- Trang Chủ
- Mỹ thuật
- Giáo trình Mỹ thuật học (Ngành: Hội họa) - Trường Cao đẳng Lào Cai
Xem mẫu
- ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
TRỪỜNG CAO ĐẲNG LÀO CAI
GIÁO TRÌNH NỘI BỘ
MÔN HỌC: MĨ THUẬT HỌC
NGÀNH/CHUYÊN NGÀNH: HỘI HỌA
Lưu hành nội bộ
Năm 2019
1
- TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN
Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình trên các nguồn thông tin có thể được phép
dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo.
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh
thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.
2
- LỜI NÓI ĐẦU
Môn Mỹ thuật học bao gồm hầu hết mọi lĩnh vực tri thức mỹ thuật. Nó cung cấp
những hiểu biết tối thiểu về toàn bộ mỹ thuật từ các bộ môn (hội hoạ, đồ hoạ, điêu
khắc...), các loại hình mỹ thuật và các chất liệu mỹ thuật.
Thời Cổ đại, người ta chia nghệ thuật ra làm bảy loại hình nghệ thuật tự do (artes
liberales) là: trivium (3 con đường) bao gồm: Văn phạm, Logic, Hùng biện; và
quadrivium (4 con đường) bao gồm: Số học (lý thuyết về các con số), Hình học (các con
số trong không gian), Âm nhạc (các con số trong thời gian), và Thiên văn học (các con
số trong không gian và thời gian). Mẹ của cả 7 nghệ thuật đó là Triết học. Các nghệ
thuật mang tính kỹ thuật như kiến trúc, nông nghiệp, hội họa, điêu khắc, và các nghề thủ
công khác được xếp ở hàng thấp hơn.
Cái Đẹp thường được đưa ra như một tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng nghệ
thuật. Tuy nhiên, định nghĩa được cái Đẹp còn khó hơn định nghĩa được Nghệ thuật, vì
cái Đẹp phụ thuộc vào văn hóa và thời gian nhiều hơn.
Một phần vô cùng quan trọng và phong phú của văn minh nhân loại nói chung
và mỗi dân tộc nói riêng chính là mỹ thuật, sản phẩm đẹp được tạo nên bởi con người
Các nhà kinh điển (Các Mác) cho rằng do tiến hóa xã hội, muốn thưởng thức nghệ thuật
phải được giáo dục về nghệ thuật. Nghĩa là chúng ta phải biết cách dùng con mắt mình
để nhìn cái đẹp trong tác phẩm cũng như trong cuộc sống, đó chính là mục đích của Mỹ
thuật học
Lào cai, năm 2019
Người biên soạn
Hà Thị Minh Chính
3
- MỤC LỤC
Chương 1: Đặc trưng ngôn ngữ mỹ thuật ......................... 6
1.3. Đặc trưng ngôn ngữ hội họa, điêu khắc ................... 12
1.4. Đặc trưng ngôn ngữ đồ họa ........................... 15
Chương 2: Thể loại và chất liệu hội họa ........................... 16
2. Thể loại và chất liệu hội họa ............................... 16
2.1. Thể loại hội họa.................................... 16
2.1.1. Khái niệm .................................... 16
2.1.2. Các thể loại hội họa .............................. 16
2.2. Chất liệu hội họa ................................... 23
Chương 3: Thể loại và chất liệu điêu khắc, đồ họa ..................... 29
3. Thể loại và chất liệu điêu khắc, đồ họa......................... 29
3.1. Thể loại điêu khắc .................................. 29
3.2. Chất liệu điêu khắc .................................. 29
3.3. Thể loại đồ họa .................................... 30
3.4. Chất liệu đồ họa ................................... 32
Chương 4: Phân tích tác phẩm ................................. 35
4. Phân tích tác phẩm .................................... 35
4.1. Khái niệm ....................................... 35
4.2. Những kiến thức liên quan tới phân tích tác phẩm ............... 35
4.2.1. Kiến thức về nội dung và hình thức nghệ thuật .............. 35
4.2.2. Kiến thức về đặc trưng ngôn ngữ mĩ thuật ................. 36
4.3. Quy trình viết phân tích tác phẩm ......................... 36
4.3.1. Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm định phân tích .......... 36
4.3.2. Phân tích tác phẩm ............................... 37
4
- GIÁO TRÌNH MÔN HỌC
Tên môn học: Mỹ thuật học
Vị trí, tính chất của môn học:
- Vị trí: Thực hiện trước hoặc song song với các môn chuyên ngành.
- Tính chất: Môn học cơ sở ngành.
Mục tiêu môn học:
- Về kiến thức:
+ Học sinh trình bày được những kiến thức về ngôn ngữ mỹ thuật, thể loại, chất liệu hội họa,
điêu khắc...
+ Phân tích được tác phẩm mỹ thuật.
- Về kỹ năng:
+ Có khả năng nghiên cứu tài liệu, giáo trình tự học.
+ Biết đọc, phân tích tác phẩm hội họa.
+ Sử dụng ngôn ngữ của mỹ thuật để sáng tác tác phẩm.
