụng tại Việt Nam đảm bảo phục
vụ mọi đối tượng từ trẻ em đến người trưởng thành và cao tuổi, trong suốt
vòng đời của con người. Hiện nay, tại Việt Nam đang lưu hành >30 loại
vắc xin dịch vụ phòng ngừa hầu hết các loại bệnh phổ biến, trong đó có
nhiều vắc xin rất cần thiết cho người dân như vắc xin uốn ván, dại, cúm,
viêm gan A, B,…Các loại vắc xin này góp phần làm giảm gánh nặng bệnh
tật và tử vong của người dân.
Tại Tiền Giang nói chung và huyện Chợ Gạo nói riêng, tiêm chủng
dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong công tác phòng ngừa bệnh tật tại địa
phương và là cánh tay đắc lực của ngành y tế Việt Nam. Tại phòng tiêm
ngừa Chợ Gạo, hằng năm có trên 10000 lượt người dân đến tiêm ngừa các
loại vắc xin dịch vụ. Nhu cầu về vắc xin của người dân là rất cao, tuy vậy
nhiều loại vắc xin còn khan hiếm do nguồn cung không liên tục và kinh phí
dự trù vắc xin còn hạn chế. Bên cạnh đó còn tồn tại và phát sinh nhiều vấn
đề gây ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ tại phòng tiêm ngừa.
Để đánh giá khách quan về sự hài lòng của người dân đối với dịch vụ
tiêm ngừa tại phòng tiêm ngừa Trung tâm y tế huyện Chợ Gạo và từ đó
tìm ra các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ của phòng
tiêm ngừa trong tương lai, chúng tôi thực hiện đề tài: “Khảo sát sự hài
lòng của người dân đến tiêm ngừa dịch vụ tại phòng tiêm ngừa, Trung
tâm y tế huyện Chợ Gạo năm 2019” với các mục tiêu:
- 11
1. Đánh giá sự hài lòng của người dân đến tiêm ngừa tại phòng tiêm ngừa,
Trung tâm y tế huyện Chợ Gạo
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan tác động đến mức độ hài lòng của
người dân về dịch vụ tiêm ngừa tại phòng tiêm ngừa, Trung tâm y tế huyện
Chợ Gạo.
- 12
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sơ lược về vắc xin [12]
1.1.1. Lịch sử phát triển của vắc xin
Người tìm ra nguyên lý sử dụng vắc xin đầu tiên là Bác sỹ người
Anh Edward Jenner vào năm 1796, sau khi ông tiêm cho bé trai 13 tuổi vảy
vi rút đậu bò (vacca theo tiếng Latinh) để phòng bệnh đậu mùa.Vào năm
1798 vắc xin chủng ngừa bệnh đậu mùa đầu tiên đã được phát triển.
Qua thế kỷ XVIII và XIX với việc triển khai thực hiện công tác tiêm
chủng phòng đậu mùa đồng bộ và nhiều quốc gia tham dự nên năm 1979
bệnh đậu mùa đã được thanh toán trên toàn cầu.
Kế thừa nền tảng khoa học mà Edward Jenner để lại từ cuối thế kỷ
18 và thế kỷ 19 Louis Pasteur, người Pháp đã kế thừa và phát minh ra nhiều
loại vắc xin như vắcxin phòng bệnh tả và vắcxin phòng bệnh Than vào
năm 18971904, tiếp theo vắc xin phòng bệnh dịch hạch và vắc xin phòng
bệnh Lao BacillisCalmetteGuerin (BCG) được phát minh những năm 1950.
Vắc xin rất quan trọng khác là vắc xin phòng bệnh Ho gà toàn tế bào được
giới thiệu vào năm 1948. Giai đoạn tiếp theo 19501985 là giai đoạn nghiên
cứu và phát triển các vắc xin vi rút như vắc xin phòng bệnh Dại và bệnh
Bại liệt uống (sabin). Tiếp theo là sự ra đời của các văc xin vi rút khác như
Sởi, Quai bị và Rubella.
