Xem mẫu

  1. Luận văn XKLĐ – giải pháp tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình hội nhập KTQT 1
  2. LỜI MỞ ĐẦU. 1. Tính cấp thiết của đề tài. Hội nhập KTQT trong xu thế toàn cầu hóa đã tạo ra những điều kiện nhất định cho Việt Nam phát triển kinh tế, đặc biệt là sự phát triển của phân công và hiệp tác lao động quốc tế làm cho hoạt động XKLĐ của Việt Nam ngày càng khởi sắc. XKLĐ cho phép Việt Nam phát huy được lợi thế của mình về nhân lực, XKLĐ đem lại cho Việt Nam rất nhiều lợi ích: giảm thất nghiệp, tăng thu ngân sách, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao chất lượng cuộc sống, mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước. Với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động XKLĐ nên em đã chọn đề tài: “ XKLĐ – giải pháp tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình hội nhập KTQT” để làm đề án môn học. 2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu đề tài này nhằm vận dụng lý thuyết vào thực tế để luận giải nhũng nhân tố ảnh hưởng đến XKLĐ, vai trò của XKLĐ trong công tác tạo việc làm, đánh giá tình hình thực hiện XKLĐ, những tồn tại , nguyên nhân và giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động XKLĐ trong điều kiện hội nhập KTQT.ư Nhiệm vụ: đưa ra cơ sở lý luận của hoạt động XKLĐ – giải pháp tạo việc làm trong quá trình hội nhập KTQT, phân tích tình hình thực hiện và đưa ra các giải pháp. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu: hoạt động XKLĐ của Việt Nam trong điều kiện hội nhập, cụ thể ở đây là hoạt động đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Phạm vi nghiên cứu: hoạt động XKLĐ – đưa lao động đi làm việc ở một số nước giai đoạn 2000 – 2004. 4. Tên đề tài và kết cấu của đề án. 2
  3. Tên đề tài: “ XKLĐ – giải pháp tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình hội nhập KTQT”. Tên các phần: Phần I: cơ sở khoa học về XKLĐ – giải pháp tạo việc làm trong tiến trình hội nhập KTQT . Phần II: Thực trạng của công tác XKLĐ – giải pháp tạo việc làm cho người lao động. Phần III: phương hướng, mục tiêu và giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác XKLĐ – giải pháp tạo việc làm trong tiến trình hội nhập KTQT. 3
  4. PHẦN I: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG – GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KTQT. I. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG – GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM. 1. Việc làm – thất nhiệp. Xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp tạo việc làm khá phổ biến đặc biệt là đối với các nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Trước khi đi vào tìm hiểu về xuất khẩu lao động ta cần hiểu một số khái niệm liên quan như việc làm, thất nghiệp, tạo việc làm,...  Việc làm. Theo nghĩa chung nhất thì việc làm được hiểu là phạm trù chỉ trạng thái phù hợp giữa số lượng lao động và điều kiện cần thiết ( vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ,...) để sử dụng sức lao động đó. Trong đó: Việc làm đầy đủ: tức là sử dụng hết thời gian làm việc, mọi người có khả năng và có nhu cầu thì đều có việc làm. Việc làm hợp lý: là sự kết hợp giữa nguyên vật liệu, tư liệu sản xuất, ... và sức lao động và dựa trên tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất, sức lao động. Theo Điều 13, Chương II, Bộ Luật lao động của nước CHXHCN Việt Nam ghi rõ “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều thừa nhận là việc làm. Theo ILO – Tổ chức lao động quốc tế “ việc làm là hoạt động lao động được trả công bằng tiền và hiện vật. Người có việc làm là những người làm việc trong những khoảng thời gian xác định cuộc điều tra kể cả lao động làm nghề giúp việc gia đình được trả công, hoặc đang tạm thời nghỉ việc do tai nạn, bệnh tật, nghỉ lễ,... 4
