Xem mẫu
- MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
NỘI DUNG:......................................................................................................... 1
1. Khái niệm:..........................................................................................................................1
2. Những yếu tố cơ bản trong bố cục tranh......................................................................... 4
2.1. Ý tưởng.......................................................................................................................4
2.2. Hình mảng và đậm nhạt............................................................................................. 5
2.3. Hình tượng...................................................................................................................6
2.4. Đường nét và nhịp điệu.............................................................................................. 7
2.5. Màu sắc......................................................................................................................11
3. Quan hệ giữa nội dung và hình thức............................................................................... 14
4.2. Bố cục hình tam giác................................................................................................15
4.3. Bố cục hình chữ nhật và các dạng bố cục khác.....................................................16
5. Phương pháp xây dựng bố cục tranh ..............................................................................17
5.1. Nghiên cứu lựa chọn nội dung chủ đề, tìm ý tưởng bố cục...................................17
5.2. Tìm tư liệu để xây dựng bố cục tranh..................................................................... 18
5.3. Xây dựng hình tượng nhân vật.................................................................................20
5.4. Lựa chọn hình thức bố cục.......................................................................................20
5.5. Phác thảo bố cục mảng đen trắng, màu..................................................................21
5.6. Thể hiện tranh( phóng hình, tìm hình, vẽ màu)....................................................... 22
8. Bài tập thực hành : ......................................................................................................... 26
8.1. Bài tập 1: Đề tài tự do 25 tiết (10 + 15) – Khổ giấy 30 cm x 40 cm...................... 26
8.2. Bài tập 2: Đề tài Thiếu nhi 30 tiết (15+15) – Khổ giấy 40 cm x 60 cm.................26
8.3. Bài tập 3: Đề tài sinh hoạt 30 tiết (15+15) – Khổ giấy 40 cm x 60 cm..................27
8.4. Bài tập 4: Đề tài lễ hội 30 tiết ( 15+15) – Khổ giấy 45 cm x 60 cm......................27
8.5. Bài thi học phần theo đề thi 30 tiết (15+15) – Khổ giấy 45 cm x 60 cm...............28
HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN:..........................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................ 29
- BỐ CỤC 1
1. TÊN HỌC PHẦN: BỐ CỤC 1 ( 5T lý thuyết + 145T bài tập nghiên cứu )
2. SỐ TÍN CHỈ : 02
3. TRÌNH ĐỘ: Đại học sư phạm mỹ thuật
MỞ ĐẦU
Bố cục là một môn học tổng hợp và nâng cao trong chương trình đào tạo sinh
viên mỹ thuật, nhằm rèn luyện khả năng cảm thụ và phát triển tư duy nghệ thuật,
sáng tạo ra cái đẹp nghệ thuật hội họa qua đó trở lại tác động tới các môn học khác
trong đào tạo mỹ thuật. Như vậy môn học bố cục rất quan trọng đối với người h ọc
mỹ thuật. Mỗi năm học có những yêu cầu cụ thể về từng trình độ khác nhau. Trong
học phần bố cục 1 giúp các em bắt đầu làm quen với môn học hiểu được thế nào là
bố cục trong hội họa, những điều cơ bản nhÊt của việc xây dựng được một bức
tranh bố cục và tập làm quen với những bài tập thực hành đơn giản, sử dụng chất
liệu bột màu.
Mục tiêu:
- Kiến thức: Nắm được những kiến thức cơ bản của Bố cục tranh
- Kỹ năng: Vẽ được một số tranh với những đề tài gần gũi cuộc sống của
sinh viên, có thể dạy tốt môn vẽ tranh ở các bậc học: Đại học, Cao đẳng, THCN,
THCS và Tiểu học
- Thái độ: Hiểu và nâng cao vẻ đẹp của Hiện thực, thấy được giá trị của tác
phẩm Hội họa trong đời sống
Điều cần biết trước:
- Để thực hiện tốt bài tập này, người học cần biết và nắm vững các kiến thức
cơ bản về màu sắc trong các bài học Trang trí.
-Biết vận dụng các kiển thức từ những bài học môn hình họa đậm, nhạt,
tương quan giữa các yếu tố tạo hình
- Nắm được kiến thức về Luật xa gần, Giải phẫu tạo hình
- Biết cách ghi chép lấy tư liệu phục vụ học tập bộ môn
NỘI DUNG:
1. Khái niệm:
Trong các loại hình nghệ thuật, Hội hoạ là loại hình nghệ thuật thị giác, nó
mang tính tạo hình trực tiếp thông qua các yếu tố hình khối, màu sắc, đường nét, nhịp
điệu. Hội họa còn là một loại hình nghệ thuật không gian, nó tái tạo không gian ba
chiều trên mặt phẳng hai chiều theo kiểu phương Tây hoặc là không gian ước lệ theo
tạo hình phương Đông. Để vẽ được một bức tranh mang giá trị nghệ thuật đòi hỏi
1
- người học phải nắm được những cơ sở khoa học đó của hội họa, trong đó bố cục là
một môn học không thể thiếu của sáng tác hội họa. Bố cục chính là phương pháp tự
rèn luyện bằng nhận thức và thực hành, của học sinh- sinh viên mỹ thuật. Có thể nói,
bố cục là phương pháp tìm tòi, xác định một hình thức biểu đạt thích hợp cho một
nội dung tranh có trong ý đồ của người vẽ. Quá trình này vừa là quá trình làm việc
vừa là quá trình nghiên cứu thể nghiệm và sáng tạo.
Khái quát hơn nữa, bố cục là phương pháp làm việc mang tính chiến lược,
trước khi đi vào diễn tả hoàn chỉnh, nhằm xác định hình thức biểu đạt hữu hiệu nhất
cho việc xây dựng một hình tượng nghệ thuật- một nội dung. bằng ngôn ngữ của
nghệ thuật hội họa như: Đường nét, hình mảng, màu sắc, đậm, nhạt, chất
cảm...Người nghệ sĩ bằng những năng lực sáng tạo của mình đã tái tạo hiện thực
khách quan trên tác phẩm nghệ thuật. Như vậy Bố cục là dùng ngôn ngữ của hội họa
như hình mảng, đường nét, đậm nhạt, màu s¾c, chất cảm để sắp xếp trên một mặt
phẳng, trong một khuôn khổ nhất định về một nội dung, chủ đề mà người vẽ cần
thể hiện. Bố cục là sự sắp xếp, sắp đặt các yếu tố của nghệ thuật tạo hình sao cho
hợp lý và đẹp mắt.
Nói cách khác, bố cục là phương pháp rèn luyện cả bằng nhận thức và trong
thực hành của sinh viên mỹ thuật là phương pháp làm việc tổng hòa các yếu tố như
đường nét, hình thể, đậm nhạt, màu sắc, chất cảm,…tìm ra một giải pháp tối ưu cho
bức tranh. Bố cục còn gọi là sự tìm tòi, xác định một hình thức biểu đạt thích hợp
nhất cho một nội dung tranh có trong ý tưởng của tác giả. Quá trình này vừa là
quá trình làm việc, vừa là quá trình nghiên cứu, thể nghiệm và sáng tạo.