- Về năng lực tự chủ và trách nhiệm:
+ Tham gia tích cực vào các giờ giảng
+ Thể hiện năng lực tự học
5
- Chương 1: Đặc trưng ngôn ngữ mỹ thuật
Giới thiệu:
Các kiến thức về ngôn ngữ mĩ thuật có thể áp dụng hàng ngày, giúp ta hiểu sâu
thêm các giai đoạn, các trường phái, các trào lưu, các tác giả trong lịch sử mỹ thuật. Khi
thưởng thức một tác phẩm chúng ta có thể phân tích, bình luận theo cảm nhận cá nhân.
Một số kiến thức có thể được ứng dụng cụ thể khi sáng tác, cân nhắc về cách chọn bố
cục, chọn gam màu, xử lý nét, mảng, nhịp điệu…
Mục tiêu:
+ Trình bày được đặc trưng ngôn ngữ hội họa.
+ Phân biệt được sự đồng nhất và khác biệt giữa ngôn ngữ Hội họa, Điêu khắc và Đồ
họa.
+ Biết được sự biểu hiện của ngôn ngữ mỹ thuật thông qua việc phân tích một số tác
phẩm Hội họa, Điêu khắc và Đồ họa.
Nội dung chương:
1. Đặc trưng ngôn ngữ mỹ thuật
1.1. Kênh thông tin thị giác
Có 5 loại giác quan:
Thị giác : mắt
Thính giác : tai
Khứu giác : mũi
Xúc giác : da
Vị giác : lưỡi
Cảm giác sinh ra do thông tin được truyền qua các giác quan này về não bộ để
nhận biết, xử lý và lưu giữ
Trong ngũ quan, con mắt là ngũ quan số một, nó ưu việt về nhiều mặt, 90% thông
tin ta thu nhận được là nhờ thị giác. Thị giác là mảnh đất ưu việt cho bộ môn mỹ thuật
đồng thời là cơ sở của tất cả những bộ môn nghệ thuật khác, của tư duy hình tượng.
1.2. Các yếu tố ngôn ngữ tạo hình
Khi đề cập đến bố cục là nói đến đường nét, vậy chúng ta thử tìm hiểu và phân
tách vai trò quan trọng của đường nét trong bố cục để xây dựng tác phẩm
Như chúng ta đã thấy, ánh sáng chiếu vào những hình thể trong vũ trụ, tạo nên
đường nét. Đường nét có thể là đen, là trắng, là xám, cũng có thể to hoặc nhỏ và không
bắt buộc phải liên tục.
Tùy theo tính chất và vị trí của đường nét, tùy theo những đường viền kết hợp
thành nó, nên đường nét có thể làm rung cảm tâm hồn và tạo những nguồn cảm xúc khác
nhau.
Đường nét là căn bản xây dựng nội tâm của ảnh : thẳng, cong hay gẫy khúc, nó
có thể cho nhìn thấy hoặc cụ-thể-hóa ra, hoặc gợi ra (trong phong cảnh không có đường
6
- nét lớn để lấy làm chính thì sự liên lạc hữu hình hoặc vô hình là đường nét chính) cho
người xem.
Đưòng nét có thể là ngang, là dọc, là chéo. Đường nét có thể đặt theo những nhịp
điệu có nhiều tương ứng với chúng ta, bởi vì nó bắt nguồn từ những sự biểu lộ tự nhiên
và nó lược-đồ-hóa sức mạnh ấy tùy thuộc loại hình ảnh trình bày không thay đổi từ ngàn
xưa.
Như vậy người ta ghép ý nghĩa trang nghiêm với đường dọc, phẳng lặng với
đường ngang, sống động với đường chéo. Và đường thẳng vẫn có ý nghĩa là cứng rắn,
là nghiêm khắc, đường cong diễn tả sự rung cảm và sự trọn vẹn, đường gấp diễn tả sự
sống động và hỗn loạn.
Sự cân xứng của ảnh phần chính nằm trong sự tương hợp giữa những đường nét
và những mảng đậm lợt. Vì cân xứng không có nghĩa là cân đối nên người ta xếp bố cục
bằng hai cách:
Bố cục cân đối
Bố cục không cân đối
Bố cục cân đối
Theo toán học: Cân đối là hai đối xứng ở hai hình bằng nhau, cách đều nhau hai
bên một điểm hoặc một cái trục nhất định.
Nghệ Thuật : Về phương diện nghệ thuật, cân đối là sự phù hợp về kích thước,
về tương xứng của những phần khác nhau của cơ thể và tương xứng của những phần ấy
với toàn cục. Kết quả là một tổng hợp điều hòa tẻ nhạt về hình thức mà những tương
xứng phối hợp lại một cách đều đặn.
Sự cân đối là căn bản của kiến trúc. Những nghệ sĩ thời cổ thường dùng nó để
khai diễn những đề tài tôn giáo, những hình thái khắt khe, cứng rắn một cách trang trọng.
Người ta thường dùng nó cho những ảnh về lâu đài, nhà thờ v.v...
Đường dọc là đường chế ngự trong bố cục cân đối, và bố cục cân đối là một cách
bố cục đầy đặc tính trang trọng. Nó có thể giảm đi. Nếu bố cục theo hình tam giác thì
nó sẽ có sự linh động phần nào trong toàn thể.