  5. Người thiếu việc làm: là những người trong khoảng thời gian xác định điều tra có tổng số giờ lao động nhỏ hơn thời gian quy định trong tháng, năm,...  Thất nghiệp. Theo đúng nghĩa của từ thì thất nghiệp là mất việc làm hay sự tách rời sức lao động ra khỏi tư liệu sản xuất. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về thất nghiệp: Theo ILO - tổ chức lao động quốc tế, thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi lao động muốn có việc làm nhưng không tìm được việc làm ở mức lương thịnh hành. Ở Việt Nam, người thất nghiệp là người đủ 15 tuổi trở lên có nhu cầu làm việc nhưng không có việc làm trong tuần lễ điều tra hoặc tính đến thời điểm điều tra có đi tìm việc làm trong 4 tuần lễ vừa qua hoặc không đi tìm việc làm trong 4 tuần lễ với lý do chờ việc, nghỉ thời vụ, không biết tìm việc ở đâu hoặc trong tuần lễ điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 8h/ ngày, muốn làm thêm nhưng không có việc. 2. Tạo việc làm. Tạo việc làm là quá trình tạo ra số lượng, chất lượng tư liệu sản xuất, số lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội để kết hợp sức lao động và tư liệu sản xuất. Vấn đề tạo việc làm luôn được các nước quan tâm, đặc biệt đối với Việt Nam là nước có tốc độ gia tăng dân số, nguồn lao động khá cao trong khi tốc độ phát triển kinh tế còn chưa cao do hạn chế về vốn, tư liệu sản xuất còn dưới mức của nhu cầu kết hợp với sức lao động. Do vậy mà công tác tạo việc làm là rất cần thiết để góp phần làm giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp; đáp ứng các nhu cầu, nghĩa vụ và quyền lợi cho người đang trong độ tuổi lao động; thu nhập của người lao động tăng lên, chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao... Các hướng chủ yếu trong công tác tạo việc làm của nước ta hiện nay: 5
  6. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển các ngành nghề một cách phù hợp, công nghiệp hóa nông thôn, phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, phục hồi và phát triển các làng nghề truyền thống,.. Đẩy mạnh đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển của kinh tế xã hội nói chung và thị trường lao động nói riêng. Vận dụng thuyết lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế với các nước trong khu vực và trên thế giới tiến hành xuất khẩu lao động giải quyết việc làm cho lượng lao động ngày một tăng nhanh, tăng thu ngoại tệ cho nhà nước, tăng thu nhập cho người lao động. Hoàn thiện, phát triển, tăng cường sự hoạt động của hệ thống thông tin thị trường lao động. Động viên người lao động tự tạo việc làm trong các ngành nghề thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước, đặc biệt khu vực phi chính thức. 3. K inh tế quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Khái niệm. Nền kinh tế thế giới (kinh tế quốc tế ) là tổng thể các nền kinh tế của các quốc gia trên trái đất có mối liên hệ hữu cơ và mối quan hệ qua lại lẫn nhau thông qua sự phân công lao động quốc tế cùng với quan hệ kinh tế quốc tế của chúng. Sự phát triển của nền kinh tế thế giới phụ thuộc trước hết vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của phân công lao động quốc tế và việc phát triển quan hệ quốc tế. Ngày nay kinh tế thế giới là một thực thể đặc thù, có cơ cấu nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ quan hệ với những phạm vi hoạt động khác nhau, các bộ phận cấu thành nền kinh tế tác động qua lại nhiều chiều trong sự vận động biến đổi không ngừng cả về số lượng và chất lượng. 6
  7. Hội nhập KTQT là khái niệm mở, phản ánh quá trình các thể chế quốc gia tiến hành xây dựng phương hướng, kí kết, và tuân thủ các cam kết song phương, đa phương và toàn cầu ngày càng đa dạng hơn, cao hơn và đồng bộ hơn trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế quốc gia và quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế chỉ sự tham gia chủ động tích cực của một quốc gia vào quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương nhưng vẫn giữ sự kiểm soát và bản sắc riêng của nền kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của một nước vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu trong đó các thành viên quan hệ với nhau theo những quy định chung. 