Xem mẫu
- Hướng Dẫn Mới Của Hội Bệnh Cao
Huyết Áp Âu Châu
Từ viết tắt:
- ESH ( European Society of Hypertension): hội bệnh cao huyết áp Âu
châu
- ESC (European Society of Cardiology): hội bệnh tim Âu châu
- RCT (Randomized Controlled Trials): thử nghiệm ngẩu nhiên và có
kiểm chứng
Bảng cập nhật hướng dẫn cao huyết áp Âu châu:
Hội bệnh cao huyết áp Âu châu đưa ra bảng cập nhật hướng dẫn trong
tháng 10.2009, đăng trên báo Journal of Hypertension, đưa thêm chứng cứ
mới trong những nghiên cứu hoàn tất từ năm 2007, khi bảng hướng dẫn
trước công bố cùng với hội bệnh tim Âu châu.Vài dữ liệu mới củng cố
- hướng dẫn trước, vài dữ liệu khác làm thay khuyến cáo; và vài dữ liệu đưa
đến giải thích trái ngược có thể làm lẫn lộn trong thực hành.
Bảng hướng dẫn mới vẫn giữ ngưỡng huyết áp và mục tiêu cho bệnh
nhân từ 80 tuổi trở xuống của hướng dẫn năm 2007 cũng như JNC 7 của
Hoa-kỳ:
- nếu bệnh nhân không có nguy cơ gì khác thì bắt đầu điều trị khi
huyết áp vượt ngưỡng 140/90 mm Hg và không chịu xuống, và huyết áp
mục tiêu là < 140/90 mm Hg.
- nếu bệnh nhân có nguy cơ cao hay rất cao, bắt đầu điều trị khi huyết
áp ≥ 130/85 mm Hg và huyết áp mục tiêu là 130/80 mm Hg.
Giáo sư tiến sĩ Mancia đồng chủ tịch ESH, bảo chứng cứ cho những
lời khuyên vẫn từ dữ liệu quan sát, phân tích kết quả những thử nghiệm liên
quan với nhau, và tác dụng của hạ huyết áp lên hư hại dưới lâm sàng. Cần có
thêm những chứng cứ trong viển cứu để hổ trợ cho những lời khuyên này.
Bảng cập nhật cũng phản ảnh chứng cứ mới thêm vào là hạ huyết áp dưới
mục tiêu có thể có hại. Cho đến nay chỉ có 1 nghiên cứu HOT (
Hypertension Outcomes Treatment tạm dịch là Kết quả điều trị cao huyết
áp) điều tra đường biểu diễn hình chữ J (J-curve), trị số huyết áp dưới đó có
- thể có hại. Nhưng phân tích hồi cứu vẫn cho thấy ở bệnh nhân có nguy cơ
cao tim mạch, có lý do để quan ngại khi điều trị huyết áp tâm trương dưới 70
mm Hg và huyết áp tâm thu dưới 120 mm Hg. Ông giải thích thêm đáy
đường biểu diễn hình chữ J biến đổi tùy theo từng bệnh nhân, tuổi tác, tình
trạng lâm sàng và hiệu quả tự điều hòa huyết áp.
Cập nhật điều trị:
Bảng hướng dẫn cao huyết áp năm 2007 của ESC.ESH nêu 5 loại
thuốc được xem là thích hợp cho điều trị tuyến đầu:
- Thuốc lợi tiểu
- Thuốc ức chế men chuyển ACE (ACE-I)
- Thuốc chẹn kênh calcium (CCB)
- Thuốc chẹn thụ thể Angiotensin (ARB)
- Beta-blocker
Một số thử nghiệm mới và những phân tích hồi cứu thêm vào đưa
thêm chứng cứ quan trọng thiên về tác dụng bảo vệ của thuốc ức chế men
chuyển ACE, ARB và CCB một mình hay kết hợp. Dùng beta-blocker trong
cao huyết áp vẫn có nhiều mâu thuẫn, nhưng giáo sư Marcia xác nhận ESH
- không đi theo lối của bảng hướng dẫn cập nhật mới nhất của vương quốc
Anh, loại bỏ beta-blocker trong điều trị tuyến 1, 2 và 3, cho cao huyết áp
không có biến chứng, và chỉ xem là chọn lựa thứ tư trong điều trị. Chứng cứ
thử nghiệm lâm sàng cũng như phân tích meta cho thấy beta-blocker có tiện
lợi cũng như bất tiện tương đối, theo lời giáo sư Mancia.