Bố cục cân đối đưa đến sự tẻ nhạt, ít gợi cảm, càng tránh được càng tốt. Tuy
nhiên có khi người ta muốn nghịch ngợm, dùng cách bố cục cân đối để nhạo cổ điển.
Bố cục không cân đối
Bố cục không cân đối là nguồn cảm hứng phóng khoáng của nghệ sĩ. Nó không
có luật lệ, mà luật lệ chỉ là tìm cảm hứng trong ký ức thẩm mỹ của tác giả.
Đối với loại bố cục này ta phải chú ý đến sự cân xứng, nó có liên hệ chặt chẽ với phép
phối cảnh.
Đường nét là nền tảng của bố cục nên nhờ nó mà ta tìm cảm hứng và dùng nó
làm địa bàn đi tìm trọng tâm ( cùng nghĩa là chủ điểm ) và sự cân xứng của ảnh.
Nhưng nếu khai diễn sắc thái của đường nét, ta sẽ thấy bố cục của cách bố cục không
cân đối. Trong lãnh vực đó người nghệ sĩ sẽ để cho tùy theo tâm hồn hướng dẫn bởi vì
7
- những đường tạo ra trong lúc cảm hứng sẽ dùng làm căn bản cho sự xây dựng đề tài mà
mình muốn và gợi ý ra những trạng thái nó đưa đến bố cục chót.
Đường nét là yếu tố sáng tác của nghệ sĩ, nhưng khi không đạt được sự gợi cảm, thì
dùng đường nét chỉ là đường nét mà không là nghệ thuật.
Có nhiều cách bố cục, nhưng có một cách giản dị là bố cục theo mẫu chữ cái.
Mỗi một chữ theo bản thể của nó là một bố cục đồ bản trên một diện tích trắng
hay là trong không gian. Có một số chữ theo với bố cục đồ bản trội hơn những chữ khác.
Nhưng phần nhiều những chữ được áp dụng là những chữ giản dị trong sự không cân
đối của nó : G, Z, J, C, S, U, L, I, v.v...
Trong bố cục không cân đối, nên tránh để chân trời chia ảnh ra làm hai phần bằng
nhau, phần trời và phần đất đều nhau sẽ không làm cho ta chú ý đến phần nào và mắt cứ
đưa từ phần này qua phần khác. (Trong một vài trường hợp cũng có thể để chân trời ở
giữa tùy theo sự suy diễn của tác giả.)
Trong phong cảnh để chân trời ở 1/3 trên hoặc ở 1/3 dưới tùy theo tác giả muốn
đặt phần quan trọng diễn tả ở phần trên hay phần dưới: như muốn tả về trời, về mây thì
để chân trời ở 1/3 dưới, còn nếu muốn nhấn mạnh về cảnh mặt nước, cảnh trên mặt đất
thì để đường chân trời ở 1/3 trên.
Sự gợi cảm bằng đường nét
Sự phù hợp giữa đường nét và tâm hồn:
Ta phải tập nhìn ra đường nét ngay lúc đóng khung cho ảnh để chụp để có thể áp
dụng những quy tắc bố cục. Có bốn loại đường nét thường dùng trong bố cục :
Đường ngang
Đường dọc
Đường chéo
Đường cong
Những loại đường này có thể dùng riêng biệt hoặc phối hợp tùy theo loại và tùy
theo chủ đề của ảnh.
Làm sao những đường nét chỉ có hình thức trừu tượng mà lại có mãnh lực rung
cảm?
Nếu chúng ta nghiên cứu một số những tác phẩm hội họa thì ta thấy bố cục của
những họa sĩ danh tiếng thường đặt căn bản trên vài hình thức kỷ-hà-học. Không phải
chỉ có hội họa mà còn cái gì do người tạo ra đều tìm đến hình thức sắp xếp của Kỷ-hà-
học vì nhãn quan của người ta đã bị giáo dục theo cái cân xứng sắp xếp đó, vô tình chúng
ta đã tìm những đường mạnh của bố cục để căn cứ vào đó mà suy tưởng và cảm xúc.
Bố cục của vũ trụ đặt căn bản trên hình thức kỷ-hà-học nên làm cho cảm giác chúng ta
bị những hình thức kỷ hà ăn sâu và chi phối. Thí dụ khi nói đến kim-tự-tháp Ai-Cập là
ta nghĩ ngay đến hình chóp bốn góc, khi nói đến nhà thờ ta nghĩ ngay đến tháp chuông
cao vút với vẻ uy nghi.
8
- Như vậy là có sự liên quan chặt chẽ giữa sự xây dựng đường nét của ảnh với sự truyền
cảm của tâm hồn. Nếu ta chú ý đến sự phù hợp đó ta sẽ kiểm điểm được bố cục của ta.
Ngôn ngữ rung cảm của đường nét :
Ta nhận thấy những loại đường nét gợi cho trí óc chúng ta cái cảm tưởng khá rõ
ràng để nhận định cái ý nghĩa riêng biệt của nó. Cũng đôi khi cái cảm tưởng đó vượt
khỏi tầm phân tách của ta.