3.2. Những thuận lợi và thách thức khi hội nhập KTQT Hơn 10 năm thực hiện chính sách mở cửa, cùng với những tiềm năng và nguồn lực phát triển phong phú, Việt Nam đã có những tiền đề nhất định trong việc hội nhập vào nền kinh thế giới. Là nước có nguồn lực to lớn, giàu tài nguyên thiên nhiên cùng với nguồn nhân lực dồi dào là những điều kiện và lợi thế so sánh quan trọng để Việt Nam tham gia vào phân công lao động quốc tế và trao đổi mậu dịch quốc tế. Việt Nam nằm trong khu vực phát triển năng động nhất của nền kinh tế thế giới , có cơ hội để tham gia vào nền kinh tế khu vực (ASEAN, AFTA ) cũng như các tổ chức kinh tế thế giới như WTO,.. Hội nhập vào nền kinh tế thế giới khẳng định Việt Nam đ ã có bước tiến mới trong phát triển kinh tế, nâng vị thế của mình trên trường quốc tế đồng thời quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới giúp cho nền kinh tế Việt Nam được tiếp cận với thị trường hàng hóa và dịch vụ của các nước thành viên với mức thuế thấp, có vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định các chính sách thương mại, có điều kiện học hỏi và rút kinh nghiệm từ các nước đi trước, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm để 7
  8. tăng sức cạnh tranh với hàng hóa các nước khác, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, sản xuất được mở rộng, việc làm tăng lên, thất nghiệp giảm, thu nhập của người lao động được cải thiện, chất lượng cuộc sống dần được nâng lên đáng kể,... Như vậy với một nước có nền kinh tế phát triển còn non trẻ như Việt Nam thì tiến trình hội nhập KTQT sẽ là rất cần thiết để nền kinh tế phát triển, và đặc biệt với công tác tạo việc làm thì tiến trình hội nhập có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, người lao động Việt Nam không chỉ được tiếp cận với thị trường lao động trong nước mà còn được tiếp cận với thị trường lao động của các nước trong khu vực cũng như các nước trên thế giới và thị trường lao động quốc tế thông qua hoạt động xuất khẩu lao động. Bên cạnh đó Việt Nam cung gặp những khó khăn nhất định trong quá trình hội nhập KTQT, sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam còn yếu trên thị trường thế giới; nguồn nhân lực nước ta chất lượng còn chưa cao, trình độ tay nghề thấp chủ yếu là lao động phổ thông , ít thợ lành nghề cùng với nguy cơ tụt hậu so với nền kinh tế khu vực và thế giới là rất lớn thêm vào đó là những ảnh hưởng của sự mất ổn định của môi trường kinh tế - tài chính – tiền tệ của khu vực và toàn cầu gây khó khăn cho Việt Nam trong việc lựa chọn mô hình và chính sách phát triển kinh tế. Trước những thuận lợi và khó khăn này đòi hỏi có những giải pháp cần thiết để Việt Nam phát huy những lợi thế của mình trong tiến trình hội nhập KTQT. 4. Xuất khẩu lao động. Trước khi đi tìm hiểu về xuất khẩu lao động ta cần nắm được một số khái niệm cơ bản sau: Nhập cư chủ yếu đề cập đến người lao động ( có nghề hoặc không có nghề ) từ nước ngoài đến một nước nào đó để làm việc. 8
  9. Xuất cư chủ yếu đề cập tới người lao động ra đi từ một nước nào đó tới nước mà họ lao động (có thể là từ quê hương hoặc từ một nước quá cảnh). Hợp tác quốc tế về lao động là thuật ngữ được sử dụng trong một số nước XHCN trong phạm vi khối SEV trước đây. Thuật ngữ này không nêu được bản chất của xuất khẩu lao động d ưới hình thức không ngang giá sức lao động – một loại hàng hóa đặc biệt.(7, tr 11) Xuất khẩu lao động ( XKLĐ) là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến, có tính chất thông dụng để chỉ hoạt động chuyển dịch lao động từ quốc gia này sang quốc gia khác. Nó gồm cả xuất khẩu lao động tại chỗ. Tham gia vào quá trình này gồm hai bên: bên nhập khẩu lao động và bên xuất khẩu lao động. Nghị định số 152/ 1999/ NĐ – CP ngày 20/ 9/ 1999 của Chính phủ nêu rõ: “ Xuất khẩu lao động và chuyên gia là hoạt động kinh tế - xã hội góp phần phát triển nguồn lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động tăng nguồn thu ngoại tề cho đất nước,…cùng với giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa…”(7, tr 11,12). Lao động xuất khẩu nói về bản thân người lao động hoặc tập thể người lao động có những độ tuổi khác nhau, sức khẻo và kỹ năng lao động khác nhau. Như vậy việc di chuyển trong phạm vi toàn cầu bản thân nó cũng có thể biến dạng khác nhau. Nó vừa mang ý nghĩa xuất khẩu lao động vừa mang ý nghĩa di chuyển lao động. Ở Việt Nam hiện nay, hoạt động xuất khẩu lao động chủ yếu là nhằm mục đích đích kinh tế và nó vươn ra ngày càng nhiều thị trường lao động của các nước trên thế giới. 9
