Xem mẫu
- Khí công
Khí công (氣功, qigong hay chikung) là một thuật ngữ của Trung Quốc dùng để
chỉ rất nhiều hệ thống luyện tập vật lý và tâm thần để đạt được sức khoẻ, [1] luyện
võ [2] và để tự giác ngộ.[3]
Định nghĩa của từ khí (氣) thường xoay quanh các nghĩa như “hít thở”, “không
khí”, “gas” và “hơi nước” nhưng theo lý thuyết của người Trung Quốc thì nó cũng
có thể dùng trong trường hợp mô tả mối quan hệ giữa vật chất, năng lượng và tinh
thần. [4] Từ công (功) có nghĩa là thành quả hoặc kết quả. Hai từ này hợp lại dùng
để mô tả các hệ thống và phương pháp “tu dưỡng năng lượng” và sử dụng nguồn
năng lượng bên trong các cơ thể sống.[5]
[sửa] Các loại khí công
[sửa] Phân loại
Khí công trị bệnh: Y học cổ truyền Trung Quốc có một khoa mục là "khí
công trị bệnh" có tác dụng cho chức năng phòng và chữa trị bệnh tật[6].
Khí công võ thuật: sử dụng phép vận khí, tụ khí ( khí được xem là một loại
năng lượng trong cơ thể) để tăng khả năng chống đỡ các đòn đánh, nâng
cao khả năng võ thuật[7]. Thường các phép dẫn khí là do người thầy truyền
dạy cho đệ tử và hướng dẫn cụ thể để vận khí. Khả năng chống đỡ các đòn
đánh có thể đạt đến như đập một khúc gỗ lớn lực mạnh vào người, đâm
thương yết hầu ( đầu thương không quá nhọn ), .... Các màn biểu diễn này
của Thiên Môn đạo ( Hà Tây), Lâm Sơn Động( Hà Tây) đã thực hiện được
- điều này. Phần lớn kỹ thuật vận khí trong võ thuật không được tiết lộ ra bên
ngoài.
Khí công tu luyện: Khí công tu luyện gồm có các trường phái như khí
công Đạo gia, khí công Phật gia. Khí công tu luyện chú trọng về những
điều vượt khỏi tầng thứ chữa bệnh khoẻ người, giảng về tầng thứ cao hơn,
chú trọng về hàm dưỡng và tâm tính.
1. Khí công Đạo gia: Khí công thuộc trường phái Đạo gia chú trọng về nội
ngoại kiêm tu, vừa luyện võ vừa tu nội. Chú trọng vào hàm dưỡng tâm tính,
chú trọng vào Chân, sự chân thật, và ngay thẳng. Khí công được sử dụng
như là một phần thiền định của họ [3] Confucian scholars practice qigong to
improve their moral character.[5]. Phương pháp xếp bằng của Đạo gia gọi là
"đơn bàn" với chân này đặt trên chân kia, hai chân song song, áp chặt các
huyệt vị. Các môn phái thuộc trường phái Đạo gia: Võ Đan, Nga Mi, Tai
Chi( Thái Cực Quyền),...
2. Khí công Phật gia: Khí công thuộc trường phái Phật gia chú trọng về hàm
dưỡng tâm tính ở sự thiện lành và từ bi. Phương pháp xếp bằng trường phái
Phật gia là "song bàn" với hai chân bắt tréo chồng lên nhau theo thế hoa
sen. Các môn phái thuộc trường phái Phật Gia: Mật tông Tây Tạng, Pháp
Luân Công[8] .
[sửa] Hình thức tập luyện
Động công: Các chuyển động chậm rãi, có nhịp điệu nhằm hỗ trợ sự lưu
thông của khí, và khai thông các dòng năng lượng trong cơ thể, Tai Chi
(Thái Cực Quyền) là một ví dụ nổi trội cho động công.[9]. Một ví dụ khác là
Ngũ Cầm Hí của Hoa Đà với các tư thế bắt chước động tác của năm loài
động vật.[10]
- Tĩnh công: Người tập được yêu cầu giữ thế tay, chân, hay đứng bất động
trong một tư thế trong một khoảng thời gian. Bát Đoạn Cẩm là một loạt các
bài tập cũng dựa trên các tư thế [11].
