Xem mẫu

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

HIỆU QUẢ CỦA VIỆC HẠ ÁP TÍCH CỰC
BẰNG NICARDIPIN TRUYỀN TĨNH MẠCH
Ở BỆNH NHÂN CHẢY MÁU TRONG SỌ GIAI ĐOẠN CẤP
Mai Duy Tôn1, Nguyễn Danh Cường2, Nguyễn Đạt Anh3
1

Bệnh viện Bạch Mai; 2Bệnh viện Giao thông Vận tải; 3Trường Đại học Y Hà Nội

Nghiên cứu trên 30 bệnh nhân chảy máu trong sọ có tăng huyết áp trên 160/90 mmHg, thời gian từ lúc
khởi phát đến lúc điều trị thuốc Nicardipine đường tĩnh mạch trước 6 giờ để kiểm soát tích cực huyết áp theo
mục tiêu dưới 140/90 mmHg trong vòng 24 giờ tại khoa Cấp cứu Bệnh viện Bạch mai từ tháng 12/2011 đến
tháng 11/2012 nhằm đánh giá hiệu quả của kiểm soát huyết áp tích cực đến thể tích của khối máu tụ. Huyết
áp được kiểm soát sau 30 phút điều trị và duy trì theo mục tiêu trong 24 giờ. Thể tích khối máu tụ sau 24 giờ
không tăng so với trước điều trị (p > 0,05). Điểm Glasgow và điểm NIHSS sau 24 giờ không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị (p > 0,05). Kiểm soát tích cực huyết áp theo mục tiêu đã giảm sự
tiến triển khối máu tụ và duy trì được tình trạng lâm sàng của bệnh nhân
Từ khóa: chảy máu trong sọ, tăng huyết áp, thể tích khối máu tụ

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chảy máu trong sọ ước tính chiếm khoảng

điều trị sớm, tích cực huyết áp ở những bệnh

15 - 20% tổng số bệnh nhân đột quỵ não. Hầu

nhân chảy máu trong sọ cấp tính trong 6 giờ
đầu có thể dẫn đến tác dụng có ích, làm cải

hết bệnh nhân chảy máu trong sọ thường tiến
triễn đến tử vong hoặc để lại di chứng nặng

thiện tiên lượng của bệnh nhân, làm giảm sự
tiến triễn khối máu tụ. Vấn đề này được áp

nề, nhất là trong vòng 24 giờ đầu kể từ khi có
triệu chứng khởi phát đầu tiên do liên quan

dụng như thế nào trên những bệnh nhân chảy
máu trong sọ ở Việt nam, cũng như các thay

đến sự tiến triển của khối máu tụ trong sọ.
Tăng huyết áp rất thường gặp trong chảy máu

đổi về lâm sàng và thể tích khối máu tụ khi

trong sọ có thể do tăng huyết áp phản ứng

tiến hành biện pháp điều trị. Đây là chính là
các câu hỏi cần phải được trả lời bằng các kết

sau chảy máu trong sọ hoặc xảy ra trên bệnh
nhân có tiền sử tăng huyết áp từ trước. Tuy

quả từ nghiên cứu trên thực tế lâm sàng.
Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu

nhiên, có mối liên quan chặt chẽ giữa tăng
huyết áp và sự gia tăng thể tích khối máu tụ

này nhằm mục tiêu: Đánh giá hiệu quả kiểm
soát tích cực huyết áp bằng nicardipin truyền

[1; 2]. Các nghiên cứu cho thấy, trong 6 giờ

tĩnh mạch ở bệnh nhân chảy máu trong sọ

đầu sau khi xuất hiện triệu chứng khởi phát
đầu tiên, tăng huyết áp ở mức trên 160mmHg

trong 6 giờ đầu kể từ khi xuất hiện triệu chứng
đầu tiên.

sẽ làm gia tăng thể tích khối máu tụ trong sọ,
dẫn đến làm xấu tình trạng lâm sàng. Vì vậy

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng

Địa chỉ liên hệ: Mai Duy Tôn, Khoa Cấp cứu, bệnh viện
Bạch Mai, 78 Giải phóng, Đống Đa, Hà Nôi.
Email: tonresident@gmail.com
Ngày nhận: 02/04/2013
Ngày được chấp thuận: 20/6/2013