  10. II. MỐI QUAN HỆ GIỮA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG – GIẢI PHAP TẠO VIỆC LÀM VÀ TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KT. Vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống cho mọi người chính là mục tiêu phát triển kinh tế của bất cứ quốc gia nào và ở bất cứ thời kỳ nào. Cùng với quá trình hội nhập KTQT thì xu thế phân công và hiệp tác lao động quốc tế là một tất yếu khách quan, trong đó xuất khẩu lao động là một hình thức của phân công lao động quốc tế đ ã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối lao động giữa các quốc gia trên thế giới. Do vậy để xuất khẩu lao động không chỉ mang tính chiến lược mà còn có khả năng cạnh tranh cao thì bản thân xuất khẩu lao động đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài: Trước đây khi chưa có hoạt động xuất khẩu lao động, do nhu cầu của cuộc sống muốn nâng cao thu nhập và hiện tượng thiếu lao động ở những nước phát triển có nền sản xuất lớn đã xuất hiện hiện tượng di chuyển lao động từ vùng này sang vùng khác và từ nước này sang nước khác dưới hai dạng làm việc lâu dài và làm việc tạm thời. Cả hai phía người lao động và người thuê lao động đều thu được lợi hoạt động này, người thuê lao động thuê được nhân công với giá rẻ, người lao động có việc làm và thu nhập để cải thiện đời sống. Như vậy việc di chuyển lao động ( chỉ đề cập đến di chuyển lao động ra khỏi biên giới một quốc gia) trước hết là một hiện tượng khách quan trong quy luật hoạt động của bản thân người lao động, tiếp đó là sự thúc ép về việc làm đối với nước có quá nhiều lao động và nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu lao động mang lại, và một loạt các nguyên nhân khác nữa. Khoảng 60 – 70 năm trước đây, trước thực tế của một số nước có tốc độ tăng dân số, nguồn nhân lực quá nhanh trong khi tr ình độ phát triển của nền kinh tế còn thấp, không có khả năng tạo ra việc làm đầy đủ cho người lao động. Thất nghiệp, đời sống của người dân gặp nhiều khó khăn, đặt các nhà quản lý về lao 10
  11. động trước câu hỏi đặt ra là làm thế nào để giảm tỷ lệ thất nghiệp? Trong khi đó ở những nước có nền kinh tế phát triển, sản xuất lớn thì lại gặp phải tình trạng thiếu nhân công. Trước tình hình trên một số nước đã giải quyết tình trạng thừa lao động bằng cách khuyến khích người lao động của mình ra nước ngoài làm việc như: Philippin, Đài Loan, Nam Triều Tiên, Thái Lan,… mà chưa có tiền lệ hay điều lệ nào đối với người. Đến khoảng 20 năm trở lại đây,cùng với quá trình khu vực hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế, việc đưa lao động ra nước ngoài đã được nâng lên một tầm mới cả về quy mô, hình thức và chất lượng. Đó là do nền kinh tế toàn cầu đang phát triển và chuyển biến về chất không đồng đều giữa các nước trên thế giới trên cơ sở của tiến bộ kĩ thuật và khoa học công nghệ. Nhu cầu về lao động cũng có những đặc điểm nhất định: Nhóm các nước có nền kinh tế phát triển, nền sản xuất tiên tiến có nhu cầu lao động giản đơn hoạt động trong các ngành dịch vụ, nông thôn, ngư nghiệp và một số ngành sản xuất nặng nhọc khác như: Hà Lan, Pháp, Đức, …Song các nước này cũng đưa các chuyên gia bậc cao và lao động kỹ thuật đi làm việc ở các nước đang và chậm phát triển để thu ngoại tệ. Đối với nhóm chậm và đang phát triển luồng di chuyển lao động có 2 xu hướng: Tiếp nhận lao động kỹ thuật và lao động giản đơn di chuyển từ các - vùng khác nhau để khai thác tài nguyên thiên nhiên của chính nước mình để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Cung cấp lao động giản đơn cho những nước có nhu cầu về lao - động để giảm sức ép về việc làm trong nước và tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Ngoài ra nhu cầu trao đổi lao động cũng tùy thuộc vào từng thời kỳ. 11