Bố cục còn được hiểu là sự sắp xếp các ngôn ngữ tạo hình bao gồm: Đ ường
nét, màu sắc, hình khối theo một trật tự logíc được tạo trên không gian, mặt phẳng.
Tuỳ thuôc vào mỗi loại hình Nghệ thuật mà có những cách thức bố cục khác nhau.
2
- Hội họa diễn tả không gian ba chiều trên mặt phẳng hai chi ều. Nói nh ư v ậy
không có nghĩa là không gian ước lệ của hội họa phương đông, không tả chiều sâu
khối tích thì không gọi là hội họa mà ở đây là do những quan niệm tạo hình khác
nhau. Với người Phương Tây thì thiên nhiều về “ Tả”, là tả thực. Điều này thấy rất
rõ trong lịch sử Mỹ thuật Phương Tây. Còn với hội họa Phương Đông lại với quan
niệm “Gợi” chứ không “Tả”, và là Gợi cái gì? Đó là gợi cái thần, cái hồn, cái tình
trong tranh. Vậy nên nhìn vào một tác phẩm hội họa Phương đông không thể lấy tiêu
chí của hội họa Phương tây để nhận xét, không phải để xem họa sỹ tả khối, tả chất,
tả ánh sáng, không gian hay tả màu sắc như thế nào mà ở đó nó thuần túy về tinh
thần, là vũ trụ quan, thế giới quan, nhân sinh quan của họa gia lồng trong đó.. Hai
quan điểm về nghệ thuật không giống nhau dẫn đến cách xây dựng tác phẩm hội
họa cũng khác nhau bởi vì thế xây dựng một bố cục cũng không giống nhau. Với hội
họa Phương tây từ ký họa, phác thảo đến xây dựng hoàn thiện tác phẩm là một tr ật
tự nhất định, nhưng đối với họa gia Trung Quốc, Nhật Bản không cần phải như vậy.
Sự tích luỹ sẽ tạo điều kiện cho sáng tạo bố cục mà không cần phác thảo. Nó vẫn là
một quá trình làm việc từ tiệm tiến đến đột biến và thông qua thị giác trực tiếp. Đó
là cách nghiên cứu của Từ Bi Hồng khi vẽ ngựa.
3
- Tranh ngựa của Từ Bi Hồng
2. Những yếu tố cơ bản trong bố cục tranh
2.1. Ý tưởng
Người vẽ vốn có thị giác nhạy cảm, không phải đối với những thông tin thông
báo mà chủ yếu là những thông tin thẩm mỹ, tức là cái đẹp. Do thị giác đem lại và có
những kích thích, những rung động hay còn gọi là những cảm hứng, nhạy bén với
thông tin thẩm mỹ và nhẹ hơn với thông tin lý trí. Nói cho đúng thì bất kỳ ở đâu, lúc
nào, đối với người vẽ cũng có thể phát hiện những ý vị hài hòa của thiên nhiên và
cuộc sống từ đó nảy sinh trong họ nguồn hứng khởi trực tiếp với đối tượng ghi nhận
được. Nhờ tiếp xúc nhiều lần những thứ đó nguồn cảm hứng sẽ đi vào trí nhớ. Từ
những kích thích ban đầu của thị giác và những cảm hứng, họ có nhiều diễn biến tâm
lý khác nhau do cá tính, do có liên tưởng họ sẽ có mong muốn được tái hiện bằng các
yếu tố tạo hình hoặc ở hình nét, màu sắc hoặc ở ánh sáng, không gian hay ở nhịp
điệu cấu trúc … ý đồ để nảy sinh nguồn hứng khởi là những điều vô cùng phong phú
đa dạng, nhưng chắc chắn rằng, người ta đã chấp nhận những khó khăn và trăn trở.
Chúng ta biết có rất nhiều bố cục đã được hình thành rất mau lẹ trong những giây
phút nổi hứng của người họa sĩ .Trong sáng tạo nghệ thuật ở bất cứ loại hình nào,
sự cảm nhận trước thiên nhiên, cuộc sống và con người là điều kiện tiên quyết cho
sự ra đời của tác phẩm. Thông qua các giác quan, người ta cảm nhận được thế giới
4
- bên ngoài. Sự cảm nhận này tác động vào con người từ thiên nhiên, cuộc sống và xã
hội. Nó được bắt nguồn từ một cảm xúc hoặc từ một kích thích nào đó. Có nó cũng
xuất phát từ một câu chuyện, một giai thoại, tình huống có sẵn hay từ s ự v ận d ụng
có sẵn, suy nghĩ và suy luận liên hệ bản thân từ mỗi con người trước hiện tượng sự
vật đó. Những cảm nhận này được xuất hiện hình thành từ nhu cầu sáng tạo, từ tác
động của tư duy tình cảm và tinh thần của người vẽ.
2.2. Hình mảng và đậm nhạt
Nghệ thuật hội hoạ là một nghệ thuật mặt phẳng vì trên đó chứa đựng toàn
bộ tất cả mọi hiệu quả mô tả. Giữa các hình thể có các mối liên hệ tương tác rất
phong phú. Mối liên hệ này thực ra không đơn giản, chúng có những mối liên hệ với
nhau với góp phần vào sự hoàn thiện của tác phẩm. Mối quan hệ tương tác giữa các
hình mảng dẫn đến những tác động thị giác, hiệu quả không gian thậm chí là c ả
những tác động đến tâm sinh lý của con người. Về mặt thực tiễn, bất cứ hoạ sĩ nào
từ xưa đến nay đều phải xây dựng mối quan hệ các hình mảng và đậm nhạt để xây
dựng tác phẩm nghệ thuật. ở mỗi hoạ sĩ đều có cách thức sáng tạo riêng. Có thể nói
lịch sử hội hoạ là lịch sử của các trào lưu, các khuynh hướng tìm tòi khả năng biểu
đạt của hội hoạ. Đến nay các hình thức phối kết hợp các yếu tố tạo hình đã hết sức
đa dạng và phong phú.
Đầu tiên con người nhận thức cảm xúc thẩm mỹ thông qua hình ảnh được
truyền tải qua kênh thị giác. Hình biểu hiện một thông tin nhận thức về sự vật c ụ
thể. Người ta biểu hiện hình thể và đặc điểm của sự vật rất rõ nét có thể nói là rất
hiện thực. Đây là biểu thị sự quan sát và ghi nhớ hình thể có chú tâm và đ ầu t ư trí
nhớ về hình dạng. Hình trong hội họa mang tính tổng hợp nhiều yếu tố tạo hình.
Hình cảm nhận qua thị giác mang ý nghĩa cái nhìn cụ thể, hình cơ bản mang ý nghĩa
khái quát biểu trưng, hình nhịp điệu phản ánh tính quy luật của tự nhiên, hình c ấu
trúc mang lý trí con người, hình động thể hiện cái động và cái quy luật cân xứng - hài
hòa. Hình biểu đạt được rõ nét ý niệm của người vẽ, đồng thời nó biểu hiện cả ý
niệm cảm xúc, sáng tạo thẩm mỹ và cá tính riêng và khí chất của cá nhân nữa. Về
phương pháp tổ hợp hình có hai loại mang hai khuynh hướng khác nhau:
Thứ nhất là khuynh hướng phản ánh cái nhìn hiện thực. Hình là hình ảnh khái
quát hiện thực nhưng được thể hiện một cách biểu cảm hơn, sâu sắc hơn, thẩm mỹ
hơn và có cá tính hơn.