Bảng hướng dẫn trước đây mạnh mẻ ủng hộ điều trị kết hợp, nhiều
bệnh nhân cao huyết áp cần đạt huyết áp mục tiêu. Bảng cập nhật sẽ thêm sử
dụng kép ngăn chặn hệ renin-angiotensin với ACE-I và ARB hữu ích cho
bệnh nhân bệnh thận mà protein niệu không giảm đủ với ARB hay ACE-I
một mình. Chứng cứ của kết hợp này là bảo vệ thận và hệ tim mạch từ
nghiên cứu COOPERATE ( Combination Treatment of Angiotensin-II
Receptor Blocker and ACE Inhibitor in Nondiabetic Renal Disease trial tạm
dịch là điều trị kết hợp ARB và ACE-I ở bệnh thận không tiểu đường). Tuy
nhiên, kết hợp này thường đi kèm với chức năng thận tệ hại hơn. Giáo sư
marcia nhấn mạnh:” cần phải nhớ chứng cứ trực tiếp ưu điểm khi ngăn chặn
đôi hệ renin-angiotensin để bảo vệ thận/tim mạch vẫn giới hạn, và thường đi
kèm với gia tăng tác dụng phụ”.
Nhóm bệnh nhân đặc biệt:
- Từ khi công bố nghiên cứu HYVET ( HYpertens ion in the Very
Elderly Patients: tăng huyết áp ở người rất cao tuổi) cho thấy hạ huyết áp có
lợi cho những bệnh tim mạch chính ở bệnh nhân từ 80 tuổi trở lên, nghiên
cứu này chưa cho biết là có phải cho tất cả bệnh nhân lứa tuổi này uống
thuốc cao huyết áp không?
ESH cũng tuyên bố tại Milan, Ý là họ sẽ đưa ra những lời khuyên để
quản lý cao huyết áp ở trẻ em và vị thành niên (trẻ sơ sinh đến 18 tuổi).
Nhóm tuổi này thường không được đề cập đến trong những bảng hướng dẫn
trước.
Rất ít chứng cứ điều trị huyết áp dưới mức mục tiêu
Dựa trên dữ liệu thử nghiệm ngẩu nhiên có kiểm chứng, không có
chứng cứ nào bảo hạ huyết áp dưới mục tiêu 140-160/90-100 mm Hg có lợi
cho bất cứ bệnh nhân cao huyết áp nào để giảm tử suất và bệnh suất. Chứng
cứ duy nhất ủng hộ lời khuyên huyết áp mục tiêu huyết áp tâm trương ≤90-
100 mm Hg, nhưng không giảm thêm được tử suất và bệnh suất khi hạ
xuống ≤ 85 mm Hg, theo bác sĩ Jose Agustin Arguedas ở Costa Rica và cộng
sự, trong Cochrane Databasr of Systematic Reviews. Huyết áp mục tiêu tối
ưu cho huyết áp tâm thu chưa được thử nghiệm với nghiên cứu ngẫu nhiên
- có kiểm chứng. Cũng vì thiếu dữ liệu báo cáo về tác dụng nghịch, không thể
loại bỏ khả năng hạ huyết áp dưới mục tiêu có thể liên quan đến gây hại.