  12. Từ thực tiễn ta thấy sức lao động của các quốc gia dư thừa lao động đã trở thành hàng hóa mang tính quốc tế mà các quốc gia đem đổi lấy ngoại tệ dưới nhiều hình thức khác nhau. Như vậy đến nay việc di chuyển lao động giữa các nước không còn là hoạt động đơn lẻ, tự phát của bản thân người lao động mà đã được thực hiện một cách có tổ chức dưới hình thức tổ chức xuất khẩu lao động của nhà nước hay tổ chức tư nhân hoạt động về xuất khẩu lao động. Ngày nay, khi kinh tế ngày càng phát triển cùng với quá trình hội nhập khu vực hóa, toàn cầu hóa diễn ra sâu rộng thì phân công và hiệp tác lao động cũng không ngừng phát triển. Đặc biệt là đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập KTQT là điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiến hành xuất khẩu lao động sang các nước giải quyết việc làm cho người lao động đồng thời tăng nguồn thu ngoại tệ cho nhà nước, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần vào công cuộc phát triển đất nước với mục tiêu: dân giàu – nước mạnh – xã hội công bằng văn minh. III. ĐẶC ĐIỂM CỦA XKLĐ – GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KTQT. 1. XKLĐ – giải pháp tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình hội nhập KTQT. Hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế của các nước chậm và đang phát triển thì xuất khẩu lao động đã trở thành một trong những giải pháp quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho người lao động trong khi tốc độ tăng dân số và nguồn lao động còn khá cao và thu ngoại tệ dưới hình thức chuyển tiền về của người lao động và một loạt các lợi ích khác. Trước nhũng lợi ích thu được từ hoạt động xuất khẩu lao động đ ã đặt các nước tiến hành xuất khẩu lao động trước một thách thức là làm sao chiếm lĩnh ở mức cao nhất thị trường lao động nước ngoài. Thị trường lao động cũng như thị trường hàng hóa hoạt động dựa trên quan hệ cung cầu về sức lao động, nó cũng 12
  13. chịu sự điều tiết chi phối của các quy luật kinh tế thị trường. Bên cung phải tính toán sao cho hoạt động xuất khẩu lao động phải bù đắp được chi phí và có lãi vì vậy cần có những biện pháp cần thiết để tăng tối đa khả năng cung ứng sức lao động, bên cầu phải tính toán kỹ lưỡng việc nhập khẩu lao động sao cho việc nhập khẩu lao động mang lại hiệu quả cao nhất và tránh lãng phí. Như vậy hoạt động xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế mang lại lợi ích cho các bên tham gia: người lao động đi xuất khẩu, nước có lao động đi xuất khẩu, nước nhập lao động xuất khẩu, và tổ chức thực hiện xuất khẩu lao động. Do vậy nhà nước cần có các biện pháp để quản lý và thúc đẩy sự phát triển của hoạt động xuất khẩu lao động để đem lại hiệu quả cao nhất. 2. XKLĐ – giải pháp tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình hội nhập KTQT là hoạt động thể hiện rõ tính chất xã hội. Việc xuất khẩu lao động thực chất là xuất khẩu sức lao động không tách rời người lao động. Do vậy mọi chính sách, pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao động phải kết hợp với các chính sách x ã hội khác để đảm bảo cho người lao động ở nước ngoài được lao động như cam kết trong hợp đồng và đảm bảo quyền được tham gia tổ chức công đoàn, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp cho người lao động. Mặt khác thì việc đi xuất khẩu lao động mang tính thời hạn, do vậy cần phải có những chính sách thích hợp để tiếp nhận người lao động, giải quyết việc làm cho người lao động sau khi kết thúc thời hạn hợp đồng để họ tiếp tục sử dụng sức lao động của mình vào quá trình sản xuất trong nước. Góp phần giảm thất nghiệp, tránh lãng phí nguồn nhân lực có tay nghề. 3. XKLĐ là sự kết hợp hài hòa giữa sự quản lý vĩ mô của nhà và sự tự chịu trách nhiệm của tổ chức XKLĐ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Khi mà hoạt động XKLĐ đã được diễn ra một cách có tổ chức thì hoạt động này được thực hiện dựa trên cơ sở các hiệp định được kí kết giữa các chính 13