Thứ hai là khuynh phản ánh trí tưởng tượng, phản ánh giấc mơ, cảm giác, tâm
trạng, lý trí, tư tưởng, hoặc ý niệm siêu thực và trừu tượng của con người. Loại này
thường chỉ lấy một phần cái nhìn thị giác còn phần lớn phản ánh tư duy. Về phong
cách hình có bốn loại:
- Thiên về cấu trúc cân xứng ngang bằng xổ thẳng
5
- - Thiên về cái động, cái nhịp điệu, cái liên tục
- Thiên về cái kỳ lạ, quái dị lạ mắt
- Thiên về cái đẹp mang tính trang trí.
Như vậy có nhiều xu hướng khác nhau với sự biểu hiện khác nhau của hình
nhưng tất cả đều mang một đặc điểm chung là để người xem cảm nhận được ý đồ
sáng tạo của họa sỹ và nó cũng biểu đạt một khuynh hướng cấu tạo nên hình.
Mảng là sự ghép nối giữa hai hoặc nhiều loại hình với nhau. Một mảng có vẻ
đẹp của nhiều loại hình, nó có chu vi không gợi rõ một hình mà chứa trong nó r ất
nhiều hình, nhiều cấu trúc đường nét đậm nhạt, màu sắc, chất cảm, đặc- rỗng, mật
độ dày đặc hay thưa thớt. Từ nét và hình trong tranh người ta có thể bố trí một mảng
hoặc nhiều mảng xen kẽ là các khoảng trống. Trong mỗi mảng chứa đựng nhiều
người, từ đó xem suy ra ý nghĩa phản ánh của ý tưởng tác giả thông qua hình thể
nhiều loại và cả các yếu tố tạo hình khác được tổ hợp vào mảng mà thấu hiểu. Trên
bề mặt của mảng người ta có thể sử dụng đậm, nhạt, màu sắc nhất là các tổ hợp
nét. Ta cảm nhận được giá trị biểu đạt của ngôn ngữ trên mảng không chỉ có những
nét độc lập mà còn là sự liên kết của cả một hệ thống nét trên mảng, nét còn t ạo ra
những hướng chuyển động trên mảng như tranh sóng của Nhật Bản. Hay tranh của
Vangoth vẽ mây trên bầu trời đêm, nét đã tạo cho cả bầu trời trình tự đang chuyển
động. Trong tranh của Paul Kilee và Mondriau sự cân bằng của mảng và màu được
nét đóng khung tạo sự cân bằng ổn định. Tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ mảng màu
tuy thay đổi đậm nhạt theo không gian xa gần và khối, nhưng nó đã được hệ thống
nét làm rõ hình chi tiết và cả sự ổn định trên mặt tranh.
2.3. Hình tượng
Hình tượng trong sáng tác được xây dựng bởi sự quan tâm của người vẽ.
Không như ở hình nghiên cứu mà nó phải tổ chức trong một kết cấu hoàn toàn mới
nhưng dựa trên cơ sở hình nghiên cứu, những tư liệu ghi chép từ thực tế mà người
vẽ đã khai thác hình tượng đưa vào tranh là hình được xây dựng trên sự cô đọng nhất
của hình nghiên cứu. Nó không còn giống hoàn toàn như hình ghi chép mặc dù cả hai
cùng sử dụng phương tiện tạo hình. Hình tượng đưa vào sáng tác tranh là sự kết hợp
giữa hình có thật và hình trong tư duy của người vẽ, giữa hình nhìn thấy và hình
trong đầu (tưởng tượng, ý niệm, hình bằng trí nhớ …) để làm cho hai cái đó hòa hợp
thì người vẽ trải qua quá trình suy ngẫm và tìm tòi để sáng tạo. Từ hình tưởng tượng
trong ý thức của người vẽ được thể hiện dần ngày càng rõ nét cụ thể … trở thành
cái mà người ta có thể cảm thấy được. Vì vậy hình tượng nghệ thuật vừa có cái thực
vừa có cái hư cấu của người vẽ. Sự cần thiết đầu tiên cho người vẽ là cần phải
thông qua một hình thể để đi tới sự biểu hiện của cảm giác, của tình cảm, ý thức,
quan niệm, tư tưởng sáng tạo của mình qua hình tượng đó. Chính vì vậy hình tượng
6
- vừa là nội dung lại vừa là hình thức của tác phẩm nghệ thuật. Nó vừa là cái riêng của
người họa sỹ nhưng phảI khái quát được cả cái chung của xã hội, có như vậy hình
tượng đó mới có được sức sống lâu dài. Để làm được điều đó việc đ ầu tiên c ủa
người vẽ là sự kích thích, xúc cảm thị giác tiếp theo là tình cảm và tài năng sáng tạo
của người vẽ. Những yếu tố có thật tưởng như rời rạc trong cuộc sống khi đ ược
đưa vào tranh như đưa vào trong một cái lò lớn phức tạp chịu sự điều tiết của người
vẽ với những: nét, mảng, hình, màu sắc, chất cảm … luôn luôn thay đổi đ ược xây
dựng bởi hàng nghìn cách khác nhau để trở thành hình tượng nghệ thuật.
Những nghiên cứu của người vẽ trở thành hình tượng nghệ thuật ví dụ khi vẽ
chân dung, tĩnh vật trở thành một tác phẩm những hình tượng nghệ thuật mang giá trị
nghệ thuật. Người vẽ đã khái quát, điển hình hơn được hình tượng. Nó vượt qua sự
nghiên cứu cơ bản, ghi chép thật như bức tranh Lagiocong của Léoner de vinci.
Nhưng để đạt được như vậy thì trước đó người vẽ phải nghiên cứu nhiều, nắm
vững được phép cơ bản của hội họa. Tóm lại hình tượng nghệ thuật được xây dựng
theo ý tưởng của người vẽ về cuộc sống và con người tạo vật hình thể là sự kết hợp
một hoặc nhiều các loại hình nghiên cứu của người vẽ phải học tập, thấu hiểu
thuần thục để làm cơ sở cho việc sáng tạo ra hình tượng nghệ thuật. Từ những loại
hình nghiên cứu:
- Hình thị giác (hình họa, con người, tạo vật, thiên nhiên …).
- Hình tư duy, hình khái quát, kỷ hà
- Hình chuyển động - tĩnh.
- Hình của trí tưởng tượng.
- Hình thẩm mỹ trang trí
Người vẽ phải nắm vững các chức năng, ngôn ngữ của các hình nghiên cứu
cơ bản mới có thể tổ hợp thành hình tượng nghệ thuật.