Thiền định: Hầu hết các trường phái đào tạo khí công đều có một số hình
thức thiền định. Trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, thiền định đ ược
xem như một kỹ thuật tập trung cao cấp mà ở đó các học giả dùng để có sự
tập trung và thanh tĩnh, các Danh y cũng thực hành thiền định. Thiền định
cũng được xem như để khai thông một số điểm tập trung năng lượng gọi là
Luân Xa theo Cảm xạ học, hay là để khai mở các huyệt đạo và hình thành
dòng đại chu thiên nối các kinh mạch. Thiền định cũng được thực hành
nhằm tăng khả năng nhẫn nại, và sự tập trung, định lực.
Hoạt động đòi hỏi sự hỗ trợ từ bên ngoài: Một số môn phái chú ý vào sự
hỗ trợ từ thức ăn và đồ uống, sử dụng massage và các hình thức khác nhau.
Một số khí công sư dùng hình thức phát khí hay phát tín tức (năng lượng)
cho các học viên[12].
[sửa] Hoài nghi và những tranh cãi về khí công
[sửa] Nghi ngờ
Đã có một vài cuộc tranh cãi về lợi ích của khí công khi mà định nghĩa của khí
công chỉ dừng lại ở một loạt các động tác di chuyển vật lý và một số bài tập thư
giãn. Mâu thuẫn giữa quan điểm phương Tây và hệ thống khí công tăng lên khi
người Trung Quốc tuyên bố việc tập khí công vượt có thể vượt qua được những
khả năng và kiến thức mà khoa học từng biết tới và một tuyên bố hùng hồn về việc
khí công đem lại sức mạnh siêu nhiên. [13]
Sự hoài nghi về các bài tập khí công cũng xảy ra với trong Đông Y và mở rộng ra
chủ đề thuốc an thần và thuốc bổ. Một số bác sĩ cho rằng những thông tin từ các
- lĩnh vực này không đúng với những gì mà khoa học phương Tây đã nghiên cứu
được và đi ngược lại với những thứ mà y học phương Tây có thể giải thích
được.[14] [15] Tuy nhiên hiệu quả của việc chữa bệnh của khí công qua thực tế là
điều mà Y học phương Tây chưa giải thích được, đôi khi là những bệnh mà y học
phương Tây bó tay như Ung thư[16][17][18][19]. Những bác sĩ cho rằng phần lớn các
tác dụng từ thuốc an thần là để trấn an người bệnh (tức là làm người bệnh có cảm
giác yên tâm sau khi uống chứ không phải là do thuốc có tác dụng an thần).[20] [21]
Các ý kiến phản bác của những người nghi ngờ về mối quan hệ giữa các bài tập
khí công và kết quả của khí công liên quan tới sức khoẻ là:
Sự tồn tại của khí, hay bất cứ dạng nào của "nội lực", hiện chưa được xác
nhận trong bất cứ cuộc thí nghiệm nào để thuyết phục cộng đồng khoa học
nói chung. Chẳng có khái niệm nào như vậy trong nền sinh học truyền
thống.[22]
Các màn biểu diễn võ thuật như là phá vỡ các vật cứng bằng các cú đánh
hoàn toàn có thể được giải thích bằng vật lý học, mà không cần đến khái
niệm khí.[23][24]
Những công bố đã được ghi lại về các khả năng siêu nhiên có vẻ lừa đảo,
giống với các màn ảo thuật hơn là bất cứ lĩnh vực khoa học chính thống
nào.[25][26][27][28]
Những lí giải về sức mạnh siêu nhiên hay những thứ đòi hỏi yếu tố tinh
thần đều vượt quá giới hạn của các phương pháp khoa học.
Tuy nhiên, cũng có những nghiên cứu và chứng minh sự tồn tại của kinh mạch.
