Xem mẫu
- MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU..................................................................................................1
CHƯƠNG I: MỸ THUẬT NGUYÊN THỦY VÀ CỔ ĐẠI....................................3
Mở đầu...........................................................................................................3
Mục tiêu..........................................................................................................4
............................................................................................4
BÀI 1: MỸ THUẬT NGUYÊN THỦY ..............................................................5
1. Khái niệm, có sở nghiên cứu nghệ thuật Nguyên thủy...............................5
2. Đặc điểm của mỹ thuật Nguyên thủy.........................................................6
2.1. Đặc điểm về đối tượng nghệ thuật ............................................................6
2.2. Tính tả thực..................................................................................................7
2.3. Đặc điểm về kỹ thuật, chất liệu..................................................................8
3. Một số di tích nghệ thuật tạo hình nguyên thuỷ tiêu biểu...........................8
BÀI 2: MỸ THUẬT AI CẬP CỔ ĐẠI.................................................................9
1. Một số nét khái quát về lịch sử và địa lý Ai Cập ........................................9
2. Nghệ thuật kiến trúc Ai Cập Cổ đại .........................................................10
3. Nghệ thuật Điêu khắc Ai Cập Cổ đại.......................................................11
4. Nghệ thuật Bích hoạ Ai Cập Cổ đại.........................................................12
5. Kiến trúc Ai Cập cổ đại ............................................................................12
5.1. Kim tự tháp Kê ốp (Chéops)......................................................................12
5.2. Lăng Vua Tút tan kha môn.........................................................................13
5.3. Tượng Nhân sư (Sphinx). .........................................................................14
5.4. Tượng Viên thư lại Kai...............................................................................14
5.5. Tượng ông xã trưởng Bolét - gỗ (khoảng 4500 năm)...............................14
5.6. Bức chạm gỗ mạ vàng .............................................................................15
5.7. Bích hoạ Ai Cập.........................................................................................15
5.8. Đền Kác nác (Karnak) thờ thần Mặt trời A.Mon........................................16
6. Đặc điểm của mỹ thuật Ai Cập cổ đại.....................................................17
BÀI 3: MỸ THUẬT HY LẠP CỔ ĐẠI..............................................................19
1. Khái quát về mỹ thuật Hy Lạp cổ đại.......................................................19
2. Nghệ thuật kiến trúc Hy Lạp cổ đại..........................................................20
3. Nghệ thuật Điêu khắc Hy Lạp cổ đại ......................................................21
3.1 . Thời cổ sơ (Thế kỷ VII - VI trước công nguyên).......................................21
- 3.2 . Thời cổ điển (Thế Kỷ V - IV trước công nguyên).....................................22
3.3. Thời kỳ Hy Lạp hoá (thế kỷ III - II trước công nguyên).............................23
4. Nghệ thuật hội hoạ, đồ hoạ Hy Lạp.........................................................23
BÀI 4: MỸ THUẬT LA MÃ CỔ ĐẠI ...............................................................25
1. Những ảnh hưởng góp phần hình thành nền mỹ thuật La Mã cổ đại.......25
2. Sự sáng tạo trong mỹ thuật la mã cổ đại.................................................25
2.1 Kiến trúc La mã cổ đại...............................................................................25
2.2. Điêu khắc La Mã cổ đại ...........................................................................27
3. Đặc điểm của mỹ thuật La Mã cổ đại......................................................28
CHƯƠNG II: MỸ THUẬT PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI ....................................30
Mở đầu.........................................................................................................30
Mục tiêu:.......................................................................................................30
..........................................................................................30
BÀI 1 : MỸ THUẬT TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI..................................................31
1. Mỹ thuật Trung Quốc................................................................................31
1.1. Văn hóa, xã hội.........................................................................................31
1.2. Những quan niệm, học thuyết tư tưởng có ảnh hưởng trực tiếp t ới m ỹ
thuật Trung Quốc cổ.........................................................................................32
1.3. Sự phát triển của các loại hình nghệ thuật..............................................34
1.4 . Nghệ thuật Điêu khắc ..............................................................................36
- LỜI NÓI ĐẦU
Nghệ thuật tạo hình có từ bao giờ? Đó là một câu hỏi luôn được đặt ra và cũng có
nhiều cách trả lời. Mặc dù vậy, cũng không thể có một câu trả lời hoàn toàn chính xác.