Hình tượng nghệ thuật có vai trò rất quan trọng trong việc sáng tạo và xây
dựng tác phẩm nghệ thuật. Trong quá trình phát triển của nghệ thuật, việc xây dựng
hình tượng nghệ thuật, cách thức xây dựng hình tượng nghệ thuật của mỗi thời kỳ,
giai đoạn và các vùng địa văn hoá có những nét đặc trưng khác nhau. Thông qua sáng
tác của mình người nghệ sĩ càng truyền đạt đườc nhiều và đầy đủ thời đại của mình
bao nhiêu, sự cảm thụ cuộc sống, cá tính của hoạ sĩ càng xúc tích, phong phú và lớn
lao bấy nhiêu. Sự kết hợp nhiều yếu tố, sự hài hoà cái chung với cái riêng độc đáo
trong nghệ thuật gọi là điển hình hoá là một điều kiện thiết yếu nhất định phải có
để tạo nên hình tượng nghệ thuật.
2.4. Đường nét và nhịp điệu
Nét biểu hiện một khối bằng ranh giới của khối đó với xung quanh, nét mặt
phẳng hóa các khối. Có lúc nét triệt tiêu hoàn toàn ấn tượng về khối. Như vậy người
7
- ta có thể vẽ bằng cách biểu thị ranh giới của các sự vật trước hết nối một cái nền
trung gian là mặt phẳng sau là ranh giới của vật đó với vật khác. Đây là một cách
chuyển hóa tất cả các thu nhận thị giác, ấn tượng thị giác đưa hình khối thành đường
nét đặc trưng, xúc tích, khai thác triệt để những đặc thù của sự vật đạt những hiệu
quả theo ý đồ sáng tạo. Nghệ sĩ Ai Cập diễn tả các nhân vật bằng đường viền uyển
chuyển và sự kết hợp cái nhìn ở các diện khác nhau, trên một mặt phẳng. Thân
người trên một mặt phẳng được nhìn đồng thời ở ba góc độ nhìn khác nhau, đ ầu và
chân tay vẽ theo hướng nghiêng trong khi mắt, ngực tả hướng chính diện, bụng và
hông vẽ nghiêng 3/4. Mỗi bộ phận của cơ thể được miêu tả bằng những nét đại
cương nhất về hình thái. Không phải diễn tả bằng một điểm nhìn thông thường của
quy luật thị giác, bằng phương pháp kết hợp nhiều điểm nhìn trên cùng một đối
tượng nhưng nhờ sự biểu đạt của nét hình tượng trong tranh không bị phi lý mà
ngược lại nó còn tạo ra một hình ảnh trọn vẹn và đầy đủ hơn, vẫn hài hoà với thị
giác thông thường của người xem.
Săn chim, bích hoạ Ai Cập cổ đại
Đường nét trong một bức tranh đôi khi hiện ra mạnh mẽ, rõ ràng như trong các
tác phẩm của Gau Giun, Matisse … Cũng có khi nét ẩn biến đi chỉ còn là gi ới hạn
giữa sự vật với không gian như phong cách ấn tượng, khi đó trên bức tranh chỉ còn là
những nhát bút ngẫu hứng đầy sức biểu cảm.
8
- Hai thiếu nữ bên bờ biển. 1891, tranh sơn dầu của Gauguin
Cô gái cầm ô. 1875, tranh sơn dầu của Monet
Trong các tác phẩm tạo hình, ngoài vấn đề nét mô tả hình thù đối tượng của
thị giác mà còn thể hiện sự chuyển động, diễn đạt không gian sáng tối, diễn tả chất
của nét. Tổ hợp lại là tính biểu cảm của nét đạt đến cái đẹp thẩm mỹ và thể hiện rõ
ý đồ tư tưởng của một bức tranh. Từ những tính chất của nét, người vẽ luôn tìm đến
một phương pháp biểu tả, biểu cảm phù hợp với đối tượng nhân vật trong tác phẩm.
9
- Thông qua các tính chất của đường nét đối với cảm nhận của thị giác chúng ta th ấy
rõ sự phong phú đa dạng của sự biểu cảm của đường nét. Do vậy, nghệ thuật luôn
vươn tới cái đẹp khó nắm bắt và người vẽ luôn đi tìm cho mình một bút pháp riêng
trong các ngôn ngữ tạo hình.
Khi vẽ tranh, người vẽ bao giờ cũng phác qua ý đồ bố cục của mình là đường
nét. Vì vậy đường nét là sự khởi thủ là phần cốt lõi cho một bức tranh. Đường nét
không những mô tả được hình thức, không gian tạo chất mà còn diễn tả được sự vận
động hay tĩnh tại của một sự vật. Cao hơn còn biểu đạt được trạng thái tình c ảm
của con người đối với sự vật, khái quát hóa, sáng tạo nên hình tượng trang sức biểu
cảm tạo nên giá trị thẩm mỹ nghệ thuật. Đường nét có cuộc sống lâu dài và r ộng
khắp trong thế giới tạo hình. Từ các tác phẩm nguyên thủy trong hang, trên đá đến
hội họa cổ điển hay trừu tượng, tranh kiến trúc và rõ rệt nhất là trong đồ họa. Trong
tranh dân gian nước ta, nét được sử dụng với một khả năng phong phú nhằm diễn
hình, tả khối, tạo các đường chu vi giới hạn các mảng có tính khái quát cao và là nòng
cốt trong cấu trúc hình thể. Nét đen to khoẻ có khả năng làm vai trò trung gian cho
màu sắc hài hòa mà không bị khô cứng. Bên cạnh những nét mảnh mềm bay bướm,
diễn tả từng chi tiết, mô tả cách điệu sự vật làm các bức tranh phong phú sinh động.
Như bức "gà đàn”, “đấu vật”, “lợn ăn lá dáy” … Tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ
thể hiện bằng lối vẽ mang tính chất ước lệ, khái quát cao. Từ lối vẽ nhập tâm (trí
nhớ và quen tay) xây dựng hình thể cho một bức tranh, nó không phụ thuộc vào thời
gian, địa điểm sự kiện, tự do xử lý các hình thức bố cục. Đường nét trong tranh mộc
mạc, khoẻ khoắn, phong cách vẽ rõ ràng mạch lạc, dễ xem, dễ hiểu, màu sắc rực rỡ,
tương phản vui mắt, hấp dẫn người xem. Đó chính là tài năng sáng tạo của các nghệ
nhân xưa.
Tranh khắc gỗ của Utamaro
10
- 2.5. Màu sắc
Màu sắc được xem là một trong những yếu tố cấu thành ngôn ngữ hội
họa từ khi những chất liệu có màu được chế tạo và sử dụng vào việc vẽ tranh.