Các mốc lịch sử của quá trình phát triển Vắc xin
1798: Vắc xin phòng bệnh Đậu mùa của Jenner
1885: Vắc xin phòng bệnh Dại và Tả của Pasteur và Haffkine
1891: Vắc xin phòng bệnh Than của Pasteur
1896: Vắc xin Thương hàn của Wright
1897: Vắc xin phòng bệnh Dịch hạch (Plague) của Yersin
1921: Vắc xin phòng bệnh LaoBCG của Calmette và Guerin
1923: Vắc xin phòng bệnh Bạch hầu của Ramon và Clenny
1923: Vắc xin phòng bệnh Ho gà của Madsen
- 13
1927: Vắc xin phòng bệnh Uốn ván của Ramon và Zoeller
1935: Vắc xin phòng bệnh Sốt vàng (Yellow Fever) của Sellard và
Laigret
1937: Vắc xin phòng Cúm bất hoạt đầu tiên của Salk
1949: Vắc xin phòng bệnh Quai bị sống giảm độc lực của Smorodintsev
1954: Vắc xin phòng bệnh Bại liệt bất hoạt của Salk
1957: Vắc xin phòng bệnh Bại liệt sống giảm độc lực uống của Sabin
(OPV)
1960: Vắc xin phòng bệnh Sởi của Ender và Scharz
1967: Vắc xin phòng Quai bị của Weibeh và Buynach và Takahashi
1967: Vắc xin phòng bệnh Dại từ tế bào lưỡng bội người của Viktor
1973: Vắc xin phòng bệnh Thủy đậu của Takahashi
1976: Vắc xin phòng Viêm gan B của Maupas và Hillemann
1968: Vắc xin phòng viêm màng não do cầu khuẩn Meningitis C của
Gotschlich C
1971: Vắc xin phòng viêm màng não do cầu khuẩn Meningitis A của
Gotschlich A
1972: Vắc xin phòng bệnh viêm phổi do Heamophilus influenza (HiB)
1976: Vắc xin phòng bệnh viêm phổi do cầu khuẩn Pneumococcal
1981: Vắc xin phòng bệnh viêm gan B tái tổ hợp
1984: Vắc xin phòng bệnh Thương hàn Vi polyshaccaride
1986: Vắc xin phòng bệnh viêm màng não do cầu khuẩn Meningitis B
1989: Vắc xin phòng bệnh viêm gan siêu vi A
1995: Vắc xin phòng Zona thần kinh do virus Varicella Zoter
1998: Vắc xin phòng ỉa chảy do Rotavirus
1999: Vắc xin phòng bệnh viêm màng não do cầu khuẩn Meningitis C
cộng hợp (conjugate)
2000: Vắc xin phòng bệnh viêm phổi do cầu khuẩn Pneumococcal cộng
hợp (conjugate)
2006: Vắc xin phòng bệnh ung thư cổ tử cung do virus HPV (human
Papiloma Virus)
2015: Vắc xin phòng bệnh sốt xuất huyết (Dengue)
Các vắc xin đang nghiên cứu và đưa vào sử dụng trong thời gian tới
- 14
Vắc xin Herpes
Vắc xin cytomegalovirus
Vắc xin sốt rét
Vắc xin toxoplasma
Vắc xin phòng sâu răng
Vắc xin Leptospira
Vắc xin phòng bệnh chân tay miệng do virus EV71
Vắc xin phòng AIDS
Vắc xin phòng bệnh lao BCG tái tổ hợp (DNA recombinate)
Vắc xin phòng bệnh hội chứng đường hô hấp
1.1.2.Bản chất vắc xin:
Vắc xin là chế phẩm sinh học có tính kháng nguyên, có nguồn gốc từ
vi sinh vật (có thể toàn thân hoặc một phần hoặc có cấu trúc tương tự)
dùng để tạo miễn dịch đặc hiệu chủ động, nhằm tăng sức đề kháng của cơ
thể đối với một số tác nhân gây bệnh cụ thể.