Có phải ngay từ buổi bình minh của xã hội loài người, con người đã biết làm ngh ệ
thuật? Buổi bình minh ấy là lúc nào? con người thời kỳ nguyên thuỷ trên thế giới và ở
Việt Nam đã làm nghệ thuật ra sao? Từ khi xuất hiện đến nay, nghệ thuật tạo hình đã
phát triển như thế nào? Trả lời những câu hỏi và hiểu rõ được các vấn đ ề trên s ẽ là
những bước khởi đầu trong quá trình học tập và nghiên cứu lịch sử mỹ thuật.
Vậy, Mỹ thuật là gì?
Theo từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông thì “Mỹ thuật là từ dùng để chỉ các
loại hình nghệ thuật tạo hình chủ yếu là Hội họa, điêu khắc, kiến trúc, đồ họa và trang
trí. Đó là những ngành nghệ thuật phản ánh cái đẹp bằng màu sắc, đường nét, hình khối,
.… Mỹ thuật là một trong những ngành nghệ thuật ra đời sớm nhất.
Hội họa là loại hình nghệ thuật diễn tả không gian ba chiều lên mặt phẳng hai
chiều bằng các ngôn ngữ đặc trưng như hình khối, màu sắc, đường nét, bố c ục. Điêu
khắc lại có tiếng nói riêng đó là hình khối. Một tác phẩm điêu khắc được làm bằng các
chất liệu như đá, gỗ, đồng, đất nung, .… Nếu Hội họa, điêu khắc có tình độc bản thì đồ
họa lại là loại hình nghệ thuật có khả năng nhân bản với yếu tố ngôn ngữ đặc trưng là
nét, mảng, chấm, .… Kiến trúc là loại hình nghệ thuật thẩm mỹ môi trường. Cái đ ẹp
của tác phẩm kiến trúc biểu hiện ở sự tạo dáng kiến trúc, ở đường nét, hình khối ở tỉ lệ
kiến trúc. Nghệ thuật trang trí chính là nghệ thuật làm đẹp. Vì vậy, nó gắn liền với
nhiều lĩnh vực: con người và cuộc sống. Trang trí cũng sử dụng ngôn ngữ tạo hình nh ư
hình vẽ, màu sắc, họa tiết, .… Các loại hình nghệ thuật kể trên đều có một tiếng nói
chung đó là tạo hình, tạo khối bằng một hoặc nhiều yếu tố ngôn ngữ tạo hình. Một hình
thức hoạt động mà có hai tên gọi, hoặc ta có thể hiểu rằng sự phát triển của mỹ thuật
cũng chính là sự phát triển của nghệ thuật tạo hình.
Người Hy Lạp xưa nổi tiếng về mỹ thuật. Nhưng sự tạo tác của họ lúc đầu vốn
không nghiên cứu, học tập, chỉ dựa vào trực giác để phân biệt cái đẹp, cái xấu c ủa vật
tự nhiên; có điều cảm giác của họ nhạy bén cho nên thành tựu của họ rất kỳ diệu. Bởi
vì hễ là loài người, thì ai cũng có đủ hai đặc tính; một là cảm thụ, hai là sáng tác. Nói
cảm thụ, ví như trông thấy mặt trời buổi sáng nhô lên mặt biển, hay hoa thơm cỏ l ạ
mơn mởn thắm tươi, thì ai lại cũng lĩnh hội được cảm xúc tr ước thiên nhiên t ươi đ ẹp.
Rồi một vài người có tài biết đem cái cảnh đã cảm xúc ấy tái hiện thành tác phẩm mới.