Không chỉ vậy, chất màu còn được dùng để trang hoàng đủ loại vật phẩm do con
người làm ra, tuy khác biệt với thiên nhiên nhưng không mâu thuẫn mà ngược lại còn
rất hòa hợp với thiên nhiên. Chất liệu màu chỉ tương ứng chứ không tương đồng với
màu sắc tự nhiên nhưng đối với cảm nhận thị giác thì việc xử lý vẫn không ra ngoài
tự nhiên. Vì vậy sự tìm hiểu quy luật đó là cần thiết đối với bất kỳ công việc nào
liên quan đến màu sắc. Vấn đề có thể nhìn từ nhiều góc độ và kết quả ghi nhận ở
mỗi góc độ khác: khoa học xác nhận rằng ánh sáng và các vật thể đều vô sắc nhưng
vẫn cho thấy có màu là do tác dụng kết hợp giữa quang học và thị giác, gọi là hiệu
ứng quang sinh lý. Con mắt thế gian lại coi màu sắc là thuộc tính vật thể liên kết với
hình dáng, giúp ta phân biệt vật này với vật kia. Còn đối với hội họa thì màu sắc là
nhân tố biểu hiện tình cảm về vẻ đẹp của không gian và hình thể, trong cuộc sống
cũng như trong tác phẩm. Dưới góc độ hội hoạ thì sắc và màu được ghép chung trong
khái niệm màu sắc một trong những biểu hiện bên ngoài làm rõ thêm đ ặc điểm c ủa
mỗi vật thể. Điều đáng ghi nhận là màu sắc không sẵn có mà được sinh ra từ vô sắc.
Khoa học đã giải thích rằng: ánh sáng vốn trong suốt và không màu, khi va đ ập vào
bề mặt vật thể rồi truyền tới mắt ta sẽ gây một hiệu ứng là hiệu ứng quang sinh lý
khiến cái vô sắc thành hữu sắc. Vì vậy, chỉ những đối tượng được chiếu sáng mới
thật sự có ý nghĩa trong việc chuyển hóa các giải sóng ánh sáng thành màu sắc. Sự
hiển thị của tất cả các màu thực chất là kết quả pha trộn hết sức kỳ diệu từ ba màu
gốc phát sinh do hiệu ứng quang sinh lý là lam, lục, đỏ. Nói chính xác hơn là ba màu
này kết hợp với ánh sáng và tức thì trong không gian vẫn tồn tại những bộ phận hấp
thụ ánh sáng như các khoảng đen tạo vùng tối và những bộ phận để ánh sáng truyền
qua, không gây va đập nên không phản xạ tới mắt như các vật trong suốt và khoảng
không. Vì sự kết hợp đó mà toàn thể không gian được lấp đầy màu sắc mà nhờ vậy
mà các màu đi với nhau trong quan hệ nào cũng được điều chỉnh để đi đ ến hòa hợp.
Màu sắc đem lại cho con người những cảm giác và cảm nhận hết sức phong phú về
thiên nhiên và còn phát hiện nhiều thi vị của cuộc sống. Có hai tác đ ộng chính c ủa
màu sắc với cơ thể con người đó là tác động về tâm lý và sinh lý. Những phản ứng
về mặt tư duy, nhận thức khiến ta có những biến đổi về trạng thái tình cảm như vui,
buồn … khi bị màu sắc tác động. Nói chung những màu tươi thường có tác dụng kích
thích, hưng phấn, tạo nên sự vui vẻ náo nhiệt do đó nó hay có mặt trong các cuộc vui
như cưới hỏi, tiệc tùng. Những màu dịu đem lại sự thư giãn, nhẹ nhàng, thoải mái.
Những màu trầm, tối thường đi với tâm trạng u uất, buồn chán, song đôi khi cũng
thích hợp với nếp tư duy sâu lặng và thanh tao. Về sinh lý là những phản ứng sinh
11
- học của cơ thể khi tiếp nhận màu như nóng bức, mát mẻ, sảng khoái hay mệt mỏi.
Những phản ứng này hoàn toàn giống nhau đối với tất cả mọi người.
Cá vàng. 1911, sơn dầu của Matisse
Màu sắc luôn là ngôn ngữ quan trọng trong phương thức biểu đạt của hội họa,
người ta còn gọi hội họa là nghệ thuật của màu sắc. Nếu hình thể gắn nhiều với lý
trí thì màu sắc là tiếng nói của trái tim. Ngoài ra, ý nghĩa của màu sắc trong h ội h ọa
còn là sự tổng hợp các đặc tính của nó qua nhiều lĩnh vực: triết học, khoa học, tâm lý
học và cả tâm linh. Vì vậy nó có một vai trò quan trọng trong việc mô t ả th ế gi ới
khách quan, thể hiện nội dung đề tài và bộc lộ tình cảm của tác giả. Như vậy đ ể
đánh giá hiệu quả của yếu tố màu sắc trong hội họa phải là sự tổng hoà của nhiều
lĩnh vực khác nhau mới có thể cảm nhận đầy đủ và trọn vẹn về nó.
Khi mô tả sự vật trên mặt phẳng, người vẽ không thể không chú ý tới việc
nắm bắt và tái hiện mọi thuộc tính của nó như hình khối, màu sắc, đ ường nét. Màu
sắc ngoài việc lột tả hay gợi tả đối tượng cho chính xác thì nó còn có tác dụng tăng
hiệu quả thẩm mỹ. Nếu thiếu màu thì dường như bức tranh không thỏa mãn mắt
nhìn, khi thông tin truyền đạt đầy đủ thì giá trị biểu cảm cũng có tác dụng hơn. Màu
sắc trong thiên nhiên tuy đẹp nhưng không thể đưa y nguyên vào tranh được mà
chúng ta phải biến hóa chúng và phải đặt chúng trong một quan hệ khác. Tả đ ược
đúng màu sắc của sự vật là tốt và tăng sự biểu cảm nhưng khi đưa vào tranh ta phải
đặt trong một tương quan. Có những màu nếu để nguyên gốc mà đưa lên tranh thì
không đạt, mặc dù trong thực tế thì đối tượng chính là màu đó. Người ta ph ải pha
thêm bớt nhiều màu khác thì mới ra được. Có thể căn cứ vào điều đó đ ể biết người
nào là nghiệp dư. Màu lục của thiên nhiên rất đẹp đó là xanh lá cây, màu xanh của
cây cỏ, đồng lúa … nhưng khi đưa vào tranh mà giữ nguyên màu lục thì lại không ra,
12
- trông rất giả tạo. Kinh nghiệm khi tả cây cối, tỉ lệ các màu khác chiếm nhiều hơn, ví
dụ đỏ, vàng đất, nâu là những màu luôn xuất hiện xen kẽ cạnh màu lục. Thậm chí
không dùng màu lục nguyên gốc mà lại pha từ những màu khác như vàng và lam,
vàng đất và lơ … thì mới ra màu của cây cỏ hợp lý đ ưa lên tranh. Đi ều đó ch ứng t ỏ
sự biến hóa tinh tế của màu sắc trên tranh. Ngoài ra còn là sự thêm bớt các yếu tố khi
đưa vào tranh. Khả năng thêm bớt, gia giảm, biến hóa thể hiện được trình độ, khả
năng cảm thụ về màu của người vẽ. Trên bức tranh người vẽ phải có được sự chủ
động tới các yếu tố như hình khối, đường nét và màu sắc. Mối quan hệ mật thi ết
giữa hình và màu bổ sung hỗ trợ cho nhau.