Trong hồi cứu, bác sĩ Arguedas và cộng sự tìm tài liệu tham khảo
trong MEDLINE, EMBASE, và COCHRANE Central Register of
Controlled Trials để chọn những nghiên cứu ngẩu nhiên có kiểm chứng so
sánh bệnh nhân huyết áp dưới mục tiêu (≤ 135/85 mm Hg) với bệnh nhân
huyết áp căn bản (≤ 140-160/90-100 mm Hg) cung cấp kết quả chính là tử
vong tổng quát, tác dụng nghịch tổng quát, và sự cố tim mạch. Không có thử
nghiệm nào so sánh những huyết áp tâm thu mục tiêu khác nhau được tìm
thấy, nhưng 7 thử nghiệm, gồm 22 089 bệnh nhân so sánh huyết áp tâm
trương mục tiêu khác nhau. Trong những thử nghiệm này, mặc dầu giảm
trung bình huyết áp tâm thu 3.9 mm Hg và huyết áp tâm trương 3.4 mm Hg
so với người ở mức huyết áp mục tiêu căn bản trong 4 năm, không thấy khác
biệt giữa 2 nhóm về tử suất tổng quát tim mạch hay không phải tim mạch,
hay bệnh suất tim mạch hay thận (nhồi máu cơ tim, đột quỵ, suy tim mãn
hay bệnh thận giai đoạn cuối). Phân tích độ nhạy ở bệnh nhân tiểu đ ường và
bệnh nhân suy thận mãn, cũng không chứng minh giảm tử suất hay bệnh
suất khi hạ huyết áp dưới mức mục tiêu. Bác sĩ Arguedas và cộng sự dự định
nghiên cứu riêng rẻ để xem hạ huyết áp dưới 130/80 mm Hg có ảnh hưởng
lên bệnh suất và tử suất so với huyết áp mục tiêu. Họ cũng ghi chú là nghiên
- cứu ACCORD (Action to Control Cardiovascular Risk in Diabetes tạm dịch
là hành động kiểm soát nguy cơ tim mạch trong bệnh tiểu đường) đang thử
lại giả thiết huyết áp tâm trương mục tiêu < 120 mm Hg khi kiểm soát tốt
mức đường, có giảm được tỷ số sự cố tim mạch so với phương pháp giữ
huyết áp tâm thu < 140 mm Hg.
Bác sĩ Arguedas và cộng sự cũng chỉ ra mục tiêu khuyên trong các
bảng hướng dẫn dựa trên kết quả nghiên cứu quan sát bệnh nhân nhóm này
và trên giải thích kết quả nghiên cứu ngẩu nhiên có kiểm chứng như là
nghiên cứu quan sát. Những dữ liệu đó phả i được giới hạn trong đề nghị giả
thuyết. Cần nhiều hơn những thí nghiệm như ACCORD trong dân số bệnh
nhân toàn phần và bệnh nhân có bệnh tiểu đường, suy thận mãn, bệnh động
mạch vành, bệnh mạch máu não, bệnh động mạch ngoại vi và phình động
mạch chủ bụng.
Trong khi chờ đợi, huyết áp mục tiêu đề nghị trong những bảnh hướng
dẫn, kể cả JNC 7 của Hoa-kỳ và hướng dẫn của Tổ chức y tế thế giới,
ESH.ESC, hội bệnh cao huyết áp Anh quốc, hội bệnh tiểu đường Hoa-kỳ,
hội bệnh tim Hoa-kỳ gây lầm lạc và không thích hợp, theo ý kiến của nhóm
này.
- Thử nghiệm ngẫu nhiên ủng hộ kiểm soát chặt chẻ huyết áp tâm thu ở
người không bệnh tiểu đường với bệnh cao huyết áp (Cardio-Sis)
Đây là 1 nghiên cứu ở Ý nhiều trung tâm, mà bệnh nhân có vẻ cao
huyết áp tâm thu đề kháng, báo cáo trên báo Lancet. Nghiên cứu gồm 1111
bệnh nhân không tiểu đường tuổi từ 55 trở lên với huyết áp tâm thu trên 150
mm Hg được phân phối ngẩu nhiên thành 2 nhóm mục tiêu huyết áp tâm thu
< 140 mm Hg (nhóm chứng) và huyết áp tâm thu mục tiêu < 130 mm Hg.