1
- Thế là sáng tác. Cho nên sáng tác nảy sinh ra từ suy nghĩ. Không có suy nghĩ tức là không
có mỹ thuật. Song vật tự nhiên mà mình trông thấy không phải đã mười phân vẹn mười;
hoa có khi héo, rụng; rừng có khi hoang vu, bẩn, cho nên trong khi tái hiện thành cái mới
phải cải tạo thêm cho thích hợp. Như thế là mỹ hóa, tức là làm cho đẹp hơn. Nếu không
mỹ hóa thì cũng không phải là mỹ thuật. Cho nên mỹ thuật có ba y ếu tố: một là vật t ự
nhiên, hai là suy nghĩ sắp xếp, ba là mỹ hóa.
Lịch sử Mỹ thuật là gì?
Môn học lịch sử mỹ thuật là môn học nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát
triển của các loại hình nghệ thuật tạo hình theo tiến trình thời gian lịch s ử. Sau khi
nghiên cứu và học lịch sử mỹ thuật sẽ giúp chúng ta biết được các giai đoạn phát tri ển
của mỹ thuật. Nhờ thành tựu của nhiều ngành khoa học tự nhiên cũng như xã hội, chúng
ta có thể dựng lại bức tranh về cuộc sống con người từ thời nguyên thuỷ. Trên cơ sở đó
giúp con người ngày nay hiểu về đời sống sinh hoạt cũng như thẩm mỹ của con người.
Mỹ thuật, hay nói đúng hơn là nghệ thuật tạo hình, đã ra đời hàng nghìn năm trước đây.
Do xuất hiện trong quá trình lao động nên nó đã trở thành hình thức thể hiện ý nghĩa,
tình cảm của con người, trở thành một phương tiện đắc lực của sự nhận thức hiện
thực.
2
- CHƯƠNG I: MỸ THUẬT NGUYÊN THỦY VÀ CỔ ĐẠI
Mở đầu
Khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã cũng là lúc nhà nước xuất hiện. Xã hội loài
người đã tiến thêm lên một bước. Điều kiện xã hội thay đổi, tôn giáo tín ngưỡng thay
đổi hay nói một cách khác cuộc sống con người thay đổi. Loài người bước vào một thời
đại mới: Thời kỳ cổ đại. Mọi sự thay đổi tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi của mỹ thuật.
Cùng với sự ra đời của những nhà nước đầu tiên như Lưỡng Hà, Ai Cập, Hy Lạp,
La Mã, rất nhiều phát minh, nghiên cứu về Toán học, Thiên văn học, Văn học, S ử
học, ... cũng lần lượt ra đời.
Con người đã có nhiều phương tiện để giao tiếp. Chữ viết xuất hiện đã đánh dấu
bước phát triển lớn của con người thời cổ đại, đồng thời là một phương tiện giúp con
người hiện đại dễ dàng lần theo dấu vết người xưa để tìm hiểu về nghệ thuật nhanh
hơn, chính xác hơn. Như ở Ai Cập, sau khi Săm-pô-li-ôn (Champolion) tìm cách giải mã
được chữ viết Ai Cập, dường như lịch sử nghệ thuật Ai Cập được nhìn lại, rõ ràng và
đúng đắn hơn. Con người hiện đại có nhiều căn cứ hơn để nghiên cứu l ịch sử nghệ
thuật của các thời đại trước.
Các công trình kiến trúc, điêu khắc hay những bức tranh tường còn lại cho nhân
loại ngày nay thấy được sự sáng tạo tuyệt vời của con người thời cổ đại. Không những
thế, ngày nay chúng ta bằng các phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại cũng chưa
khám phá hết sự hùng vĩ, kỳ bí trong cách xây dựng các công trình kiến trúc vĩ đại của
nghệ thuật cổ đại. Tưởng như những giải thích mang màu sắc thần thoại là hết s ức
hợp lý về những thành tựu của nghệ thuật cổ đại.
Tại sao người Ai Cập cổ đại chỉ có sức lực và hai bàn tay mà xây dựng nên kim
tự tháp vĩ đại như Kê-ốp, Kê-phơ-ren, ...?
Tại sao thời kỳ cổ đại cách chúng ta hàng mấy ngàn năm mà con người đã tạo ra
được những pho tượng hoàn thiện và đẹp đẽ như tượng vệ nữ Mi-lô, người ném đĩa?