1.1.3. Nguyên lý sử dụng:
Sử dụng vắc xin là đưa vào cơ thể kháng nguyên có nguồn gốc từ vi
sinh vật (VSV) gây bệnh hoặc VSV có cấu trúc kháng nguyên giống VSV
gây bệnh, đã được bào chế đảm bảo độ an toàn cần thiết, làm cho cơ thể
tự tạo ra tình trạng miễn dịch chống lại tác nhân gây bệnh. Nói một cách
khác: sử dụng vắc xin là tạo miễn dịch chủ động nhân tạo. Sự bảo vệ hình
thành nhờ sự đáp ứng miễn dịch vừa dịch thể (globulin miễn dịch đặc hiệu
nhất là IgG, có thể IgA và IgM), vừa trung gian tế bào (đại thực bào và tế
bào lympho).
Cường độ và hiệu quả của sự đáp ứng miễn dịch biến thiên theo:
Vắc xin: Tính chất và ham l
̀ ượng của kháng nguyên, những chất phụ gia
miễn dịch, thường sử dụng là những muối kim loại: Al hoặc Ca có thể tăng
cường sự đáp ứng của một vài vắc xin bất hoạt.
Vật chủ: Tuổi là một nhân tố quan trọng. Trẻ sơ sinh cần ít tháng để đạt
sự trưởng thành miễn dịch (dịch thể), ngoài ra kháng thể từ sữa mẹ có thể
đóng vai trò ngăn ngừa bệnh nhiễm trùng. Ngược lại sự đáp ứng miễn dịch
giảm dần với tuổi nhưng không biến mất ở người lớn tuổi. Những nhân tố
- 15
di truyền, còn chưa biết rõ cũng ảnh hưởng đến cường độ của sự đáp ứng
miễn dịch. 1.1.4. Đặc tính cơ bản của vắc xin:
Tính kháng nguyên đặc thù: Là khả năng kích thích cơ thể tạo thành
kháng thể. Kháng nguyên mạnh là kháng nguyên khi đưa vào cơ thể một
lần đã sinh ra nhiều kháng thể. Kháng nguyên yếu là những chất phải đưa
vào nhiều hoặc phải kèm theo một tá dược mới sinh được một ít kháng
thể.
Tính sinh miễn dịch: Vắc xin gây miễn dịch bằng một vi khuẩn hoặc vi
rút giảm độc lực, hoặc với một loai protein đ
̣ ặc hiệu có tính kháng nguyên
để gây ra một đáp ứng miễn dịch tạo ra hiệu quả đề kháng cho cơ thể về
sau khi tác nhân gây bệnh xâm nhập với đầy đủ độc tính.
1.1.5. Phân loại vắc xin:
Vắc xin sống giảm độc lực: Là những tác nhân nhiễm trùng tự nhiên,
được làm giảm độc một cách nhân tạo ở phòng thí nghiệm. Vắc xin đậu
mùa là loại vắc xin đầu tiên trong lịch sử, là một vi rút động vật (đậu bò)
có khả năng đem lại sự bảo vệ chéo chống lại virus đậu mùa mà nó rất
gần gũi. Phần lớn những vắc xin sống hiện có là những vắc xin vi rút: Vắc
xin sốt vàng, vắc xin bại liệt, sởi, rubella, quai bị. Một vắc xin vi khuẩn
sống thường sử dụng là BCG. Đối với vắc xin sống, sự chủng ngừa
thường một lần, gây nên sự nhiễm trùng nhẹ hoặc không biểu hiện, sự
nhân lên của vi rút trong cơ thể gây nên miễn dịch thường lâu bền, tương
đương với sự miễn dịch do sự nhiễm trùng tự nhiên.Những thuận lợi của
vắc xin sống là tiện lợi (tiêm 1 lần), giá thành thường rẻ. Điều bất tiện là
có thể đem lại nguy cơ nhiễm trùng (phản ứng và biến chứng).