  14. phủ và các hợp đồng cung ứng lao động và chuyên gia giữa nước, tổ chức nước ngoài nhập lao động và tổ chức thực hiện xuất khẩu lao động – đại diện cho người lao động. Trong giai đoạn 1980 – 1990, Việt Nam XKLĐ của mình qua các hiệp định song phương quy định rất rõ về các điều kiện ăn ở, đi lại và bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của người lao động. Về cơ bản nhà nước vừa quản lý về mặt hành chính của hoạt động XKLĐ vừa quản lý về mặt sự nghiệp hợp tác lao động với nước ngoài. Ngày nay, trong cơ chế thị trường và quá trình hội nhập KT diễn ra ngày càng sâu rộng, toàn bộ hoạt động XKLĐ do các tổ chức tư nhân thực hiện trên cơ sở hợp đồng đã kí kết. Các tổ chức này chịu toàn bộ trách nhiệm về khâu tổ chức đưa lao động đi và quản lý người lao động, đồng thời tự chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh tế trong hoạt động XKLĐ của mình. Nhà nước chỉ quản lý ở tầm vĩ mô, đưa ra các chính sách, kế hoạch cũng như định hướng thị trường cho các tổ chức XKLĐ. Như vậy các hiệp định, các thỏa thuận song phương chỉ mang tính chất nguyên tắc thể hiện vai trò và trách nhiệm quản lý ở tầm vĩ mô của nhà nước kết hợp hài hòa vói các doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về hoạt động xuất khẩu lao động của mình. 4. XKLĐ – giải pháp tạo việc làm cho người lao động diễn ra trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển cùng với quá trình khu vực hóa, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới đã tạo ra một môi trường cạnh tranh lớn giữa các nước với nhau. Đặc biệt trên thị trường lao động quốc tế, sự cạnh tranh về hàng hóa sức lao động diễn ra ngày càng gay gắt, nhất là về chất lượng lao động – đây là nhân tố chính để phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia. Ngày nay nhu cầu về lao động của mỗi quốc gia ngày càng tăng. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia là do hai nguyên nhân chính sau: 14
  15. Một là XKLĐ là hoạt động mang lại lợi ích kinh tế khá lớn cho các nước đang khó khăn trong giải quyết việc làm cho lao động trong khi tốc độ tăng dân số, nguồn nhân lực ngày một tăng. Đây chính là động lực thúc đẩy các nước XKLĐ có gắng vươn ra chiếm lĩnh thị trường lao động nước ngoài. Thứ hai, khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì các cuộc khủng hoảng kinh tế ngày càng diễn ra nhiều hơn, điều này cũng làm ảnh hưởng đến việc tiếp nhận lao động của các nước có nhu cầu về lao động. Do vậy nhà nước và các tổ chức hoạt động XKLĐ cần tính đến những ảnh hưởng này để có chính sách kế hoạch dài hạn trong việc đào tạo nguồn nhân lực và quản lý hoạt động XKLĐ sao cho đạt hiệu quả cao nhất, nâng cao tính cạnh tranh của sức lao động trên thị trường lao động quốc tế. 5. Phải đảm bảo lợi ích của ba bên trong quan hệ xuất khẩu lao động. Trong hoạt động XKLĐ có sự tham gia và gắn bó chặt chẽ giữa ba bên: nhà nước, tổ chức xuất khẩu và người lao động đi XKLĐ trên cơ sở đảm bảo lợi ích của các bên. Lợi ích của nhà nước trong hoạt động XKLĐ là khoản ngoại tệ do người lao động chuyển về và các khoản thuế có liên quan. Lợi ích của các tổ chức hoạt động xuất khẩu là các khoản thu được chủ yếu là các loại phí giải quyết việc làm ở nước ngoài. Lợi ích của người lao động đi XKLĐ là khoản thu nhập từ công việc của mình, thường là cao hơn nhiều so với làm việc trong nước. Vì những lợi ích kinh tế từ hoạt động XKLĐ nên các tổ chức xuất khẩu rất dễ vi phạm các quy định của nhà nước về XKLĐ làm cho việc đi xuất khẩu lao động giảm bớt phần hấp dẫn đối vời người lao động. Đồng thời cũng vì thu nhập cao khi đi xuất khẩu lao động rất dễ dẫn đến tình trạng người lao động vi phạm hợp đồng đ ã kí kết, gây khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp của người lao động ở nước bạn. 15
  16. Do vậy nhà nước phải có các chính sách, chế độ và biện pháp quản lý hoạt động XKLĐ sao cho mang lại hiệu quả cac nhất, đảm bảo quyền và lợi ích của các bên khi tham gia hoạt động XKLĐ, đặc biệt là lợi ích của người lao động. 6. XKLĐ – giải pháp tạo việc làm cho người lao động là một hoạt động đầy biến động. Hoạt động XKLĐ của các nước xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào các nước có nhu cầu về lao động, do vậy cần phải phân tích toàn diện các dự án đang và sẽ thực hiện ở nước ngoài, nghiên cứu thị trường lao động ngoài nước để có kế hoạch đào tạo lao động cho phù hợp và linh hoạt. Chỉ có chuẩn bị tốt đội