Xem mẫu
- Kiềm dương tấn
Kiềm dương tấn, còn gọi là Kiềm dương mã tự, Nhị tự kiềm dương mã là một
thế tấn đặc thù của Vịnh Xuân Quyền, bao gồm hai dạng thức là chính thân kiềm
dương và trắc thân kiềm dương.
Trong Vịnh Xuân Quyền, tấn pháp được áp dụng thường xuyên nguyên lý chiều
cao của tấn tỷ lệ nghịch với độ vững trãi và tỷ lệ thuận với độ linh hoạt, theo đó
tấn pháp càng thấp cơ thể càng vững nhưng tính linh hoạt lại giảm. Kiềm dương
mã tự cũng không phải là ngoại lệ, việc tập luyện tấn pháp này không nhấn mạnh
sự cố định một cao độ của người luyện tập, mà có thể linh động, kết hợp với
những bài tập tấn ở nhiều cao độ khác nhau, cả ở những tư thế rất thấp tới mức cơ
thể gần như ngồi trên mặt đất.
- Mục lục
[ẩn]
1 Tên gọi
2 Đặc điểm
2.1 Chính thân kiềm dương
o
2.2 Trắc thân kiềm dương
o
3 Ý nghĩa
4 Xem thêm
[sửa] Tên gọi
Tấn pháp kiềm dương, với chữ kiềm (鈐) tương đối dễ hiểu là "kìm", "kẹp", "giữ".
Nhưng chữ dương có vài cách hiểu khác nhau: "dương" (羊) với nghĩa là con dê,
khi đó tấn sẽ được hiểu là thế "kẹp dê", "giữ dê". Theo huyền sử thì Ngũ Mai sư
thái đã cho nàng Nghiêm Vịnh Xuân tập chăn dê và tắm cho các con dê bằng cách
dùng hai chân kẹp chặt đầu và cổ con vật, từ đó sẽ rèn luyện được nội lực và tấn
pháp trước khi bước vào tập võ (bộ phim Vịnh Xuân Quyền do các diễn viên Tạ
Đình Phong, Hồng Kim Bảo và Nguyên Bưu đóng, diễn tả ý nghĩa này). Tuy
nhiên, theo cách hiểu khác với chữ "dương" (陽) chỉ "mặt trời", "dương tính",
"dương khí", "đàn ông", "bộ phận sinh dục của giống đực", kiềm dương tấn là thế
tấn duy nhất ở chính diện có đủ kín đáo, do đầu gối hơi khép vào trong và có thể
nhanh chóng kẹp chặt hai đùi, để thủ thế và bảo vệ vững chắc trước những đòn tấn
công vào hạ bộ, ít nhiều linh hoạt và hiệu quả hơn hẳn trung bình tấn. Đi xa hơn
- trong suy luận, một số người cho rằng kiềm dương ở đây nhằm mục đích luyện
khí, mà luyện khí chủ yếu phải kiềm dương (tiết dục).
[sửa] Đặc điểm
[sửa] Chính thân kiềm dương
Chính thân kiềm dương còn được gọi là Chính thân kiềm dương mã tự, Nhị tự
kiềm dương mã, tư thế gần giống với tấn chuẩn bị (lập tấn) của các môn sinh
Taekwondo, Karatedo với khoảng cách hai gót chân đều vừa mức với chiều cao và
bề ngang của người tập, thường bằng vai hoặc hơi lớn hơn một chút, hai bàn chân
gần song song hình chữ nhị (二) với mũi chân hơi hướng vào trong. Hạ thấp trọng
tâm và hơi bẻ cong chân vào để hai đầu gối có một khoảng cách tương đối nhỏ,
bằng khoảng nắm tay của người tập. Cơ thể người tập hơi ngửa ra phía sau để giữ
cho gót chân, cột sống và đầu được thẳng.
Do hai mũi bàn chân với ngón cái hơi xoay khép lại thành hình chữ bát (八), thế
tấn này còn có thể được gọi là Bát tự kiềm dương (kiềm dương hình chữ bát).
Nếu kéo dài chữ "bát" người tập sẽ có một tam giác. Ở đây có những nguyên tắc
để xác định góc tạo thành đó là góc nhọn hay góc tù. Đưa chân người tập ra theo
trục thẳng trước mặt cho đến khi chân nằm ngang và lấy điểm vuông góc với gót
chân là đỉnh của tam giác. Cần đứng đúng cách để để hai chân hướng vào đỉnh
này.