Vắc xin chết: Là những chế phẩm kháng nguyên đã mất khả năng
nhiễm trùng nhưng còn bảo tồn tính chất gây miễn dịch. Người ta phân
biệt:
+ Vắc xin chết toàn thể: Loại vắc xin này chứa tất cả các thành phần
của tác nhân nhiễm trùng, giết chết bằng nhiệt, formol hoặc bpropiolacton,
bao gồm vắc xin vi khuẩn như ho gà, thương hàn TAB, tả uống hoặc vắc
xin vi rút như cúm, bại liệt, dại....
+ Vắc xin giải độc tố: Những vắc xin này chết nhưng chỉ chứa kháng
nguyên tinh chế: Loại văc xin này ch
́ ỉ bao gồm thành phần kháng nguyên
- 16
quan trọng nhất về phương diện sinh miễn dịch của vi khuẩn hoặc vi rút
được tinh khiết và làm bất hoạt. Ví dụ như vắc xin chứa giải độc tố vi
khuẩn bản chất protein (văc xin u
́ ốn ván, văc xin b
́ ạch hầu)
Vắc xin tách chiết (vắc xin dưới đơn vị) là vắc xin công nghệ cao, loại
chỉ tách lấy một phần vách (vỏ) chứa thành phần kháng nguyên đặc thù
Polysaccharide của vi khuẩn (vắc xin não mô cầu, vắc xin phế cầu), vắc
xin chứa thành phần kháng nguyên vi rút (vắc xin vi rút viêm gan B được
điều chế từ HBsAg có trong huyết tương những người nhiễm kháng
nguyên này). Những vắc xin chết có ưu điểm không có nguy cơ nhiễm
trùng. Những bất lợi bao gồm: giá thành thường cao, nguy cơ mẫn cảm,
một lịch chủng ngừa nhiều lần và lặp lại.
Vắc xin tái tổ hợp (vắc xin công nghệ mới): Là những vắc xin được sản
xuất dựa vào kỹ thuật di truyền và công nghệ gen, như văc xin viêm gan B
́
tái tổ hợp.
1.1.6 Nguyên tắc sử dụng vắc xin
Việc sử dụng văc xin ph
́ ải đảm bảo các nguyên tắc sau:
Tiêm chủng trên phạm vi rộng, đạt tỷ lệ cao.
Tiêm chủng đúng đối tượng.
Bắt đầu tiêm chủng đúng lúc, bảo đảm đúng khoảng cách giữa các lần
tiêm chủng, tiêm chủng nhắc lại đúng thời gian.
Tiêm chủng đúng đường và đúng liều lượng.
Nắm vững phương pháp phòng và xử trí các phản ứng không mong
muốn do tiêm chủng.
Bảo quản vắc xin đúng quy định
1.1.7. Phạm vi tiêm chủng:
Phạm vi tiêm chủng được quy định tuỳ theo tình hình dịch tễ của
từng bệnh. Phạm vi tiêm chủng đương nhiên không giống nhau giữa các
nước. Ngay cả các khu vực trong một nước cũng có thể có sự khác nhau.
Những quy định này lại có thể thay đổi theo thời gian do sự thay đổi về
dịch tễ học của bệnh nhiễm trùng.
1.1.8. Đối tượng tiêm chủng
Đối tượng cần được tiêm chủng một loại vắc xin nào đó là tất cả
những người có nguy cơ nhiễm vi sinh vật gây bệnh mà chưa có miễn dịch.
- 17
Trẻ em là đối tượng cần được đặc biệt quan tâm. Sau khi hết miễn dịch
thụ động do mẹ truyền (trong thời gian khoảng 6 tháng), nguy cơ mắc
bệnh nhiễm trùng của trẻ rất lớn. Trừ những đối tượng chống chỉ định, tất
cả trẻ em đều phải được tiêm chủng.