Rất nhiều câu hỏi được đặt ra về nghệ thuật cổ đại. Nội dung chương II sẽ phần
nào trả lời câu hỏi đó. Tuy vậy do cấu trúc chương trình, Chương II chỉ đề cập đến
nghệ thuật cổ đại Ai Cập, Hy Lạp, La Mã. Nghệ thuật phương Đông như Trung Quốc,
Nhật Bản, Ấn Độ sẽ được giải quyết và trình bày ở chương VI và cũng là chương cuối
của phần lịch sử nghệ thuật thế giới.
3
- Mục tiêu
- Giúp sinh viên nắm được những đặc điểm cơ bản c ủa Nghệ thuật Nguyên th ủy. Bi ết
được một số di tích tiêu biểu.
- Giúp sinh viên hiểu được nguyên nhân và các yếu tố hình thành các n ền m ỹ thu ật c ổ
đại.
- Sự phát triển của nghệ thuật cổ đại nói chung và của các nền nghệ thuật Ai Cập, Hy
Lạp, La Mã cổ đại.
- Những đặc điểm chung của nghệ thuật Ai Cập, Hy Lạp, La Mã.
- Nắm được một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu của ba nền mỹ thuật cổ đại. Đặc biệt là
các tác giả, tác phẩm được giới thiệu trong chương trình môn Nghệ thuật ở THCS.
- Bước đầu biết cách nghiên cứu phân tích và đánh giá một tác phẩm mỹ thuật.
4
- BÀI 1: MỸ THUẬT NGUYÊN THỦY
1. Khái niệm, có sở nghiên cứu nghệ thuật Nguyên thủy
Nguyên thủy là khởi nguyên hay còn gọi là khởi đầu, sơ khai. Là thời kỳ này sinh
và phát triển của chế độ công xã đầu tiên. Nguyên thủy còn có tên gọi khác là tiền sử
hay thời kỳ đồ đá.
Những con người đầu tiên xuất hiện được tiến hoá từ những giống vượn người.
Quá trình tiến hoá đó diễn ra rất chậm, trải qua hàng triệu năm. Họ có những ưu thế lớn
đó là bộ não lớn, đôi tay khỏe và khéo léo. Đặc biệt họ có thể đứng thẳng. Khoảng một
triệu năm trước đây con người đã đứng thẳng, thoát thai khỏi giới động vật. Hình thức
sơ khai nhất của xã hội loài người được hình thành: Xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Công
cụ lao động của các cư dân đầu tiên này đều được làm từ đá. Vì vậy, theo khảo cổ học
thời kỳ này được gọi là thời kỳ đồ đá, gồm ba giai đoạn: Đồ đá cũ - đồ đá giữa và đồ đá
mới. Ở thời kỳ đồ đá cũ con người sống bằng săn bắt và đánh cá. Họ biết chế tạo công
cụ lao động. Trải qua một thời gian dài với người Crôma nhông, dấu hiệu về sự làm
đẹp đã xuất hiện. Họ chú ý tới cách ăn mặc, trang trí vách hang bằng các hình vẽ thú vật
và họ còn làm những bức tượng nhỏ bằng nhiều chất liệu như ngà, xương , …. Tộc
người này sống vào cuối thời kỳ đồ đá cũ. Phải chăng đây là lúc nghệ thuật t ạo hình
xuất hiện và một đời sống thẩm mỹ đã dần được hình thành? Không ai có th ể kh ẳng
định một cách chắc chắn nghệ thuật tạo hình bắt đầu ra sao và từ bao giờ. Tuy vậy căn
cứ trên các hình vẽ tìm thấy ở một số hang động như Antamira (Tây ban nha) Látxcô
(Pháp), một số bức tượng phụ nữ đã được xác định niên đại có thể cho ta hình dung về
sự ra đời của nghệ thuật tạo hình trong đời sống nguyên thuỷ. Từ 30.000 năm đ ến
10.000 năm trước công nguyên đã bắt đầu để lại những dấu vết về nghệ thuật tạo hình,
theo như cách gọi của chúng ta ngày nay.