ngũ lao động có trình độ, tay nghề cao mới có điều kiện thuận lợi chiếm lĩnh được thị trường lao động ngoài nước. Ngoài ra cần có tầm nhìn xa trông rộng,phân tích, đánh giá và dự đoán đúng tình hình mới không bị động trước sự biến động không ngừng của thị trường lao động ngoài nước. Đồng thời phải biết đón đầu trong hoạt động XKLĐ để đạt được hiệu quả cao nhất. IV. CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG - GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG. XKLĐ của Việt Nam có hai hình thức chủ yếu đó là XKLĐ tại chỗ và hình thức XKLĐ đưa người lao động ra nước ngoài làm việc. Trong đề án này chỉ đề cập đến hình thức XKLĐ đưa người lao động ra nước ngoài làm việc. Hoạt động XKLĐ đưa người lao động ra nước ngoài làm việc được chia thành các hình thức chủ yếu sau: Các nhân lao động tự tìm việc làm ở nước ngoài: hình thức này ra - đời sớm nhất và phổ biến đối với các nước có chung đường biên giới. Lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua các doanh nghiệp - xuất khẩu lao động. Lao động đi làm việc theo công trình thầu khoán, liên doanh, liên - kết, hợp tác trực tiếp, đầu tư ra nước ngoài. 16
  17. Lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua các Hiệp định, thỏa - thuận, cam kết của Chính phủ. Lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua các hợp đồng thực tập - nâng cao tay nghề. Việc phân chia hoạt động XKLĐ nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý XKLĐ được dễ dàng hơn và đạt hiệu quả cao nhất. V. SỰ CẦN THIẾT CỦA XKLĐ – GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KT. 1. Tính quy luật của phân công và hiệp tác lao động quốc tế. C.Mac đã nhận định: khi lực lượng sản xuất phát triển tất yếu dẫn đến sự phân công và hiệp tác lao động quốc tế ngày càng được tăng cường và hoàn thiện. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, lực lượng sản xuất của nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển với tốc độ chưa từng có, đạt đến trình độ cao hơn, vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Sản xuất lớn chỉ đạt được hiệu quả cao khi mở rộng phân công và hiệp tác lao động. Không chỉ trong phạm vi một nước mà vượt ra biên giới quốc gia. Sự phát triển mất cân đối về kinh tế giữa các quốc gia, cùng với sự phân bố dân cư và tài nguyên không đồng đều giữa các quốc gia dẫn đến một số quốc gia thiếu nguồn lực để phát triển sản xuất. Để khắc phục tình trạng trên thị trường quốc tế về các yếu tố của sản xuất ngày càng phát triển trong đó có thị trường sức lao động – điều này cũng tương đương với việc XKLĐ từ quốc gia này sang quốc gia khác – một hình thức của phân công và hiệp tác lao động quốc tế. Một trong ba xu thế lớn trong sự vận động của nền kinh tế thế giới đó là xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới, trong điều kiện này quan hệ cung – cầu về lao động đã vượt ra ngoài biên giới một quốc gia trong đó bên cung sẽ là xuất khẩu còn bên cầu sẽ là nhập khẩu. 17
  18. 2. Nguyên nhân của XKLĐ trên thế giới. Do tác động của các cách mạng khoa học trên thế giới, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển với tốc độ nhanh chóng. Nền sản xuất của các nước được mở rộng, một số nước không đáp úng được hết nhu cầu lao động trong nước dẫn đến phải nhập khẩu lao động của các nước dư thừa lao động trong nước. Hai là, tài nguyên thiên nhiên ngày càng được khai thác với khối lượng lớn để bắt nhịp cùng với sự phát triển của nền kinh tế đang phát triển với tố c độ chóng mặt. Việc triển khai các dự án khai thác tài nguyên thiên nhiên đòi hỏi một nguồn nhân lực rất lớn bao gồm cả lao động phổ thông và lao động có trình độ chuyên môn cao, chuyên gia, kỹ sư,… mà bản thân các nước không có khả năng đáp ứng được hết nhu cầu lao động đó. Từ thực tế trên xuất hiện một loạt hoạt động XKLĐ giữa các nước. Ba là, do xụ chênh lệch về thu nhập và mức sống của người dân giữa các nước ngày càng trở thành động lực thúc đẩy người lao động ở những nước có mức sống và thu nhập thấp sang các nước có mức sống và thu nhập cao làm việc. Bốn là, sự gia tăng dân số, nguồn lao động không đồng đều giữa các