Tất cả những người tham dự uống thuốc trị cao huyết áp trong 12 tuần hay
lâu hơn và có thêm ít nhất 1 yếu tố nguy cơ, được ESH/ESC định nghĩa:
• hút thuốc
• cholesterol toàn phần ≥ 5.2 mmol/L
• HDL cholesterol < 1.0 mmol/L
• LDL cholesterol ≥ 3.4 mmol/L
• Người ruột thịt trong gia đình bị bệnh tim mạch khi còn trẻ
• trước đó có bị thiếu máu cục bộ tạm thời (TIA) hay đột quị, và
• bệnh động mạch vành hay động mạch ngoại vi
- Người có mức glucose bụng đói ≥ 7.0 mmol/L hay có lịch sử bệnh
tiểu đường đều bị loại ra khỏi nghiên cứu. Thuốc dùng nhản mở (bác sĩ và
bệnh nhân biết tên thuốc) để đạt mục tiêu.
Trong thời gian theo dõi 2 năm, huyết áp tâm thu và tâm trương giảm
trung bình 23.5/8.9 mm Hg ở nhóm kiểm chứng và 27.3/10.4 mm Hg ở
nhóm kiểm soát chặt chẻ. Nhóm kiểm chứng đạt huyết áp trung bình
135/78.6 mm Hg và nhóm kiểm soát chặt chẻ 131.9/77.4 mm Hg. Trong
nhóm kiểm soát chặt chẻ, 72.2% bệnh nhân đạt huyết áp tâm thu < 130 mm
hg và trong nhóm chứng 78.7% đạt mục tiêu < 140 mm Hg. Trong thời gian
nghiên cứu, dùng thuốc chống huyết áp tăng ngang nhau ở 2 nhóm mặc dầu
thuốc lợi tiểu và ARB dùng thường xuyên hơn ở nhóm kiểm soát chặt chẽ.
Cuối nghiên cứu, 17.0% nhóm kiểm soát huyết áp bình thường thử
điện tâm đồ ghi nhận tâm thất trái lớn, kết quả chính của thử nghiệm, so với
chỉ 11.4% nhóm kiểm soát chặt chẻ (P= 0.013). Tập hợp kết quả tim mạch
xảy ra 9.4% bệnh nhân nhóm kiểm soát thường so với 4.8% ở nhóm kiểm
soát chặt chẻ (P= 0.003). Trong số thành phần của tập hợp kết quả thử
nghiệm, tỷ suất rung nhĩ mớ i và tái tạo động mạch vành thấp hơn ở nhóm
kiểm soát chặt chẻ ( 1.8% so với 3.8%, P=0.044; và 0.9% so với 2.7%, P=
- 0.032 theo thứ tự). Sự cố tác dụng nghịch hiếm, thường nhẹ, và không khác
biệt đáng kể giữa 2 nhóm.
Bác sĩ Verdecchia và cộng sự bảo vì giới hạn nghiên cứu ( không mù
đôi và ít sự cố lâm sàng so mẫu thử nhỏ), kết quả phải được xem như là 1
giả thiết mặc dầu dữ liệu có thể có ích để chuẩn bị cho nghiên cứu lớn hơn.