Cách chúng ta hơn 5.000 năm trước đây, con người mới phát hiện ra chữ viết, lúc
đầu chỉ là những hình vẽ tượng trưng, những ký hiệu để trao đổi. Ví dụ hình tròn có
chấm ở giữa là mặt trời ( ), …. Dần dần các chữ tượng hình xuất hiện. Như vậy thì từ
“Nghệ thuật tạo hình” hay “Mỹ thuật” như ta thấy ngày nay xuất hiện sau những hình
vẽ trên vách hang động thời tiền sử rất nhiều. Khi con người thời tiền sử vẽ hoặc khắc
vạch lên vách, trần hang động nơi họ sinh sống có lẽ họ cũng chưa nghĩ r ằng đó là
những tác phẩm nghệ thuật tạo hình. Những hình vẽ đó gắn với cuộc sống, với các đ ồ
vật, nơi sinh hoạt của con người. Về một mặt nào đó, trong tư duy nguyên thuỷ việc vẽ
hình cũng giống như việc săn bắt hay các công việc khác. Nó không chỉ mang ý nghĩa
5
- nghệ thuật mà còn gắn với cái có ích. Ngoài ra nghệ thuật tạo hình lúc này còn gắn với
những tín ngưỡng, ma thuật. Theo E. H. Gombrich, tác giả cuốn “Câu chuyện nghệ
thuật” thì “Tranh và tượng được họ dùng để thực hành pháp thuật”. “Những người thợ
săn thời kỳ này nghĩ rằng chỉ cần vẽ hình con mồi và có lẽ tấn công chúng bằng giáo
mác hay rìu đá, những con thú thật sẽ khuất phục sức mạnh của họ”. Tất nhiên đây là
sự phỏng đoán của con người ngày nay khi nghiên cứu về 2 lịch sử mỹ thuật của thời
nguyên thuỷ.
Ngoài hai ý nghĩa trên, các hình vẽ còn có ý nghĩa là những thông tin nhắn gửi cho
các thế hệ sau về cuộc sống, sinh hoạt của con người thời tiền sử. Ví dụ qua các hình
vẽ thú vật như bò rừng, ngựa, voi, ma mút, … cho chúng ta biết về các động vật thời
nguyên thuỷ, ở bức tranh khác ta được chứng kiến cách đánh cá, cách quăng lưới, cách
sử dụng các con cá mồi lớn. Thậm chí con người thời kỳ đó vẽ chỉ để giải trí. Những
con người đầu tiên có mặt ở khắp nơi trên thế giới: Người Olduvai ở Đông phi, người
Bắc Kinh (Trung Quốc), người Nêanđéctan (Đức), người Crôma nhông (Pháp), …. Dấu
vết về nghệ thuật của họ vì vậy cũng trải ra trên một địa bàn rất rộng lớn: từ Châu Phi,
Châu Á đến Châu Âu (Bắc Âu).
2. Đặc điểm của mỹ thuật Nguyên thủy
2.1. Đặc điểm về đối tượng nghệ thuật
Trong các hình vẽ còn lại trên vách, hang, động nơi con người thời nguyên thuỷ
sinh sống chủ yếu là các hình thú hoặc đơn lẻ hoặc bầy đàn, ở một số tác phẩm đã có ý
thức bố cục các hình tượng theo một chủ đề nhất định. Người nguyên thuỷ đã rất thành
công khi vẽ con vật. Nhất là các hoạt động của chúng được diễn tả khá điêu luyện và
rất sống động. Đối tượng chủ yếu trong nghệ thuật giai đoạn này là các con thú nh ư
ngựa, bò, hươu, tuần lộc, … điều này có thể lý giải được. Với cuộc sống nguyên thuỷ,
các con vật đó đã góp phần nuôi dưỡng con người, chúng là nguồn thức ăn chính của họ,
là đối tượng gần gũi nhất đối với con người.