Hiên nhà ở Sainte – Adresse. 1867, sơn dầu của Monet
Trong học tập và nghiên cứu khả năng màu sắc còn phụ thuộc vào thể trạng
của từng người, hay còn gọi là tạng. Có những người có năng khiếu đ ặc b iệt về
một mặt này song lại yếu kém ở mặt kia. Trong việc xử lý màu sắc ta có thể phân ra
làm 3 loại:
Một là, dạng có khả năng chép lại từ mặt phẳng thích hợp việc chép tranh. Có
thể chép chính xác màu từ một phác thảo, bức tranh.
Hai là, dạng có khả năng chép được màu từ không gian và mặt phẳng. Có thể
vẽ trực tiếp với các đối tượng xung quanh. Dạng này có thể sao chép đúng màu từ
thiên nhiên, thích hợp với phong cách hiện thực.
Ba là, dạng không có khả năng sao chép một cách chính xác đối tượng từ
không gian cũng như trên mặt phẳng. Thích hợp cho việc sáng tác tự do, theo các
khuynh hướng cách tân như biểu hiện trừu tượng …
Đó là tạng của mỗi cá nhân đã có từ khi chưa được đào tạo chính quy. Còn đối
với người đã đi học phải rèn luyện để đủ được cả 3 khả năng trên. Đ ể rèn luy ện
được đủ 3 khả năng trên đòi hỏi phải học nghiêm túc theo chương trình các bài tập từ
dễ đến khó của môn trang trí và môn bố cục.
13
- Nghệ thuật hội họa không thể thiếu màu sắc, đó là nơi người vẽ xây dựng tác
phẩm qua sự rung động của tâm hôn. Màu sắc biến hóa khôn lường trước sự vận
động của cuộc sống. Người vẽ trong sự sáng tạo của mình có thể gây tác động tích
cực tới mọi người thông qua màu sắc. Màu giúp người vẽ truyền tải đ ược tâm tư
tình cảm cũng như các yếu tố thẩm mỹ, tư tưởng, tư duy, nó cũng là sợi dây kết nối
giữa tác giả và người thưởng thức tranh. Màu sắc là cái đẹp mang tính tr ực cảm đ ể
khán giả có thể cảm thụ một cách tức thời. Lịch sử hội hoạ đôI khi là l ịch s ử c ủa
những phương thức biểu đạt màu sắc, nó giúp hội họa ngày càng phong phú và đa
dạng.
3. Quan hệ giữa nội dung và hình thức
Những nội dung cụ thể của tự nhiên, cuộc sống kể không hết, chúng ta có thể
khai thác và phản ánh thường xuyên trong nghệ thuật bằng nhịp điệu uyên nguyên
của tiềm thức và bằng tính “người” được khắc nét in sâu. Ai biết được từ bao giờ
cái nhịp điệu tuần hoàn của vũ trụ xuân-hạ-thu-đông…nhịp nhân sinh: khóc, cười, hít,
thở…đã thấm sâu vào tâm hồn chúng ta để biến nhịp sống nhân gian thành những
sáng tạo nghệ thuật.
Trên thực tế, nhịp sống sôi động cuốn chúng ta đi trăm ngả, nghệ sĩ chắt l ọc
những ngả đường xúc cảm để dẫn dắt người thưởng thức tìm lại chính nét bình dị
vốn có của của sống với những xúc cảm, nhận thức phong phú gần gũi với chính
mình. Để phản ánh cái nhịp điệu muôn màu của cuộc sống, với nghệ thuật tạo hình
dựa vào sức biểu hiện qua các ngôn ngữ của nó. Mà trước tiên với người vẽ phải tìm
được các tuyến cho hình thể, có nghĩa là tìm cho được những hình mang ý nghĩa khái
quát nhất: cong, tròn hay lượn sóng, đường xoắn v.v., để tạo cái chục chính cho bức
vẽ giống như cái sống lưng nâng đỡ mỗi cơ thể con người. Mỗi một hình khái quát
đó, có thông điệp riêng của nó. Ví dụ vẽ một nét cong trong một bức tranh, có thể nó
là sự ghi nhận các dáng của hình thể con người. Nhưng cũng có khi nó là s ự mãnh
liệt của nét bút, đường bay. Hay nó biểu hiện sự thoát ly, không bị ràng buộc vào
cuộc sống thường nhật trong một cấu trúc bằng đường cong phóng khoáng và mãnh
liệt.
Nội dung và hình thức là một mối quan hệ hữu cơ mang tính tiềm ẩn của mỗi
tác phẩm nghệ thuật, mỗi một hình thức đưa ra một nội dung cụ thể. Ví dụ như khi
ta vẽ một bông hoa, bằng phương pháp tả thực ta có thể cho người xem thấy đ ược
toàn bộ cái đẹp tự nhiên của bông hoa đó, thậm chí là xúc cảm hơn. Nhưng khi ta
diễn tả nó bằng những hình kỷ hà , xây dựng nên một cấu trúc khúc triết, vững chãi,
khoẻ khoắn, màu sắc chắc mạnh thì lại tạo được thẩm mỹ với hiệu quả bất ngờ.
Khi đặt các các hình vẽ vào bố cục trong một tác phẩm, người vẽ xác định ví
trí các vật thể, đối tượng tạo hình trong những tương quan thuận mắt, hợp lý và hiệu
14
- quả thẩm mỹ đạt được chính nhờ những mối quan hệ giao đãi giữa vật, hình và màu
sắc…tạo nên những không gian tạo hình mới. Nghệ thuật không thể che đậy mà
phải phơi bầy cái nội dung thật trong cấu trúc hình thể trong bố cục bởi cái tương
quan cứng mềm, hư thực, cái khéo léo hay hồn nhiên, lý trí hày tình cảm , cái tr ực
giác hay dục vọng, cái phân tích hay tổng hợp…vì lẽ đó mới phát sinh ra các xu
hướng trào lưu nghệ thuật mới như Đa Đa, Vị Lai, Dã thú, Lập thể, Siêu thực…
Bố cục còn mang tính tượng trưng, là tổ hợp của những cái đẹp và những
quan niệm của người vẽ về thế giới, vũ trụ nhân sinh và hơn hết là xúc cảm thâm
mỹ đẹp, mới lạ và thân quen; cũng có khi là ánh sáng, có khi là sắc độ và nhiều y ếu
tố khác cấu thành.
Tác phẩm “Người ném đĩa” Mi-rông được tạo hình ngay từ thời Hy Lạp cổ
đại đã thể hiện nét hiện đại trong bố cục. Nó được tạo lập từ sự hữu hình trong
dáng thế chuẩn bị ném đĩa với đường lực vô hình của động tác tay và ném đĩa trên
một đường tròn khép kín. Sự phối hợp giữa không và có trên một quỹ đạo tròn, tạo
cho thị giác sự liên tưởng tiếp diễn giữa cái cụ thể và cái chuyển động trong vô hình
của lực làm cho bố cục của tượng gây sự sinh động, nhịp nhàng của vẻ đẹp cơ thể
người ném đĩa. Mi-rông là một trong những nghệ sĩ đầu tiên của Hy Lạp đã đạt đến
trình độ tinh xảo của nghệ thuật.