quốc gia trên thế giới là một trong những nguyên nhân thúc đẩy hoạt động XKLĐ phát triển. Năm là tác động của xu thế kinh tế lớn của nền kinh tế thế giới – toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới cùng tiến trình hội nhập nền KTQT thúc đẩy sự phát triển của phân công và hiệp tác lao động quốc tế trong đó XKLĐ là hoạt động chủ yếu. Sáu là nguồn thu ngoại tệ, tăng thu ngân sách, nâng cao tay nghề lao động, giải quyết tình trạng thất nghiệp đang tăng nhanh là động lực thúc đẩy các nước phát triển hoạt động XKLĐ. 3. Điều kiện tiến hành xuất khẩu lao động. XKLĐ không chỉ là hoạt động kinh tế của một quốc gia mà có rất nhiều bên liên quan. Những bên tham gia hoạt động XKLĐ có quan hệ chặt chẽ với 18
  19. nhau trên cơ sở kết hợp hài hòa lợi ích giữa các bên. Để đạt được điều đó và để hoạt động XKLĐ đạt được hiệu quả cao cần có những điều kiện nhất định. Thứ nhất, người lao động phải được tự do sở hữu năng lực lao động của mình và không có tư liệu sản xuất hoặc không có đủ tư liệu sản xuất để sức lao động được trở thành hàng hóa. Thứ hai, phải phá vỡ được những rào cản của quan hệ xã hội không còn phù hợp như: quan hệ phong kiến, những hủ tục lạc hậu, …. Thứ ba, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường cùng với xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới thì người lao động cũng bị quốc tế hóa. Sự di chuyển về vốn định hướng và quyết định sự di chuyển về sức lao động. Thứ tư, sự phát triển không ngừng của các loại hình giao thông và các phương tiện giao thông hiện đại đã tạo điều kiện cho sự di chuyển quốc tế sức lao động nói chung và sự phát triển của hoạt động XKLĐ. 4. Thực trạng lực lượng lao động Việt Nam. Quy mô và chất lượng của LLLĐ là những nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động XKLĐ, với quy mô lao động lớn và chất lượng lao động ngày càng được nâng cao đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho Việt Nam thực hiện hoạt động XKLĐ. 4.1. Quy mô LLLĐ tăng với tốc độ cao. Là một nước có tỷ lệ tăng tự nhiên dân số khá cao, lực lượng lao động nước ta tiếp tục tăng với tốc độ cao. Năm 2005 LLLĐ là 44.385 nghìn người, tăng 1,143 nghìn người, với tốc độ tăng 2,64% so với năm 2004. LLLĐ thành thị với tốc tăng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của LLLĐ ở nông thôn: khu vự thành thị năm 2005 là 11.071,11 nghìn người, chiếm 24,9% , trong khi đó khu vực nông thôn có33.313,9 nghìn người, chiếm 74,1% tổng LLLĐ cả nước. Theo số liệu về cơ cấu theo tuổi của cung lao động qua các cuộc điều tra ( được biểu diễn ở biểu đồ hình - 1) cho thấy LLLĐ của các nhóm tuổi nhìn chung 19
  20. đều tăng qua các năm, đặc biệt là nhóm tuổi 25 – 54: năm 1979 là 14121 nghìn người, đến năm 1999 là 27778 nghìn người, tức là tăng 96,7%. 30000 25000 20000 15 - 19 tuổi 20- 24 tuổi 15000 24 - 54 tuổi 10000 55 - 59 tuổi 5000 0 năm 1979 năm 1989 năm 1999 BIỂU ĐỒ VỀ NGUỒN NHÂN LỰC THEO CƠ CẤU NHÓM TUỔI. Hình – 1. ( Đơn vị : nghìn người ) – nguồn: Niên gián thống kê 2000 Trước sự gia tăng nhanh chóng của lực lượng lao động đặt nhà nước trước những khó khăn trong việc giải quyết việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp và ổn định xã hội, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. 4.2. Chất lượng LLLĐ Việt Nam ngày càng được nâng cao. Chất lượng của LLLĐ có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung và hoạt động XKLĐ nói riêng. Chất lượng lao động được hình thành thông qua nhiều tiêu chí trong đó có hai tiêu chí thường được sử dụng: trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn kỹ thuật lao động. Hai tiêu thức này được hình thành trực tiếp thông qua hệ thống giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực. Trình độ của người lao động ngày càng được nâng cao. Điều này thể hiện ở số lao động có trình độ văn hóa thấp giảm dần, và lao động có trình độ văn hóa cao ngày một tăng đặc biệt là lao động có trình độ chuyên môn đáng kể, điều này đã tạo ra những điều kiện vô cùng thuận lợi cho hoạt động XKLĐ. Biểu 1: Cơ cấu trình độ văn hóa phổ thông của LLLĐ ( Đơn vị: % ) 20
nguon tai.lieu . vn