Những sự phù hợp sẵn có giữa đường nét và cảm giác đã được nghiên cứu kỹ
càng và được dùng cho bộ môn kiến trúc và trang trí, thì người nhiếp ảnh chúng ta cũng
có thể áp dụng nó được.
Như vậy ta có thể khái niệm rằng: đường thẳng có nghĩa riêng là phù hợp với
nghị lực và bền bỉ biểu lộ sự cương quyết mà đường cong không có được , vì nó chỉ có
thể gợi cho ta ý mềm dẻo, yếu đuối và kết tụ. Đường cong cũng thuận cho cách gợi ra
đều đặn, quý phái mà khi ngắm đường gẫy khúc không thể có được. Đường gẫy khúc
khi cứ kéo dài mãi thì với sự chập chờn và run rẩy của nó cho ta cảm tưởng linh động.
Nhưng đường nét lại còn cho ta nhiều cảm tưởng đặc biệt tùy theo vị trí của nó
và cách xếp đặt. Ai lại không biết là đường ngang gợi cảm giác bình thản, buồn bã biểu
lộ sự lâu dài. Trái lại đường dọc gợi cho cảm giác sôi nổi và phát sinh ra cảm tưởng
trang nghiêm, cao quý.
Chúng ta chợt có những cảm giác lạ khi ta ngắm đường ngang mặt biển trải rộng
mênh mông hầu như vô tận trước tầm mắt chúng ta, hay khi ngắm cây tháp cao vút của
ngôi giáo đường, ta thấy lân lâng lên mãi như dễ đụng tới từng mây.
Những cảm giác đó tăng độ lực và phát hiện với những đường lập đi lập lại và
giảm bới đi khi có những đường nghịch với nó.
Góc cạnh là do sự gặp nhau của hai đường hội tụ mà thành và gợi cho những
cảm giác do đường nghiêng nghiêng của cạnh.
Góc cạnh càng thu hẹp thì cảm tưởng càng nhiều và giống như cảm tưởng phát
sinh bởi cái ngắn của đường dọc.
Góc cạnh càng mở rộng cảm giác có thể gần gũi đến lẫn lộn với cái ngắn của
đường ngang.
Như thế những đường của hình chóp và hình tam giác cho ta ý niệm lạ, lâu dài,,
bền bỉ, vững vàng. Tùy theo hình dáng cân xứng của hình tam giác mà ta sẽ thấy hợp
với đường ngang hay với đường dọc: hình tam giác cạnh dưới (đáy) hẹp và mỏng mảnh
sẽ thoảng thấy như đường dọc. Hình tam giác cạnh dưới (đáy) rộng sẽ thấy như đường
ngang.
Hình tam giác gợi cảm giác vững chắc và sống động mà khi thêm vào đó những
đường chéo sẽ cho cảm tưởng hoạt động và nhịp nhàng.
Đường hội tụ cũng có thể gợi cho ta sự thoát ra, sự vô tận. Tùy theo vị trí của
điểm tụ mà những đường đó cho ta cảm tưởng đi lên hay cảm tưởng về chiều sâu.
9
- Đường chéo gợi sự hoạt động, tốc độ. Nếu bắt chéo nhau, nó biểu lộ sự lẫn lộn,
sự không thăng bằng, sự hằng hà sa số. Nếu nó vượt khỏi một điểm thì đó là phóng ra,
là tia ra, là đụng chạm và là bạo hành. Nếu nó được phân chia đều đặn, nó cho ta cảm
giác vững vàng.
Đường cong cũng không có được tính chất rõ ràng như đường thẳng. Ta cũng
thấy những đường cong rất mỹ miều hấp dẫn như trong thế giới thảo mộc, trong thế giới
động vật lúc còn nhỏ và nó mất dần đi khi cằn cỗi già nua, và cũng như thấy đường cong
đậm tính chất uy nghi gần nghĩa điều hòa khi nó mô tả đạn đạo vòng cầu.
Đường cong dùng để nối liền những yếu tố trong bố cục và ráp lại những phần
trong bố cục. Vì sự quan trọng của nó nên trong nhiều trường hợp nếu thiếu nó thì bố
cục không thành.
Hình: 1.1
Hình 1.2. Hình 1.3 Hình 1.4
Hình: 1.5 Hình 1.6 Hình 1.7
10
- Hình 1.8
Hình 1.9
11
- 1.3. Đặc trưng ngôn ngữ hội họa, điêu khắc
Ngôn ngữ điêu khắc
Khái niệm:
Nói tới Điêu khắc là nói tới đục dẽo, khắc, chạm trên bề mặt của các vật cứng
hay tạc, đổ, đắp, nặn bằng các vật liệu khác nhau để tạo ra hình khối. Các bề mặt vật
liệu như: đá gỗ, kim loại, thạch cao, chất dẻo… nhằm khắc họa cuộc sống, mang đến
cho người thưởng thức những tư tưởng, tình cảm, những cảm xúc nhất định.