4.2. Bố cục hình tam giác
Nếu như Kim tự tháp Ai cập được tạo dựng để biểu thị sự vững bền lý
tưởng, có lẽ nó cũng là ý niệm về sự vững bền được tạo dựng dựa trên s ự th ấu
hiểu quan hệ, thiên địa nhân mà các kiến trúc sư thời cổ đại để lại trong Kim Tự
Tháp:
Quy luật xây dựng khoa học
Quy luật ướp xác
Sự nhận biết về các nguyên lý hoá học, vật lý, địa lý, sức bền vật liệu…
Tác phẩm “Thần tự do trên chiến luỹ”- Delacroa là một dạng bố cục khá đông
người, nhưng nếu nhìn tổng thể ta thấy bố cục trong dạng hình tam giác mà đỉnh và
cách tay và lá cờ Pháp quốc đựơc người thiếu nữ tượng trưng cho cách mạng Pháp
(đẹp- dũng cảm- hào hùng).
“Thần tự do trên chiến luỹ”, tranh sơn dầu của Delacroa
Qua bức tranh ta thấy cả sự vận động, ý chí sự phấn đấu như được vực dậy
và dẫn dắt bởi hình ảnh người phụ nữ, biểu tượng cho thần Tự do, tay dương cao
15
- ngọn cờ ba màu, tượng trưng cho tự do - bình đẳng - bắc ái, lá cờ và người phụ n ữ
được đặt ở vị trí trung tâm và cao nhất, hai bên là các chiến sĩ đấu tranh cho cách
mạng Pháp đang xông lên, các hình thể được sắp xếp theo hình mũi tên mà đỉnh là Nữ
thần Tự do, cùng các chi tiết hình thể diễn tả sự chuyển động đã tạo cho bức tranh
một nhịp điệu mạnh mẽ. Đối nghịch với xu thế đi lên của Nữ thần Tự do và các
chiến sĩ cách mạng là hình ảnh những xác người nằm la liệt, phía xa là mảng tường
thành bị phá, những cuộn khói súng mù mịt phía sau lđã làm bức tranh có không khí
chiến đấu ác liệt, thể hiện được sức mạnh tinh thần mà "Tự do - bình đẳng - bác ái"
đem lại cho nhân dân Pháp và vì nó người ta sẵn sàng chiến đấu hy sinh. Cách bố cục
đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn, màu sắc tương phản. Với sự mạnh mẽ trong một
hiện thực phi thường. Delacroix đã đặt niềm tin vào tương lai của những người khởi
nghĩa đang chiến đấu và sẽ chiến thắng.
4.3. Bố cục hình chữ nhật và các dạng bố cục khác
Bố cục theo hình vuông, hình chữ nhật được các nghệ sĩ sử dụng sắp xếp hình
thể đồng dạng vào tranh. Nó vừa có tính chất nhắc lại cái tính khái quát của khuôn
hình tranh vừa mang ý nghĩa nhấn đậm thêm cho tính chất tổ chức của con người. Nó
có tôn ti trật tự, có trên dưới, phải trái, ngay thẳng, cân bằng. Nó phù hợp với các
loại đề tài, đề cao tính tổ chức xã hội con người, tính sáng tạo riêng biệt của người,
tính nhân văn.
Một tác phẩm nữa của Deineka để lại dấu ấn mạnh là tác phẩm Bảo vệ
Petrograd (1927). Ông đã tạo ra một bố cục chia làm hai tầng rõ rệt, như vậy ông đã
tạo ra hai hình chữ nhật trong tranh. Toàn bộ tuyến người của 2 tầng đều nội tiếp
trong hai hình chữ nhật đó và nó toát lên tính tổ chức, luật lệ chặt chẽ rất phù hợp
với nội dung tư tưởng của tác phẩm. Phần trên của bức tranh - trên cầu, những
người bị thương dìu nhau từ mặt trận trở về, dáng người mệt mỏi, xiêu vẹo như
muốn gục ngã. Các nhóm người ít dần, khoảng cách đơn điệu, dường như số người
sống sót sau các trận đánh ngày càng ít đi. Một sự buồn thảm. Ngược l ại, phía d ưới
cầu, đoàn quân công nông hùng dũng ra trận. Các cây súng trên vai đều tăm tắp gợi
tới tính kỷ luật, khoảng cách giữa các nhóm người và nhịp điệu của cả đoàn người
tạo nên một bản quân hành. Người xem như thể nghe được tiếng bước chân mạnh
mẽ dồn dập của họ. Dáng đi quả quyết như tin vào sứ mệnh của mình. Họ biết rằng
sẽ có hy sinh nhưng tất cả không hề mảy may chùn bước. Deineka đã vẽ các nhân
vật của mình với bút pháp rất khái quát nhưng cũng nhấn mạnh vào một số chi tiết
như bàn tay, khuôn mặt cốt để tăng thêm và bật lên ý đồ. Những hàng chân bước tới
được kéo dài, một chút rõ ràng đã tạo nên sức nặng cho bước chân, không gian như
đầy tuyết trắng tương phản mạnh với những người lính hình đen đậm. Sông Nêva
16
- xaxa - Sự đối lập về bố cục, về tạo hình cộng với hòa sắc đơn giản làm cho b ức
tranh toát lên sự kịch tính rõ rệt.
Ngoài các dạng bố cục cổ điển còn có các dạng Bố cục đối lập; đó là
khuynh hướng đối lập các yếu tố tạo hình: âm- dương; cứng- mềm; cong-
thẳng; đặc- rỗng; tĩnh- động…, bố cục đậm- nhạt- ánh sáng; thay đổi cấu trúc
hình thể; thay đổi hệ thống biểu đạt…Điều đó sẽ được ứng dụng cụ thể trong
những bài tập của năm học thứ 2 và 3.
5. Phương pháp xây dựng bố cục tranh
5.1. Nghiên cứu lựa chọn nội dung chủ đề, tìm ý tưởng bố cục
Nội dung phản ánh trong tranh được các nghệ sỹ tạo hình quan tâm nhiều nhất
là cái đẹp trong cuộc sống. Nó nằm trong quan hệ giữa con người với tự nhiên, con
người với vũ trụ và tôn giáo, cũng như mối quan hệ giữa con người với nhau trong xã
hội, trong một hoạt động để tồn tại và phát triển. Nghiên cứu, lựa chọn nội dung chủ
đề trước khi vẽ một đề tài gì trước hết ta cần có những cảm xúc, những rung đ ộng
nhất định về đề tài đó, tìm được trong nội dung đó những cái đẹp bản chất. Đ ề tài
17
- của tranh thường rất nhiều và rộng. Dù trong một lĩnh vực lớn hay nhỏ mọi khía
cạnh của đề tài đều có thể khai thác được nhiều chi tiết để thể hiện nội dung chủ
đề.