Trong phần lớn các bài tập tại chỗ của Vịnh Xuân thường dùng chính thân kiềm
dương, đặc biệt là sáo lộ đầu tiên Tiểu niệm đầu chỉ sử dụng duy nhất một thế tấn
này. Tuy nhiên, trong thực tế chiến đấu ít khi môn sinh sử dụng thế tấn này mà nó
thường được phản ứng nhanh sang thế tấn trắc thân kiềm dương, với dụng ý dẫn
đòn của đối phương vào khoảng không và phản đòn theo nguyên lý "tá lực đả lực"
(mượn sức đánh sức).
- [sửa] Trắc thân kiềm dương
Với ý nghĩa của chữ Trắc (側) là "mặt bên", "bên cạnh", "nghiêng" phản ánh đúng
bản chất của thế tấn. Khi đứng ở chính thân kiềm dương, người tập xoay đều hai
chân và thân sang một phía sao cho hai mũi chân song song hướng về phía chéo
góc khoảng 45 độ, người tập sẽ chuyển sang thế tấn trắc thân kiềm dương. Thế
tấn này ít nhiều giống trảo mã tấn của một số môn phái, nhưng không hướng các
mũi bàn chân thẳng phía trước và cũng không nhón gót. Hai đầu gối khép vào
nhau với khoảng cách giữa chúng vẫn được giữ như ở chính thân kiềm dương.
Trọng lượng cơ thể dồn khoảng 70% lên chân sau và khoảng 30% ở chân trước.
Khi hạ thấp tấn hơn, người tập cần duỗi chân trước ra phía trước với khoảng cách
dài hơn.
[sửa] Ý nghĩa
Môn phái Vịnh Xuân khởi phát từ miền Nam Trung Hoa, nơi mọi người thường
dùng thuyền như một phương tiện vận chuyển chính, cho nên, các võ sư sáng tổ
của Vịnh Xuân Quyền như Đại Hoa Diện Cẩm và các môn đồ của Hồng thuyền
hội quán đã tập võ chủ yếu trên thuyền, nơi yêu cầu giữ thăng bằng trở thành cốt
tử. Thế tấn chính thân kiềm dương và trắc thân kiềm dương được coi là phương
cách tối ưu để giữ thăng bằng.
Chính thân kiềm dương tấn là thế tấn quan trọng bậc nhất của Vịnh Xuân Quyền,
đi kèm với sáo lộ Tiểu niệm đầu như cơ bản công và cơ bản kỹ thuật, nó giúp
người tập luyện ngay từ những ngày đầu tiên đến với môn phái đã luyện gân chân,
làm lỏng và mạnh các khớp, tạo một chân đế vững chắc như mọc rễ vào đất để
phục vụ tối đa cho sự thả lỏng phần trên (từ hông lên trở lên) theo nguyên tắc
"thượng hư, hạ thực". Tuy tấn nhấn mạnh vào yêu cầu trụ vững nên buộc phải
giảm sự linh động, ít nhiều có thể cản trở cho sự phát huy lực từ trung tâm phát
lực (hông eo), nhưng không cản trở đường vận hành của khí xuống chân, và vì vậy
- không làm giảm đáng kể lực thông xuống chân khi tập tấn tĩnh. Đầu gối cong vào
cũng là một cách tiết kiệm sức lực tối đa khi chân giữ trọng lượng cơ thể của
người tập. Bởi vậy, chính thân kiềm dương nếu được tập đúng, sau những khó
khăn ban đầu, người tập ngày càng có được sự linh hoạt đặc biệt, có thể đá bất kỳ
lúc nào mà không cần chuẩn bị, và cú đá sẽ có toàn bộ sức của thân thể khi tấn
công vào trung điểm của địch thủ. Thế tấn này cũng được dùng để thủ một cách
hữu hiệu.
Trắc thân kiềm dương là thế tấn linh hoạt hơn Chính thân kiềm dương, rất thuận
lợi cho tấn công thần tốc mà vẫn có thể phòng thủ kín đáo, vì vậy, trong Vịnh
Xuân Quyền thế tấn này được ứng dụng chủ yếu khi thực chiến.
nguon tai.lieu . vn