Nghệ thuật điêu khắc tạo hình bằng cách phối hợp các hình khối trong không
gian, qua đó nhà điêu khắc biểu hiện những ý tưởng nghệ thuật của mình. Tác phẩm
điêu khắc mang những đặc trưng khác với các loại hình nghệ thuật khác. Nó tồn tại như
một vật thể có trọng lượng, khối, có thể tích và chiếm lĩnh không gian. Ngôn ngữ của
điêu khắc chính là hình khối, màu sắc, đường nét.
Khối:
Khái niệm về khối bao gồm ba tương quan chủ yếu:
Sự chiếm chỗ trong không gian
Cảm giác về tính chất vật lý của chất liệu
Cảm giác về hình – như là một sự trừu tượng hóa khối lên một bề mặt
Nếu ngôn ngữ của hội họa là hình khối, màu sắc, đường nét, là biểu hiện không
gian thực trên mặt phẳng hai chiều thì ngôn ngữ của điêu khắc là mảng khối, là quan hệ
của tác phẩm điêu khắc với không gian đa chiều xung quanh
Ngôn ngữ khối của điêu khắc được khai thác rất đa dạng ở nhiều khía cạnh khác
nhau. Các nhà điêu khắc hiện đại không chỉ sử dụng tròn, chắc, đóng kín mà đi vào khai
thác những khối tương phản đối lập như khối lồi, lõm, đặc, thủng, khối đóng, khối mở…
việc kết hợp khối tương phản này đã tạo ra nhiều hiệu quả mới lạ và đầy biểu hiện đối
với thị giác
Khi ánh sáng chiếu vào một vật nào đó trong không gian sẽ giúp ta cảm nhận
được hình khối của vật đó. Khối lồi và khối lõm, sự tương phản về khối sẽ gợi ra những
cảm xúc thẩm mỹ khác nhau hoặc ngược chiều
Đường nét:
Trong điêu khắc, đường nét đôi khi được tạo nên chính bởi sự xử lý các khối.
Và một phần khác, chính các nghệ sĩ sử dụng nét để xử lý cùng đồng thời phối hợp hiệu
quả cùng với khối, hòa nhập ăn ý với nhau để tạo nên vẻ đẹp của tác phẩm
Bề mặt tượng:
Bề mặt tượng cũng là một yếu tố ngôn ngữ. Khối không chỉ được cảm thụ ở sự
chiếm chỗ của nó trong không gian mà còn cảm thụ cả tính vật chất của khối đó nữa.
Do con mắt làm được một phần chức năng của xúc giác nên tuy không sờ vào mặt tượng,
mắt ta vẫn có cảm giác về các tính chất của vật chất này.Bề mặt tượng và kết cấu tượng
cho một cảm giác cụ thể.
12
- Bề mặt tượng có hai khía cạnh, một là nó đại diện mặt cắt trừu tượng của một
khối nào đó và hai là bề mặt tự nhiên do chất liệu sinh ra. Quá trình gia công chất liệu
là biểu hiện vật chất cụ thể của quá trình sáng tác điêu khắc. Do vậy kết cấu bề mặt, tính
chất của chất liệu thể hiện qua bề mặt là một phần của ngôn ngữ khối, quan hệ của khối
với bề mặt của nó là không thể tách rời
Vẻ đẹp chuẩn mực, thánh thần của tượng “Người ném đĩa” hay “Vệ nữ Milô”
hay phù điêu Pác-tê-nông… của điêu khắc Hy Lạp cổ điển có được một phần nhờ chất
nhẵn của đã cẩm thạch.
Chất đá xanh rắn với khối vuông vức, bề mặt nhẵn đanh lại là một phẩm chất của
điêu khắc Ai Cập.
Điêu khắc Ấn Độ, Chàm… ưa thích cái nóng ấm da thịt, ưa cái xốp, bắt nắng, bắt
sáng ấm áp của các loại đá cát.
Bề mặt tượng còn liên quan tới yếu tố đường nét trên tượng, như ta thường thấy
trong nhiều chùa, tượng Phật thường nhẵn láng kết hợp với đường nét mềm mại, thể
hiện sự nhu hòa, còn các vị La Hán thường thô nhám và khúc khuỷu, thể hiện sự khắc
khổ.
Không gian:
Điêu khắc là nghệ thuật chiếm chỗ trong không gian và kiến trúc là nghệ thuật
phân chia không gian trong các khối. Vậy nên cũng có thể coi khối và không gian là
một. Bản chất của khối là tạo không gian và bản chất của không gian là tạo khối. Khối
rỗng chứa trong lòng nó một phần không gian, khối đặc thì vật chất của khối chiếm phần
không gian ấy
Có ba loại không gian khối:
Không gian bao bọc lấy khối xung quanh bề mặt của tác phẩm, khối gây cảm
giác chiếm chỗ mạnh mẽ, chắc chắn.
Khối có sự len lỏi của không gian bên ngoài vào bên trong lòng nó. Sự chiếm chỗ
ít khẳng định hơn, giao lưu giữa khối và không gian vây quanh tích cực hơn.
Khối chính là không gian bên ngoài vào bên trong lòng nó.