Một nghiên cứu đang nằm trong kế hoạch là SPRINT ( Systolic Blood
Pressure Intervention Trial tạm dịch là thử nghiệm can thiệp huyết áp tâm
thu) , do viện y tế quốc gia Hoa-kỳ tài trợ, sẽ thử tác dụng kiểm soát huyết
áp chặt chẻ với huyết áp tâm thu < 120 mm hg so với kiểm soát thường <
140 mm Hg để ngừa bệnh tim mạch trong khoảng 7500 người. Những người
tham dự vào nghiên cứu SPRINT sẽ có tuổi từ 55 trở lên với huyết áp tâm
thu ≥ 130 mm Hg và ít nhất có thêm 1 yếu tố nguy cơ. Những người bệnh
tiểu đường hay bị đột quỵ sẽ bị loại khỏi nghiên cứu vì họ là nhóm mục tiêu
của nghiên cứu ACCORD cũng được viên quốc gia y tế Hoa-kỳ tài trợ.
Theo báo Lancet, đây là thử nghiệm đầu tiên để biết hạ huyết áp tâm
thu dưới mức 130 mm Hg có lợi ích không.
Những tác dụng thêm vào hay độc lập khác khi hạ huyết áp và kiểm
soát chặt chẻ mức glucose ở người bệnh tiểu đường.
- Phân tích thêm dữ liệu từ nghiên cứu ADVANCE cho thấy kết hợp hạ
huyết áp và kiểm soát chặt chẻ mức glucose ở bệnh nhân tiểu đường type 2 ít
nhất cũng ngang với mỗi điều trị một mình trên mặt kết quả lâm sàng, và vài
kết quả thấy tốt hơn.
Nghiên cứu ADVANCE báo cáo tác dụng có lợi riêng rẻ khi hhuyết
áp với perindopril-indapamide và kiểm soát chặt chẻ mức glucose với
gliclaside nhả biến đổi (Diamicron MR) với bệnh nhân tiểu đường type 2 có
biến chứng mạch máu. Nghiên cứu quốc tế ở 11 140 người bệnh tiểu đường
type 2, sau 6 tuần vận động, được phân phối ngẩu nhiên kết hợp liều cố định
perindopril-indapamide (2/0.625 mg trong 3 tháng rối 4/1.25 mg ) hay giả
dược, và kiểm soát chặt chẻ mức glucose để mức HbA1c ≤ 6.5% hay chỉ
kiểm soát mức glucose căn bản (mức HbA1c theo hướng dẫn địa phương).
Những người trong nhóm kiểm soát chặt chẻ dùng gliclaside MR (30-120
mg/ngày) và những thuốc hạ đường khác do bác sĩ chọn.
Những thành viên của nghiên cứu ADVANCE phân tích hàng năm
hiệu quả của 2 điều trị riêng rẻ và kết hợp lên nguy cơ sự cố mạch máu lớn
và vi mạch, sự cố ở thận, và tử vong trong thời gian theo dõi trung bình 4.3
năm. Cuối nghiên cứu, huyết áp giảm trung bình 7.1/2.9 mm Hg và HbA1c
giảm trung bình 0.61% ở những bệnh nhân điều trị cả hai so với người
- không điều trị. Không có tương tác hiệu quả giữa hạ huyết áp và kiểm soát
mức glucose chặt chẽ lên kết quả nghiên cứu, cho thấy hiệu quả của 2 can
thiệp này độc lập với nhau.
Hiệu quả của 2 can thiệp riêng rẽ có vẻ cao hơn so với 1 can thiệp về
kết quả ở thận và tử vong. so với người không điều trị, kết hợp can thiệp
giảm nguy cơ:
• bệnh thận mới hay tệ hại hơn 33%
• macroalbumin niệu mới xảy ra 54%
• microalbumin niệu mới xảy ra 25%
Các nhà nghiên cứu bảo kết hợp hạ huyết áp và kiểm soát mức
glucose thích hợp và hiệu quả.