82

Tất cả bệnh nhân chảy máu trong sọ nhập
viện khoa Cấp cứu, bệnh viện Bạch Mai trong
thời gian từ tháng 12 năm 2011 đến tháng 11
năm 2012 đáp ứng đủ các tiêu chuẩn lựa chọn:
TCNCYH 83 (3) - 2013

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
V=

Tuổi bệnh nhân ≥ 18 tuổi.
Điểm Glasgow > 8 điểm.
Thời gian từ khi khởi phát đến khi điều trị
dưới 6 giờ. Có huyết áp trước khi điều trị >
160/90 mmHg.
Chụp cắt lớp vi tính sọ não có chảy máu
trong sọ với thể tích khối máu tụ dưới 60 ml.

AxBxC
2

Trong đó: A: là đường kính lớn nhất của
khối máu tụ trên lớp cắt có vùng chảy máu lớn
nhất.
B: là đường kính lớn nhất vuông góc với A
trên cùng một lớp cắt.

1.2. Tiêu chuẩn loại trừ

C: được tính bằng cách so sánh mỗi lớp
cắt có chảy máu với lớp cắt có diện tích chảy

- Thời gian khởi phát đến khi điều trị trên 6

máu lớn nhất.

giờ.
- Điểm Glasgow dưới 8 điểm, thể tích khối
máu tụ trên 60ml.
- Các chảy máu trong sọ không phải do

Tiêu chuẩn được xem là có tăng thể tích
khối máu tụ khi thể tích khối máu tụ đánh giá
thời điểm 24 giờ tăng trên 33% so với ban
đầu [3].

tăng huyết áp : Nhồi máu chuyển dạng xuất
huyết, chảy máu não - não thất, dị dạng động

3. Xử lý số liệu: Các số liệu thu thập được
sẽ được xử lý theo chương trình phần mềm

tĩnh mạch, phình mạch, u não chảy máu, chấn
thương, rối loạn đông máu.

thống kê y học SPSS 16.0.

2. Phương pháp

4. Đạo đức nghiên cứu: Nghiên cứu
được chấp thuận bởi Hội đồng Y đức bệnh

Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến

viện Bạch Mai.

cứu, so sánh trước và sau điều trị.
Phương pháp nghiên cứu:
Bệnh nhân đủ tiêu chuẩn nghiên cứu
được đánh giá ban đầu: lâm sàng, thể tích
khối máu tụ.
Kiểm soát và duy trì huyết áp tâm thu ở
mức 140 - 160 mmHg bằng truyền thuốc hạ
huyết áp nicardipin (biệt dược là Loxen)
đường tĩnh mạch trong 24 giờ, với liều 5mg/
giờ, sau đó tăng mỗi 2,5mg/giờ mỗi 15 phút,
liều tối đa là 15mg/giờ.
Bệnh nhân được đặt catheter động mạch
để theo dõi huyết áp liên tục với mục tiêu đích
huyết áp tâm thu là 140 - 160 mmHg.
Theo dõi huyết áp, nhịp tim, tình trạng lâm

III. KẾT QUẢ
1. Diễn biến thay đổi huyết áp trong quá
trình điều trị
Tất cả bệnh nhân được kiểm soát huyết áp
tâm thu theo mục tiêu sau 30 phút điều trị
(biểu đồ 1).
2. Diễn biến liều nicardipin truyền tĩnh
mạch
Liều nicardipin sử dụng cao nhất ở thời
điểm 20 phút (biểu đồ 2).
3. Thay đổi thể tích khối máu tụ sau
24 giờ

sàng,các tác dụng phụ theo phác đồ.
Đánh giá thể tích khối máu tụ theo công

Sau 24 giờ điều trị, có gia tăng thể tích
khối máu tụ, tuy nhiên so với thời điểm ban

thức và tình trạng lâm sàng sau 24 giờ [4; 5].

đầu không có ý nghĩa thống kê với (p > 0,05).