Tác phẩm điêu khắc được gắn với không gian thực. Không gian đặt tượng cũng
góp một phần làm tăng giá trị cho tác phẩm điêu khắc. Nếu đặt đúng chỗ, đúng điều kiện
ánh sáng, đúng môi trường sẽ làm cho tác phẩm đẹp thêm lên, và ngược lại.
Trước khi làm một tác phẩm điêu khắc, ngoài việc suy nghĩ tìm ra cho tác phẩm
một cách thể hiện, thì việc tìm hiểu về môi trường, nơi sẽ đặt tác phẩm cũng vô cùng
quan trọng.
Tác phẩm điêu khắc có liên quan mật thiết với cảnh quan, môi trường, kiến trúc.
Đó là môi trường “sống” của một tác phẩm điêu khắc. Có được như vậy, nó mới phát
huy hết chức năng của mình.
13
- Tính đa chiều của sự xử lý khối cũng tạo nên hiệu quả khi không gian và khối
tượng sẽ tạo những đường hướng phong phú, nhà điêu khắc phải nghĩ tới ánh sáng, môi
trường xung quanh.
Tuy nhiên có những vị trí đặt tượng mà không cần phải xử lý ở nhiều đầy đủ các
hướng mà tập trung giải quyết ở hướng chính, hướng quan trọng nhất, tuy nhiên vẫn
luôn phải đảm bảo sự phụ trợ xử lý khối thành công ở các hướng phụ.
→ KL: Việc giải quyết không gian tượng đóng vai trò vô cùng quan trọng. Các
hướng đi của người xem được xem xét như một yếu tố biểu đạt. Những khối tượng được
tính toán các hướng nhìn, tầm nhìn chính phụ khác nhau. Mặt chính, hướng chính, không
gian tiếp cận chính được ưu tiên và nhấn mạnh. Chủ đề tượng cũng như nghệ thuật thể
hiện ở hướng chính cũng là trọng tâm về nội dung và hình thức tác phẩm.
Thưởng thức:
Khi thưởng thức một tác phẩm điêu khắc, người xem không chỉ được thỏa mãn
một giác quan thị giác mà còn có thể cảm nhận trực tiếp bằng các giác quan khác. Người
thưởng thức có thể cảm nhận được sự mềm, lạnh, trơn nhẵn của đá; sự thô ráp, rắn chắc
của xi măng, sự ấm áp, sự thô mộc của gỗ… Như vậy, với tác phẩm điêu khắc, nhất là
tượng tròn, ta có thể đi xung quanh ngắm nhìn, thưởng thức vẻ đẹp của pho tượng, có
thể sờ mó để cảm nhận xúc cảm thẩm mỹ đưa lại từ chất liệu.
Hình: 1.10
14
- Hình: 1.11
1.4. Đặc trưng ngôn ngữ đồ họa
Đường nét, chấm, vạch
Trong hội họa, đường và nét luôn đi song hành với nhau, đường chỉ ra một hướng,
đường làm nên nét, tập hợp của nhiều đường đơn lẻ tạo ra nét vẽ và ngược lại, sự tập
hợp củ nhiều né vẽ cũng tạo ra đường hướng nhất định trong tranh. Cũng tương tự như
vậy, đồ họa sử dụng đường nét, chấm, vạch là ngôn ngữ chính, chủ yếu và cơ bản để thể
hiện. Trong một số tác phẩm yếu tố mảng à màu trở thành thứ yếu, đường và nét trở
thành cơ sở đầu tiên quan trọng nhất tạo nên đường viên, tạo hình cho tác phẩm.
Mảng, màu
Song song với các đường nét, chấm vạch đồ họa còn dùng mảng màu. Các mảng trong
đồ họa có khi do đường nét bao quanh mà thành, có khi do tập hợp củ nhiều chấm, nhiều
nét tạo nên. Mảng tạo cho hình vững chãi, tạo độ đậm nhạt, khả năng diễn tả nông sâu,
khả năng tạo khối. Màu và mảng góp phần tạo nên tiếng nói của tác phẩm với người
xem.
15
- Chương 2: Thể loại và chất liệu hội họa
Giới thiệu:
Hội họa có những thể loại nào? Hội họa dùng những chất liệu gì để vẽ tranh? Lịch sử phát
triển của cá thể loại và chất liệu vẽ tranh như thế nào? Tất cả các yếu tố đó là nội dung của chương
2. Có những kiến thức về thể loại và chất liệu vẽ tranh sẽ giúp ta phân biệt rõ ràng các loại tranh,
hiểu sâu hơn về hội họa. Mặt khác, trong quá trình tìm hiểu và phân tích tác phẩm hộ họa, đây
cũng là những yếu tố quan trọng.
Mục tiêu:
+ Người học trình bày được khái niệm, phân biệt được các thể loại và chất liệu vẽ tranh.
+ Phân biệt được đặc điểm của từng thể loại hội họa.
Nội dung bài:
2. Thể loại và chất liệu hội họa
2.1. Thể loại hội họa
2.1.1. Khái niệm
Hội hoạ là loại hình nghệ thuật tạo hình, dựa vào nội dung, đề tài, tác phẩm thể
hiện mà phân chia thành những thể loại nhỏ hơn.