Tiến sĩ Jean-Claude Darras thuộc bệnh viện Necker tại Paris đã sử dụng các chất
phóng xạ để chứng minh sự tồn tại của các đường kinh mạch. Ông đã tiêm chất
phóng xạ này cho một số con lợn gi-nê tại một số huyệt đạo nhất định. Với sự trợ
giúp của máy quay phát sáng, ông đã có thể theo dõi sự chuyển động của chất
- phóng xạ theo các đường kinh mạch. Còn trong nhóm điều khiển, chất phóng xạ
được tiêm vào một điểm trung tính của da. Không có sự di chuyển nào của chất
phóng xạ được phát hiện trong nhóm điều khiển này.[29]
Giáo sư Popp, tiến sĩ Schlebusch, và tiến sĩ Maric-Oehler đã tiến hành thí nghiệm
với một máy quay hồng ngoại. Họ sử dụng ngài nhung để làm nóng một vùng nhất
định trên cơ thể để xem hướng chạy của một kinh mạch có trở nên nhìn thấy được
không. Thông qua những bức ảnh chụp hồng ngoại, họ có thể nhìn thấy sự tăng
nhiệt độ dọc theo kinh mạch đó. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với mô tả của
khoa học cổ đại 5.000 năm tuổi của Trung Quốc về kinh mạch. [30]
[sửa] Rối loạn tâm thần
Trong một số trường hợp,một số người cho rằng việc tập khí công có thể dẫn tới
hội chứng rối loạn tâm thần.[31][32][33] Những người tập khí công gọi tình trạng này
là tẩu hỏa nhập ma (走火入魔) và được mô tả bởi những người tập khí công là do
có một dòng chảy của khí không thể kiểm soát được trong cơ thể. Những lời than
phiền khác bao gồm việc bị đau ở một số vùng, đau đầu, mất ngủ và một số hành
động không ý thức.[31] Tuy nhiên, cũng có khả năng là do sự ảnh hưởng lo sợ của
người tập mà sinh ra bệnh tật chứ không phải do tập khí công, hoặc người tập có
tiền sử bị một căn bệnh nào đó, khi bị bệnh họ liên tưởng tình trạng bệnh của mình
với hiện tượng "tẩu hỏa nhập ma". Trong lần xuất bản thứ hai của cuốn phân loại
các kiểu rối loạn tâm thần (CCMD-2) xuất bản bởi hiệp hội tâm thần Trung
Quốc[34] thì việc chẩn đoán “biểu hiện của tẩu hoả nhập ma” được dựa trên các dấu
hiệu sau[35]:
1. Mọi thứ hoàn toàn bình thường trước khi tập khí công
2. Các phản ứng tâm lí và sinh lí xảy ra trong hoặc sau khi tập khí công
3. Các cảm giác không bình thường xuất hiện trong hoặc sau khi tập khí công
- 4. Các triệu chứng không phải là của các loại rối loạn tâm thần khác như tâm
thần phân liệt hay rối loạn thần kinh.
Ở phương Tây, chưa bao giờ có những trải nghiệm tương tự cho đến khi người ta
bắt đầu tập khí công. Khi cộng đồng y học phương Tây gặp phải tình trạng không
bình thường của những người bệnh tập khí công, họ đã dùng thuật ngữ phản ứng
rối loại thần kinh khí công và liệt hội chứng này vào loại hội chứng liên quan đến
văn hóa trong lần xuất bản thứ tư của tác phẩm Diagnostic and Statistical Manual
(DSM-IV) của hiệp hội tâm thần Mỹ. Hội chứng này được mô tả như: "Một thuật
ngữ chỉ giai đoạn cấp tính, xuất hiện trong một thời gian, của các triệu chứng rời
rạc của những người mắc bệnh tâm thần mà có thể xảy ra sau khi tham gia tập
mấy bài khí công nhằm tăng cường sức khoẻ của người Trung Quốc. Những người
dễ bị mắc hội chứng này là những người quá chăm chú luyện tập."[36][37][38][39]
Việc phân loại hội chứng tâm thần trong cuốn DSM-IV đã bị phê bình bởi các nhà
tâm thần học phương Tây khác rằng xếp tẩu hoả nhập ma vào dạng bệnh tâm thần
là chưa chính xác.[40] Tuy nhiên trong hầu hết các trường hợp, những nhà tâm thần
học Trung Quốc thường dùng cụm "tẩu hỏa nhập ma" hơn là các thuật ngữ tâm
thần học.[41]
Trong trường hợp rối loạn tâm thần, quan điểm của phương Tây thì đó là một dạng
rối loạn thần kinh tiềm ẩn mà người bệnh đã bị ảnh hưởng từ trước đó, chứ không
phải là do tập khí công không đúng;[42] một kiểu phát bệnh của một dạng bệnh tâm
thần có sẵn trong người, như là hội chứng tâm thần phân liệt hay rối loạn stress
sau sang chấn
nguon tai.lieu . vn