TCNCYH 83 (3) - 2013

83

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

, giờ

Biểu đồ 1. Diễn biến thay đổi huyết áp trong quá trình điều trị
Liều nicardipine

Thời điểm, giờ

Biểu đồ 2. Diễn biến liều nicardipin truyền tĩnh mạch
Liều nicardipin sử dụng cao nhất ở thời điểm 20 phút.
3. Thay đổi thể tích khối máu tụ sau 24 giờ
Bảng 1. Thay đổi thể tích khối máu tụ sau 24 giờ
Thời gian

Thể tích máu tụ (ml)

T0

15,7 ± 12,19

T24

16,4 ± 14,24

P
> 0,05

Sau 24 giờ điều trị, có gia tăng thể tích khối máu tụ, tuy nhiên so với thời điểm ban đầu không
có ý nghĩa thống kê với (p > 0,05).
4. Điểm Glasgow khi vào viện và sự thay đổi thể tích khối máu tụ
Sự thay đổi về tri giác lúc nhập viên và sự gia tăng thể tích khối máu tụ không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê với (p > 0,05).

84

TCNCYH 83 (3) - 2013

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 2. Điểm Glasgow khi vào viện và sự thay đổi thể tích khối máu tụ
Thể tích khối máu tụ tăng
Glasgow nhập viện

Tổng số trường hợp
Không
6
(85,7%)

1
(14,3%)

7

12 - 15

19
(82,6%)

4
(17,4%)

23
(100%)

n

25
(83,3%)

5
(16,7%)

30
(100%)

8 - 11

p



> 0,05

5. Thay đổi điểm Glasgow và điểm NIHSS sau 24 giờ
Bảng 3. Thay đổi điểm Glasgow và điểm NIHSS sau 24 giờ
Đặc điểm

T 0 giờ

T 24 giờ

p

Điểm Glasgow

14 (8 - 15)

(8 - 15)

> 0,05

Điểm NIHSS

9 (5 - 15)

(6 - 15)

> 0,05

Sự thay đổi điểm Glasgow và điểm NIHSS sau điều trị không có sự khác biệt có ý nghĩa so
với thời điểm ban đầu với (p > 0,05).

IV. BÀN LUẬN
Diễn biến thay đổi huyết áp và liều nicardipin trong quá trình điều trị
Qua nghiên cứu dùng nicardipin truyền
tĩnh mạch để điều trị cho 30 bệnh nhân
chảy máu trong sọ giai đoạn cấp có tăng
huyết áp, chúng tôi thấy sau 10 phút truyền
nicardipin liều bắt đầu từ 5 mg/giờ, huyết áp
tâm thu của tất cả các bệnh nhân đã được
khống chế và sau đó đã đưa về huyết áp
mục tiêu sau 30 phút điều trị. Kết quả của
chúng tôi cũng tương tự của Varon, tác giả
đã dùng nicardipin để kiểm soát cơn tăng

trên 15% huyết áp ban đầu ở nghiên cứu
của chúng tôi chậm hơn, sau 30 phút huyết
áp mới giảm được 13 - 15% trị số huyết áp
ban đầu ở hầu hết các trường hợp. Điều
này có thể giải thích là do chúng tôi truyền
liều tấn công ban đầu thấp hơn (5 - 7,5 mg/
giờ so với 12,80 ± 0,30 mg/giờ, p < 0,05).
Huyết áp của bệnh nhân tiếp tục giảm từ từ
và ổn định ở mức 140 - 160 / 90 - 100 mmHg
với liều nicardipin duy trì từ 4 - 5mg/ giờ. Tổng
số 30 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, huyết
áp đều được kiểm soát khá tốt, không có bệnh
nhân nào có hiện tượng hạ huyết áp quá mức.

huyết áp của 122 bệnh nhân phẫu thuật, tác

Thay đổi thể tích khối máu tụ sau 24 giờ

giả nhận thấy huyết áp tâm thu đã giảm
được 15% trị số ban đầu ở 94% số bệnh

Bảng 3 cho thấy thể tích khối máu tụ sau
24 giờ kiểm soát huyết áp bằng nicardipin là

nhân trong 11,50 ± 0,80 phút truyền
nicardipin liều tấn công là 12,80 ± 0,30 mg/

16,4 ± 14,24 ml, có tăng hơn so với thời điểm
lúc vào viện (15,7 ± 12,19 ml), tuy nhiên sự

giờ [6]. Tuy nhiên, thời gian để giảm được

tăng thể tích khối máu tụ này không có ý

TCNCYH 83 (3) - 2013

85

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
nghĩa thông kê với (p > 0,05). Kết quả nghiên

chúng tôi cũng tương tự của tác giả Anderson

cứu của chúng tôi cũng tương tự của Anderson và cộng sự [1].