Bức tranh vẽ về con người và bộc lộ cá tính, tính cách, đặc điểm riêng về ngoại
hình, nội tâm… được gọi là tranh chân dung.
Tác phẩm vẽ về con người, nhưng những con người chung chung đặt trong các
sinh hoạt, hoạt động, công việc… lại được gọi là tranh sinh hoạt.
Ngoài ra, người ta còn dựa vào đặc điểm, tính chất, hình thức thể loại hay khuôn
khổ của bức tranh mà Hội hoạ có thể phân chia thành các thể loại: Hội hoạ giá vẽ và
tranh tường (bích hoạ).
Ngoài hai cách phân chia trên, còn cách phân chia thể loại dựa vào đặc điểm địa lý
của từng quốc gia, từng khu vực (phương Đông, phương Tây…)
Ở đây xin tập trung tìm hiểu cách phân thể loại theo kiểu châu Âu (thể loại tranh
sinh hoạt, tranh chân dung, tranh lịch sử, tranh phong cảnh, tranh tĩnh vật).
2.1.2. Các thể loại hội họa
Tranh sinh hoạt
Khái niệm:
Tranh sinh hoạt là thể loại tranh diễn tả về những hoạt động trong cuộc sống của
con người diễn ra hàng ngày. Đề tài rất phong phú và đa dạng, tất cả mọi khía cạnh, mọi
hoạt động của của con người đều được khai thác và xây dựng thành tác phẩm.
Lịch sử và sự phân loại
16
- Là thể loại tranh ra đời sớm nhất, ngay từ thời Nguyên thuỷ, đã có rất nhiều bức
họa mô tả các hoạt động trong đời sống hàng ngày của người nguyên thuỷ (săn thú, đánh
cá…)
Ở thời Cổ đại, tranh tường về đề tài sinh hoạt xuất hiện nhiều trong các lăng mộ,
đền thờ làm nhiệm vụ minh hoạ, tả, kể về cuộc sống lao động, các hoạt động tôn
giáo…(bích hoạ Ai Cập)
Lúc đầu tranh sinh hoạt chủ yếu tập trung vào đề tài cung đình và cuộc sống trong
cung đình.
Đến thế kỷ XVII, tại Hà Lan xuất hiện những tranh sinh hoạt của thị dân.
Nhưng đến thế kỷ XIX mới có những cảnh sinh hoạt giản dị đề cập đến mọi mặt
của đời sống thị dân (Cuốc-bê, Vec-me)
Bên cạnh những cảnh sinh hoạt của thị dân còn có thể loại tranh mô tả những cảnh
sinh hoạt của thần thánh theo kiểu “thần nhân đồng hình”, đề tài được lấy từ nguồn
“Thần thoại Hy Lạp”… và xuất hiện nhiều nhất ở thời Phục Hưng (tranh minh hoạ).
Tranh sinh hoạt được chia thành các loại:
+ Tranh sinh hoạt hiên thực
+ Tranh sinh hoạt thần thánh
+ Tranh sinh hoạt tôn giáo
+ Tranh sinh hoạt lịch sử
Trong đó có thể thấy 3 mảng đề tài: Cung đình, thị dân và hiện thực.
Đặc điểm của tranh sinh hoạt
Tranh sinh hoạt thường mang tính chất mô tả, diễn tả hiện thực thẩm mỹ đã làm
rung động cảm xúc của người hoạ sĩ
Tranh sinh hoạt mang đậm tính chân thực và sống động.
Hình: 2.1.
17
- Những người thợ đập đá – Cuốc bê
Hình: 2.2
Thể loại tranh chân dung
Tranh chân dung có vị thế quan trọng và lâu đời trong lịch sử hội họa, trải qua thời
gian dài của lịch sử sáng tạo, tranh chân dung luôn được các họa sĩ tìm tòi, thể nghiệm
và đã có nhiều kiệt tác nghệ thuật.
Tranh chân dung tự bản thân nó mang một cái nhìn về một con người cụ thể, sống
động. Tái hiện chân thực hình tượng nhân vật về diện mạo, về thần khí, về tính cách và
gắn kết nhân vật với cuộc sống hiện tại.
Khái niệm
Tranh chân dung là một thể loại căn bản của hội hoạ. Tranh thường vẽ một người
hay một nhóm người. Đối tượng của tranh chân dung là các nhân vật quan trọng, các
anh hùng, vĩ nhân, các nhà văn hoá, các nhà khoa học… mà hình ảnh của họ được giữ
gìn và lưu truyền cho đời sau..
Ngoài tranh chân dung về một con người hay một nhóm người cụ thể mà còn có
loại tranh mang tính tiêu biểu cho một tầng lớp người nào đó trong xã hội, lý tưởng hoặc
bắt nguồn từ trí tưởng tượng nào đó của hoạ sĩ. Cũng có khi hoạ sĩ tự lấy hình ảnh của
mình để gửi gắm và bộc lộ những tâm tư tình cảm và những quan điểm sống – chân
dung tự hoạ.