Thuốc chẹn kênh calcium (CCB) là thuốc hạ huyết áp ưa chuộng cho
bệnh nhân ghép thận:
Theo một nghiên cứu đăng trên Cochrane Data base of Systematic
Reviews và trên báo Transplant (ghép tạng), thuốc chẹn kênh calcium phải
là điều trị cao huyết áp tuyến đầu cho người ghép tạng. Điều này khác với
bảng hướng dẫn của của hội khởi xướng phẩm chất bệnh thận (K/DOQI)
- không khuyên dùng bất cứ nhóm thuốc trị cao huyết áp nào là điều trị tuyến
đầu cho bệnh nhân ghép tạng. Thuốc chống men chuyển ACE và ARB, được
khuyên dùng cho bệnh nhân bệnh thận tiểu đường nhưng không ghép thận
và những bệnh nhân khác suy thận mãn và protein niệu, không thấy lợi ích
cho bệnh nhân ghép tạng.
Bác sĩ Nicholas B. Cross, chuyên khoa dịch bệnh lâm sàng, bệnh viện
nhi đồng ở Westmead Úc châu và cộng sự, tìm trên MEDLINE, EMBASE,
CENTRAL tìm những báo cáo thử nghiệm dùng thuốc hạ huyết áp cho bệnh
nhân ghép thận trong 2 tuần hay lâu hơn. Họ tìm được tất cả 3802 bệnh
nhân. 29 nghiên cứu (2262 người tham dự) so sánh CCB với giả dược hay
không điều trị, 10 (445 người tham dự) so sánh thuốc chống men chuyển với
giả dược hay không điều trị, và 7 (405 người tham dự) so sánh CCB với
thuốc chống men chuyển.
Phân tích 17 nghiên cứu so sánh CCB với giả dược hay không điều trị
(thêm thuốc ở bất cứ nhánh nào nếu cần thiết) gợi ý dùng CCB thường
xuyên giảm mất tạng ghép 25%. Điều trị CCB cũng tăng chức năng lọc cầu
thận (GFR) 4.45 ml/phút và giảm creatinin huyết thanh 10.13 µmol/L) cả hai
là kết quả đại diện cho tạng ghép sống sót. Hiệu quả có lợi của CCB không
tính sự sai biệt huyết áp và tin cậy trong toàn nghiên cứu với những khác
- biệt người tham dự như đặc tính, liều điều trị và can thiệp thêm cho phép,
theo lời các nhà nghiên cứu.
Dữ liệu từ 10 nghiên cứu so sánh thuốc chống men chuyển với giả
dược hay không điều trị không kết luận được cho GFR, và mất tạng ghép
biến đổi, nên loại khỏi phân tích meta. Trong 7 nghiên cứu so sánh đối đầu
giữa CCB với thuốc chống men chuyển, CCB tốt hơn thuốc chống men
chuyển trong tất cả kết quả nghiên cứu. So sánh trực tiếp với CCB, bệnh
nhân dùng thuốc chống men chuyển giảm GFR (-11.48 ml/phút). sự tụt giảm
này quan sát được trong tất cả nghiên cứu, gồm 3 nghiên cứu đo GFR trong
6 tháng hay lâu hơn sau khi bắt đầu điều trị. bệnh nhân dùng thuốc chống
men chuyển cũng giảm protein niệu(-0.28 g/24 giờ) và hemoglobin (-12.96
g/L) và tăng nguy cơ cao kali huyết (nguy cơ tương đối 3.74, khoảng tin cậy
95% 1.89-7.43). dữ liệu mất tạng ghép không kết luận đ ược. Không có đủ
nghiên cứu của những nhóm thuốc khác để đưa ra kết luận về hiệu quả
tương đối.