Chủ đề của một bức tranh tức là diễn đạt một vấn đề cụ thể nào đó, thí d ụ
như đề tài về chiến tranh cách mạng có rất nhiều chủ đề nội dung phản ánh thời kỳ
tiền khởi nghĩa, thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, thời kỳ kháng chiến chống
xâm lược Mỹ ... trong đó nói lên những hoạt động của toàn dân ta tham gia kháng
chiến dành độc lập tự do, thống nhất đất nước. Các bậc hoạ sỹ tiền bối có nhiều
bức tranh với những lựa chọn nội dung chủ đề một cách chọn lọc và sâu sắc về đ ề
tài chiến tranh cách mạng như các bức: Du kích La Hai của hoạ sỹ Nguyễn Đỗ Cung,
Nghỉ chân bên đồi của hoạ sỹ Tô Ngọc Vân, Giặc đốt làng tôi hay Kết nạp Đ ảng
ngoài mặt trận của hoạ sỹ Nguyễn Sáng, Gặp gỡ của hoạ sỹ Mai Văn Hiến, Trận
tầm vu của hoạ sỹ Nguyễn Hiêm, Nhớ một chiều Tây Bắc của Phan Kế An hay Cái
bát của họa sỹ Sỹ Ngọc ... và sau này còn nhiều hoạ sỹ vẽ rất thành công đề tài này
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Phân tích bức tranh Cài bát của hoạ sỹ Sỹ Ngọc ta thấy tên tranh là Cái bát
nhưng chủ đề nội dung lại là tình quân dân, cái bát nước chè xanh của bà mẹ miền
quê kháng chiến. Bà mẹ nông dân đứng cạnh tay cầm mũ, tay cầm quạt, quạt cho
chiến sỹ đang uống nước là một hình tượng đẹp. Chủ đề tình quân dân là một chủ
đề được rất nhiều hoạ sỹ lựa chọn ở nhiều khía cạnh khác nhau như trong Giặc đốt
làng tôi, Gặp gỡ, ...
Đề tài sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, nông lâm ngư nghiệp và còn rất
nhiều đề tài khác trong mọi hoạt động xã hội có nhiều chủ đề rất phong phú và sinh
động. Những tác phẩm tiêu biểu theo các đề tài này phải kể đến những bức tranh vẽ
về công nghiệp của Nguyễn Đỗ Cung như Công nhân cơ khí hay bức tranh Tan ca
mời chị em ra họp. Về đề tài nông nghiệp như các bức tranh Tát nước đồng chiêm
của Trần Văn Cẩn, Tổ đổi công cấy lúa của Hoàng Tích Chù, ... và những bức tranh
có chủ đề nội dung về các đề tài trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội, về những cái
đẹp của thiên nhiên, đất nước, con người của các hoạ sỹ như: Nguyễn Gia Trí, Tô
Ngọc Vân, Nguyễn Tiến Chung, Lương Xuân Nhị, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên,
Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Thụ, Huy Oánh, .... và nhiều hoạ sỹ thế hệ sau.
Những nội dung chủ đề theo các đề tài kể trên đã được các hoạ sỹ nghiên cứu
lựa chọn để làm nên những tác phẩm hội họa xuất sắc cho nên Mỹ thuật Việt Nam,
và là những đóng góp quý giá cho lịch sử phát triển nền văn hoá Việt Nam.
5.2. Tìm tư liệu để xây dựng bố cục tranh
Khi đã nghiên cứu lựa chọn nội dung chủ đề và nhất là khi đã có cảm xúc và
hứng thú để vẽ tranh về chủ đề đó, thì yếu tố thứ hai không thể thiếu (đặc biệt đối
18
- với những người đang trong giai đoạn học tập rèn luyện trong các trường lớp ) là tìm
tư liệu để xây dựng bố cục. Tài liệu có ở trong cuộc sống ta cần đến đ ể quan sát ,
tìm hiểu và ghi chép, và có những tư liệu ta đã có sẵn bằng ghi chép ký hoạ hoặc trên
phim ảnh, sách vở, ...Các hoạ sỹ bậc thầy từ thời Phục hưng như Lê-ô-na đơ Vanh-
xi, Ra-pha-en, hay Mi-ken-lăng-giơ dù vẽ các đề tài về Kinh thánh nhưng từ dáng
người, từ khuôn mặt, bàn chân, bàn tay hay các đồ vật, khung cảnh trong nhà, ngoài
trời các ông đều tìm, ghi chép ký hoạ để làm tài liệu xây dựng bố cục một cách chi
tiết và hoàn hảo. Các hoạ sỹ bậc thầy Việt Nam cũng vâjy, ta thấy nhiều ký hoạ
đẹp và kỹ của Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Bùi Xuân Phái, Diệp Minh Châu, Sỹ
Ngọc, ... mà nếu không có tư liệu thì không thể xây dựng được bố cục như vậy.
Ở bức tranh Tát nước đồng chiêm của hoạ sỹ Trần Văn Cẩn là một bức tranh
đẹp thành công trong công việc chọn chủ đề ở đề tài nông nghiệp. Tác giả đã diễn tả
một đoàn người đang tát nước từ dưới mương lên ruộng. Bố cục theo dạng hình
tháp, cách diễn tả các dáng người tát nước theo phối cảnh không gian xa gần tạo
thành một đường lượn mềm mại gây sự uyển chuyển trong không gian bức tranh. Từ
cánh cò trên khóm tre đến những dáng điệu con người và thế chân tay, b ờ mương,
hàng lúa đang thì con gái tạo dựng nên một không khí sôi nổi, vui tươi như ngày hội
trên cánh đồng. Nhịp điệu và không gian trong tranh như điệu múa, như những bài hát
dân ca quen thuộc gần gũi với cuộc sống của những người nông dân vùng đồng bằng
Bắc Bộ đã bao đời vui buồn với cây lúa.
Để có được bức tranh như vậy họa sĩ Trần Văn Cẩn phải có rất nhiều tư li ệu
để sử dụng. Các dáng người tát nước, người đang cúi xuống múc nước thì động tác
chân tay, thế đứng, hướng trục từ đầu xuống chân cần tư thế như thế nào cho đúng;
dáng người đang dướn lên, tay đưa về phía trước hắt dây gầu đổ nước vào ruộng. Ở
mỗi người, các nét mặt, hình dáng, đắc điểm nhân vật cũng cần phải nghiên cứu tìm
tư liệu khác nhau.
Trong tranh Tát nước đồng chiêm ta thấy các nhân vật luôn được thể hiện khác
nhau ít nhiều tùy cùng một động tác, một tư thế. Điều đó tránh đ ược s ự nhàm chán.
Tất cả đều được tác giả tìm hiểu ghi chép có tư liệu đầy đủ để sử dụng cho việc
xây dựng bố cục tranh.
Trong tranh cũng có nhiều chi tiết, nhiều hình mảng phụ như khóm tre, con cò,
hàng lúa, chiếc gầu giai....phụ họa cho nội dung tranh góp phần làm cho bố cục thêm
phong phú và sinh động.
Không nên lầm tưởng chỉ có các họa sĩ cổ điển, hàn lâm và các họa sĩ theo chủ
nghĩa hiện thực mới đi tìm tư liệu trong quá trình xây dựng bố cục tranh. Các họa sĩ
hiện đại từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX cũng say sưa đi tìm tư liệu, đi tìm cái
mới để sáng tạo ra những khuynh hướng, trường phái nghệ thuật mới như: trường
19
nguon tai.lieu . vn