Lịch sử phát triển và sự phân chia thể loại của tranh chân dung
18
- Hình: 2.3
Thể loại tranh chân dung xuất hiện sớm, từ thời Cổ đại, trong các hầm mộ với
những bức chân dung sống động cực thực (quan niệm linh hồn người chết cần có ngôi
nhà để đi về).
Đến thế kỷ XV, giá trị của con người được đề cao (tư tưởng chủ đạo của nghệ
thuật PH-Lê, Mi, Ra…) tranh chân dung phát triển rực rỡ. Với những bức chân dung
Giáo hoàng, chân dung phụ nữ đến ngày nay vẫn nguyên giá trị.
Thế kỷ 17, xuất hiện những trường hoạ chân dung nổi tiếng ở Hà Lan và đại diện
tiêu biểu là Phờ-răng-xơ Han (Frans Hals), Rem-bờ-răng (Rembrandt), Giắc-cơ Lui Đa-
vít (Jacques Louis David), Đô-mi-níc-cơ Anh-grơ (Dominique Ingres).
Và có nhiều hoạ sĩ nổi tiếng với những bức chân dung tự hoạ như: Vangogh,
Gauguin, Rembrandt..
Ở Việt Nam
Tranh chân dung phát triển cùng các thể loại khác với các hoạ sĩ TNV, TVC,
Huỳnh Văn Gấm… tuy nhiên thì số lượng và chất lượng còn hạn chế so với thế giới.
Phân chia
Có nhiều tiêu chí phân chia thể loại tranh chân dung. Ở đây, chúng ta sẽ chia các
thể loại tranh chân dung theo tiêu chí hiện thực, lý tưởng và chân dung tự hoạ.
Tranh chân dung hiện thực
Đặc tả về tâm lý, ngoại hình, tính cách, nội tâm sâu kín của nhân vật, người xem
có thể cảm nhận được tâm trạng, toan tính, suy tư… và những dấu ấn của từng chặng
đường trong cuộc đời một nhân vật có thật.
19
- Với mục đích diễn tả cái đẹp, cái chân thực cụ thể của từng người, từng khuôn
mặt. Đồng thời qua vẻ đẹp ngoại hình bộc lộ được bản chất bên trong và lưu giữ được
hình ảnh một con người với đầy đủ dáng vẻ, diện mạo và tính cách của họ.
Bên cạnh đó còn có loại tranh chân dung tập thể. Là tập hợp nhiều người được
sắp xếp bố cục rõ ràng nhưng phải mang đặc điểm riêng về chân dung và đặc điểm cụ
thể của từng cá nhân riêng biệt. (Tuần đếm, còn có thể có những tác phẩm nào nữa?).
Tranh chân dung tự hoạ
Hầu hết các hoạ sĩ vẽ tranh chân dung đều có tranh tự hoạ. Tự họa là đối thoại,
là thông qua hình ảnh của bản thân mình để bộc lộ những tình cảm, tâm trạng, là biểu
hiện thế giới quan của mình đối với thực tế, biểu hiện quan điểm sống… tất cả như một
bản tự sự của tác gải đối với người thưởng thức để khẳng định mình và như để được
chia sẻ và cảm thông.
Các họa sĩ vẽ chân dung tiêu biểu: Rembrandt, Vangogh, Picasso. Ở Việt Nam
có Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Phan Chánh...
Tranh chân dung lý tưởng
Là thể loại được xây dựng dựa trên những đặc điểm tiêu biểu, tượng trưng, mẫu
mực cho một kiểu, mẫu người nào đó trong xã hội.
Những hình thức biểu đạt của tranh chân dung
Chân dung chỉ diễn tả gương mặt
Chân dung bán thân: chú ý đến những đặc điểm chi tiết và những nét biểu hiện
tình cảm, cảm xúc, diễn bếin tâm lý của nhân vật.
Chân dung bán thân: biểu hiện nửa người, thêm phần tay – đôi bàn tay góp phần
quan trọng bộc lộ tính cách, cuộc sống và thần thái của nhân vật.
Chân dung toàn thân: cho người xem biết đặc điểm gương mặt, tình cảm, cá tính
và còn biểu hiện dáng vẻ, hình ảnh hoàn thiện của một con người, một nhóm người trong
những dáng động phong phú. Thường thì những chân dung loại này còn kết hợp với
không gian thực, một số tuỳ thân, hoa hay các con thú nuôi như chó, mèo, chân dung
các quý tộc, hoàng thân thường được vẽ đang cưỡi ngựa với trang phục uy nghiêm.
Thể loại tranh lịch sử
Khái niệm
Là loại tranh phản ánh về lịch sử xã hội loài người, có thể để cập đến một sự kiện
lịch sử, một nhân vật trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc cũng như lịch sử nhân
loại, một giai đoạn cách mạng…
Đề tài lịch sử được quan tâm và đặc biệt coi trọng ở châu Âu trong nhiều thế kỷ,
từ Phục Hưng đến tận thế kỷ XIX và đề tài ưa thích là không khí hào hùng thời La Mã
cổ đại. Ngày nay thì dòng tranh này ít được ưa chuộng và kém phát triển so với các dòng
tranh khác.
Lịch sử phát triển của tranh lịch sử
20
nguon tai.lieu . vn