Bác sĩ Cross và cộng sự ghi nhận tác dụng có ích của CCB ở những
bệnh nhân này, không biến đổi do chỉ định điều trị, gợi ý lớp CCB có thể có
lợi cho bệnh nhân, bất kể huyết áp lúc ban đầu ra sao. dữ liệu cũng gợi ý
CCB dihydropyridine (amlodipin, felodipin, isradipine, nifedipin, v.v.) có
- thể được chuộng hơn nhóm không phải dihydropyridine
(verapamil,diltiazem), tacrolimus, dùng cho bệnh nhân ghép thận. Những
nghiên cứu với CCB dihydropyridine cũng báo cáo khác biệt nhiều về mức
creatinin huyết thanh
Do thiếu dữ liệu báo cáo của nhóm thuốc chống men chuyển ở bệnh
nhân ghép thận, các nhà điều tra bảo họ không thể loại bỏ hoàn toàn vai trò
của thuốc chống men chuyển trong chỉ định này. Tuy nhiên, thuốc chống
men chuyển có lợi cho 1 cá nhân nào không, có thể cân bằng với điều hại (
tăng nguy cơ thiếu máu, cao Kali huyết, giảm GFR) và lợi ( giảm protein
niệu, điều trị lớn tâm thất trái).
Tiền cao huyết áp không liên quan với tăng nguy cơ bệnh thận ở bệnh
nhân không béo mập
Theo báo cáo của nhóm nghiên cứu đại học khoa học và kỹ thuật Na-
uy (NTNU) đăng trên báo American Journal Of Kidney Disease tháng 6/09,
những người tiền cao huyết áp (120-139/80-89 mm Hg) không tăng nguy cơ
bệnh thận nếu BMI < 30.0 kg/m2, tuy nhiên nguy cơ bệnh thận tăng lên
đáng kể khi tiền cao huyết áp hiện diện ở người béo mập (BMI≥ 30 Kg/m2)
- Nghiên cứu ở Hoa-kỳ và Á châu đã cho thấy tiền cao huyết áp có thể
tăng nguy cơ bệnh thận trầm trọng. Đồng thời, béo mập cũng đã biết đưa đến
bệnh thận ở giai đoạn cuối (ESRD) và tử vong do suy thận mãn vì bệnh tiểu
đường và cao huyết áp. sự tăng nguy cơ này khiến các nhà nghiên cứu muốn
biết những người tiền cao huyết áp có phải được điều trị không nếu có thêm
những nguy cơ tim mạch khác như béo mập. Vì hơn 30% dân số Hoa-kỳ và
Âu châu có thể xếp vào nhóm tiền cao huyết áp, nên đây là vấn đề lớn.
Nhóm nghiên cứu của NTNU điều tra tương tác giữa huyết áp và thể trọng
đối với nguy cơ bệnh thận giai đoạn cuối hay tử vong liên quan đến suy thận
mãn từ 74 986 người lớn (49% đàn ông) tham dự vào nghiên cứu HUNT 1
(Nord-Trondelag health Study) thực hiện từ 1984 đến 1986 với 88.2% cư
dân vùng Nord Trondelag tham dự. Nghiên cứu gồm khám lâm sàng ngắn,
ghi lại huyết áp, cân nặng, chiều cao và một bảng câu hỏi để thu thập thông
tin những đồng biến số khác. Dữ liệu HUNT 1 kết nối với hồ sơ bệnh thận
na-uy và nguyên nhân tử vong của Na-uy. Trong thời gian theo dõi trung
bình 21 năm, 507 người đàn ông (1.4%) và 319 phụ nữ (0.8%) khởi sự điều
trị lọc thận hay chết do suy thận mãn. Họ tìm thấy liên hệ độc lập và liên tục
giữa huyết áp và thể trọng lên số bệnh thận giai đoạn cuối (ESRD) và tử
vong do suy thận mãn. Báo cáo cho biết nguy cơ liên quan với thể trọng bắt
đầu tăng khi BMI > 25 Kg/m2. Có tác dụng hợp lực (synergic) giữa huyết áp
- và BMI hướng đến có ý nghĩa thống kê. Họ bảo người tham dự tiền cao
huyết áp tăng nguy cơ điều trị ESRD hay chết do suy thận mãn chỉ khi nào
BMI> 30.0 Kg/m2.
Dược sĩ Lê-văn-Nhân
nguon tai.lieu . vn