[1] và tác giả Arima [2].

Trong số 30 bệnh nhân tham gia nghiên
cứu có 5 bệnh nhân có tăng thể tích khối máu

V. KẾT LUẬN

tụ sau 24 giờ điều trị, chiếm 16,7%. Như vậy,
nếu so sánh với những bệnh nhân chảy máu

Qua nghiên cứu 30 bệnh nhân chảy máu
trong sọ được kiểm soát huyết áp tích cực

trong sọ mà không được kiểm soát huyết áp

bằng nicardipin truyền tĩnh mạch, chúng tôi rút

tích cực trong nghiên cứu của Brott [3], có đến
38% số bệnh nhân có tăng thể tích khối máu

ra các kết luận sau:

tụ sau 20 giờ điều trị và nếu tác giả đánh giá
vào thời điểm 24 giờ, thì có thể số bệnh nhân

mục tiêu với mức giảm từ 184,27 ± 23,89

còn tăng hơn nữa.

11,86 sau 30 phút.

Điểm Glasgow khi vào viện và sự thay
đổi thể tích khối máu tụ
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm
bệnh nhân có điểm Glasgow từ 8 -11 có 1
bệnh nhân tăng thể tích khối máu tụ chiếm tỷ
lệ 14,3%. Nhóm bệnh nhân có điểm Glasgow
từ 12 - 15 có 4 bệnh nhân tăng thể tích khối
máu tụ chiếm tỷ lệ 17,4%. Sự khác biệt về tri
giác khi nhập viện và sự gia tăng thể tích khối
máu tụ là không có ý nghĩa thông kê với
p > 0,05. Như vậy, sự gia tăng thể tích khối
máu tụ không có liên quan đến mức độ nặng
về ý thức ban đầu của bệnh nhân.
Thay đổi điểm Glasgow và điểm NIHSS
sau 24 giờ

100% bệnh nhân đạt được huyết áp theo
mmHg ở thời điểm T0 xuống mức 155,20 ±

Kiểm soát tích cực huyết áp đã kiểm soát
sự tiến triển khối máu tụ trên 83,33% số bệnh
nhân trong 24h.

Lời cám ơn
Nghiên cứu được hoàn thành nhờ sự hợp
tác của bệnh nhân đã đồng ý tham gia nghiên
cứu, đồng thời có sự đóng góp của tập thể
bác sỹ, y tá khoa Cấp cứu và khoa Chẩn đoán
hình ảnh Bệnh viện Bạch Mai.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anderson C.S, Huang Y, Arima H

Tất cả 30 bệnh nhân trong nghiên cứu của

(2010). Effects of Early Intensive Blood Pressure-Lowering Treatment on the Growth of
Hematoma and Perihematomal Edema in

chúng tôi đều được kiểm soát huyết áp theo

Acute Intracerebral Hemorrhage: The Inten-

mục tiêu nghiên cứu. Do vậy, khi đánh giá về

sive Blood Pressure Reduction in Acute Cere-

thay đổi tình trạng lâm sàng của bệnh nhân

bral Haemorrhage Trial. Stroke, 41, 307 - 312.

sau 24 giờ dựa trên thang điểm Glasgow và
thang điểm NIHSS, chúng tôi không thấy có
sự khác biệt so với thời điểm ban đầu. Như
vậy, việc kiểm soát tích cực huyết áp đã giúp

2. Arima H, Anderson C.S, Wang J.G, et
al (2010). Lower treatment blood pressure is
associated with greatest reduction in hematoma growth after acute intracerebral hemorrhage, Hypertension. 56, 852 - 858.

ngăn ngừa sự tiến triển của khối máu tụ, qua

3. Brott T, Broderick J, Kothari R, et al

đó ngăn ngừa sự tiến triển xấu về lâm sàng

(1997). Early hemorrhage growth in patients with
intracerebral hemorrhage Stroke, 28, 1 - 5.

của bệnh nhân. Kết quả nghiên cứu của

86

TCNCYH 83 (3) - 2013

nguon tai.lieu . vn