Đối với người lớn, đối tượng tiêm chủng thu hẹp hơn. Thường chỉ tiến
hành tiêm chủng cho những nhóm người có nguy cơ cao. Những người đi
du lịch đến các vùng dịch tể cần phải được tiêm chủng.
Nói chung không được tiêm chủng cho các đối tượng sau đây:
Những người đang bị sốt cao. Những trường hợp đang bị nhiễm trùng
nhẹ, không sốt hoặc chỉ sốt nhẹ thì không cần phải hoãn tiêm chủng.
Những người đang ở trong tình trạng dị ứng. Những người có cơ địa dị
ứng hoặc có lịch sử gia đình bị dị ứng vẫn tiêm chủng được, nhưng cần
phải theo dõi cẩn thận hơn.
Vắc xin sống giảm độc lực không được tiêm chủng cho những người bị
thiếu hụt miễn dịch, những người đang dùng thuốc ức chế miễn dịch hoặc
những người mắc bệnh ác tính.
Tất cả các loại vắc xin vi rút sống giảm độc lực không được tiêm cho
phụ nữ đang mang thai.
1.1.9. Thời gian tiêm chủng
Việc tiêm chủng được tiến hành thường xuyên hoặc tập trung tiêm
chủng hàng loạt tuỳ thuộc vào yêu cầu của mỗi loại vắc xin và các điều
kiện cụ thể khác.
Thời điểm tổ chức tiêm chủng: Khi đã xác định được quy luật xuất hiện
dịch, cần phải tiến hành tiêm chủng đón trước mùa dịch, để cơ thể có đủ
thời gian hình thành miễn dịch. Đối với vaccine được tiêm chủng lần đầu,
thời gian tiềm tàng kéo dài từ 24 giờ (trung bình khoảng 1 tuần), tuỳ thuộc
vào bản chất vắc xin và tính phản ứng của cơ thể. Hiệu giá kháng thể đạt
được đỉnh cao nhất sau khoảng 4 ngày đến 4 tuần (trung bình 2 tuần). Đó là
kết quả của đáp ứng tiên phát. Khi tiêm chủng nhắc lại, thời gian tiềm tàng
sẽ rút ngắn, hiệu giá kháng thể đạt được đỉnh cao nhất chỉ sau một số ngày
nhờ những tế bào lympho có trí nhớ miễn dịch. Đó là kết quả của đáp ứng
miễn dịch thứ phát.
- 18
Khoảng cách giữa các lần tiêm chủng: Đối với những vắc xin phải tiêm
chủng nhiều lần (khi tạo miễn dịch cơ bản), khoảng cách hợp lý giữa các
lần tiêm chủng là 1 tháng. Nếu khoảng cách này ngắn hơn, mặc dù tiêm
chủng lần sau nhưng kết quả đáp ứng của cơ thể vẫn chỉ như tiên phát, đáp
ứng miễn dịch thứ phát sẽ không có hoặc bị hạn chế. Ngược lại vì một lý
do nào đó phải tiêm chủng lần tiếp theo sau hơn 1 tháng, hiệu quả miễn
dịch vẫn được đảm bảo, vì vậy lần tiêm chủng trước vẫn được tính. Tuy
nhiên không nên kéo dài việc tiêm chủng nếu không có những lý do bắt
buộc, vì trẻ có thể bị măc bệnh trước khi được tiêm chủng đầy đủ.
Thời gian tiêm chủng nhắc lại: Thời gian tiêm chủng nhắc lại tuỳ thuộc
vào thời gian duy trì được tình trạng miễn dịch có đủ hiệu lực bảo vệ của
mỗi loại vắc xin. Thời gian này khác nhau đối với các loại vắc xin khác
nhau. Khi tiêm chủng nhắc lại thường chỉ cần 1 lần.Với lần tăng cường
này, cơ thể sẽ đáp ứng miễn dịch nhanh và mạnh hơn, cho dù kháng thể
của lần tiêm chủng trước chỉ còn lại rất ít.
1.1.10. Liều lượng và đường đưa vắc xin vào cơ thể
Liều lượng: Liều lượng vắc xin tuỳ thuộc vào loại vắc xin và đường
vào cơ thể. Liều lượng quá thấp sẽ không đủ khả năng kích thích cơ thể
đáp ứng miễn dịch. Ngược lại, liều lượng quá lớn sẽ dẫn đến tình trạng
dung nạp đặc hiệu đối với lần tiêm chủng tiếp theo.
Đường tiêm chủng: Mỗi loại vắc xin đòi hỏi một cách thức chủng
ngừa thích hợp. Người ta sử dụng nhiều phương pháp chủng ngừa:
Chủng (rạch da): đây là đường cổ điển nhất, được thực hiện ngay từ lúc
Jenner sáng chế ra vắc xin phòng bệnh đậu mùa. Đối với vắc xin này,
đường chủng vẫn được dùng cho đến khi bệnh đậu mùa bị tiêu diệt hoàn
toàn trên hành tinh của chúng ta (1979), không cần phải chủng đậu nữa.
Ngày nay đường chủng vẫn còn được sử dụng cho một số ít vắc xin (BCG,
dịch hạch).
Đường tiêm: có thể tiêm trong da, tiêm dưới da hoặc tiêm bắp, không
bao giờ tiêm vắc xin vào đường tĩnh mạch. Đa số các vắc xin có thể tiêm
dưới da, chỉ một số vắc xin không cho phép sử dụng cách chủng ngừa này,
BCG phải tiêm trong da, tiêm dưới da thường hay gây loét. Phương pháp
tiêm trong da có nhiều ưu điểm: chỉ cần một lượng vắc xin tương đối nhỏ
- 19
(0,1ml), ít gây phản ứng, hiệu ứng miễn dịch không kém gì phương pháp
tiêm dưới da. Tiêm trong da có thể được thực hiện bằng bơm kim tiêm
hoặc bằng bơm nén áp lực không kim, phương pháp này giúp việc tiêm
chủng nhanh chóng dễ thực hiện với quy mô rộng rãi, nhưng cần lưu ý
đúng kỹ thuật.
Đường uống: Đường uống là đường đưa vắc xin vào cơ thể dễ thực
hiện nhất. Tuy nhiên chỉ thực hiện được đối với những vắc xin không bị
dịch đường tiêu hoá phá huỷ. Sự hiểu biết tốt hơn về vai trò của miễn dịch
tại chỗ do IgA tiết, những vắc xin phòng nhiễm trùng đường tiêu hoá hoặc
nhiếm trùng ở nơi khác nhưng vi sinh vật xâm nhập vào cơ thể theo đường
tiêu hoá đã được sử dụng (như vắc xin bại liệt) hoặc đang được nghiên
cứu đưa vào cơ thể bằng cách uống. Đường uốnglợi điểm là kích thích
miễn dịch tại chỗ mạnh hơn nhiều so với đường tiêm, nhưng đường uống
không bảo đảm sự cố định của vi rut trong v
́ ắc xin, cho nên uống 3 lần liên
tiếp văc xin b
́ ại liệt được xem như cần thiết đê t
̉ ạo thành miễn dịch.
Ngậm dưới lưỡi: hiện nay đã có một số vắc xin đường ruột điều chế
dưới dạng viên để ngậm dưới lưỡi. Cần phải có một liều lượng kháng
nguyên cao mới bảo đảm tác dụng gây miễn dịch.
Nhỏ mũi: Được sử dụng rộng rãi cho vắc xincúm.
Ngoài ra vắc xin còn được đưa vào cơ thể theo một số đường khác như
khí dung, thụt đại tràng, những đường này ít được sử dụng.
1.1.11. Các phản ứng phụ do tiêm chủng
Về nguyên tắc, vắc xin phải đảm bảo đủ độ an toàn. Song trên thực
tế không thể đạt được mức độ an toàn tuyệt đối. Tất cả các vắc xin đều có
thể gây ra phản ứng phụ ở một số người.
Phản ứng tại chỗ: Những phản ứng nhẹ thường gặp sau tiêm chủng là
nơi tiêm có thể hơi đau, mẩn đỏ, hơi sưng hoặc nổi cục nhỏ. Những phản
ứng này sẽ mất đi nhanh chóng sau một vài ngày, không cần phải can thiệp
gì. Nếu tiêm chủng không đảm bảo vô trùng, thì nơi tiêm chủng có thể bị
viêm nhiễm, làm mủ.
Phản ứng toàn thân: Trong các phản ứng toàn thân, sốt hay gặp hơn cả
(1020%). Sốt thường hết nhanh sau một vài ngày. Co giật có thể gặp
nhưng với tỷ lệ rất thấp (1/10.000), hầu hết khỏi không để lại di chứng gì.
- 20
Một số vắc xin có thể gây ra phản ứng nguy hiểm hơn, trong đó có sốc
phản vệ nhưng tỷ lệ rất thấp. Khi bàn đến những phản ứng do vắc xin, rất
cần thiết phải nhấn mạnh rằng mức độ nguy hiểm do vắc xin nhỏ hơn rất
nhiều so với mức độ nguy hiểm do bệnh nhiễm trùng tương ứng gây ra.
Thí dụ, tỷ lệ biến chứng nguy hiểm do bệnh ho gà gấp hàng trăm đên hàng ́
nghìn lần phản ứng nguy hiểm do vắc xin bạch hầu ho gà uốn ván (vắc
xin DPT) gây ra.
1.1.12. Bảo quản vắc xin
Vắc xin rất dễ bị hỏng nếu không được bảo quản đúng. Chất lượng
vắc xin ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực tạo miễn dịch, vì vậy các vắc
xin cần phải được bảo quản tốt ngay từ lúc nó được sản xuất cho tới khi
được tiêm chủng vào cơ thể. Trong quá trình sử dụng ở cộng đồng, các vắc
xin cần được bảo quản ở nhiệt độ trong khoảng từ 20Cđến 80C.
1.2. Vài nét về lịch sử tiêm chủng trên thế giới
Tiêm chủng là biện pháp hiệu quả để phòng ngừa bệnh tật, chính vì
vậy, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã phát động chương trình tiêm chủng
phòng một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho trẻ em. Khởi đầu từ năm
1900, chương trình tiêm chủng được thực hiện ở các nước công nghiệp
phát triển và vắc xin phòng chống bệnh đậu mùa được đưa vào tiêm chủng
đầu tiên. Tiếp theo là vắc xin BCG (các năm 1930 – 1940), vắc xin bại liệt
tiêm (1955), vắc xin bại liệt uống (1962). Kết quả là bệnh đậu mùa, căn
bệnh người ta lo sợ nhất trong nhiều thế kỷ, được WHO đặt ra mục tiêu
loại trừ. Và với những nỗ lực không ngừng để tăng tỷ lệ tiêm chủng, căn
bệnh này đã được loại trừ vào năm 1980 [2].
Đến năm 1974, 7 loại vắc xin được đưa vào chương trình tiêm chủng
mở rộng bao gồm: đậu mùa, lao, bạch hầu, uốn ván, ho gà, bại liệt
tiêm/uống và sởi. Thời gian đầu chỉ có xấp xỉ 5% số đối tượng được tiêm
chủng ở các nước phát triển. Tổ chức Y tế Thế giới phát động chiến lược
mở rộng diện triển khai và tăng tỷ lệ tiêm chủng ở các khu vực và các quốc
gia. Dần dần, chương trình Tiêm chủng mở rộng trở thành chương trình ưu
tiên hàng đầu quốc gia của hầu hết các nước trên thế giới, ở cả các nước
phát triển và đang phát triển.
nguon tai.lieu . vn