Nghệ thuật luôn bắt nguồn từ thực tế, người nguyên thuỷ cũng không thể vượt
quá cuộc sống hiện thực của mình, tầm hiểu biết của mình. Cuộc sống ấy hướng vào
những gì gần gũi, thân quen nhất. Đó chính là sự tìm hiểu các loài thú để có thể săn bắt
được, hoặc tránh xa những con thú nguy hiểm, dữ tợn, .… Tất cả những điều đó đ ược
thể hiện qua hình vẽ. Nghệ thuật nguyên thuỷ vì vậy mới chỉ dừng lại ở việc diễn tả
một cách tài tình các con thú. Hình tượng con người cũng được đề cập tới, nhưng nghệ
sĩ nguyên thuỷ đã sử dụng các sơ đồ hoá, hoặc phong cách hoá đơn giản và ước lệ khi
vẽ con người.
6
- Ngược lại trong điêu khắc lại phát hiện thấy hầu hết là tượng người, mà chủ
yếu là phụ nữ, được phát hiện nhiều nơi trên thế giới. Tượng có thể có kích thước to
nhỏ khác nhau. Cái nhỏ nhất khoảng 3,5cm, cái lớn nhất khoảng 23cm. Các bức tượng
này được làm bằng nhiều chất liệu như ngà, sừng, xương, đá hoặc đất nung chúng có
chung đặc điểm là: Tỉ lệ chung chưa được chú ý, chưa cân đối. Phần đầu và tay chân
không được diễn tả kỹ. Phần được chú trọng nhất là phần thân cùng với sự cường điệu
phóng đại các chi tiết: Ngực, mông, bụng. Phần chân dung hầu như không được diễn tả.
Có lẽ các nghệ sĩ khi làm những pho tượng này đã bị chi phối bởi những suy nghĩ đ ặc
biệt, mang theo tinh thần tư duy nguyên thuỷ.
2.2. Tính tả thực
Phong cách bao trùm mỹ thuật nguyên thuỷ là phong cách tả thực. Nghệ sĩ nguyên
thuỷ đã đi từ đơn giản đến phức tạp dần. Nhưng dù đơn giản hay phức tạp họ đ ều đi
đến một cái đích: Đó là cố gắng diễn tả đối tượng một cách đúng nhất và sống động
nhất. Điều này chứng tỏ sự quan sát kiên trì và chính xác những đặc điểm của đối
tượng. Sở dĩ người nguyên thuỷ thích tả thực vì những bức vẽ đó chưa đơn thuần là
nghệ thuật mà nó còn gắn liền với nhiều chức năng khác. Những chức năng đó đòi h ỏi
hình vẽ phải chính xác, phải giống thực một cách tối đa. Lúc ban đầu, hình vẽ đ ược
diễn tả bằng nét là chính.
Người thời nguyên thuỷ chú ý nhất đến đường sống lưng của con vật. Có thể nói
đó chính là trục tạo dáng cho hình tượng nghệ thuật. Sau này, khi tư duy đã phát triển,
con người biết tìm ra các màu vẽ, rồi tìm cách diễn tả chỗ đậm, chỗ sáng. Từ nét đ ậm
nhạt, màu sắc, từ những hình đơn lẻ đến các bức tranh có ý thức bố cục, đề tài, đó
chính là sự phát triển của mỹ thuật thời nguyên thuỷ thông qua loại hình nghệ thuật vẽ
hình, chạm khắc hình lên vách, trần hang động.
Cùng với phong cách tả thực, các nghệ sĩ nguyên thuỷ còn biết cách điệu, ước lệ
hoá, sơ đồ hoá. Lấy bức chạm “Một đàn hươu qua sông” trên một mảnh xương tìm thấy
ở hang Mê - ri làm ví dụ. Tác giả đã rất giỏi khi chạm hình 3 con hươu đầu đàn và một
con cuối đà, ở giữa tác giả chỉ diễn tả các cặp sừng cao dần, phía dưới dùng các gạch
chéo với cách làm như vậy tác giả đã cho chúng ta thấy một đàn hươu rất đông đang di
chuyển. Các hoa văn gạch chéo, hay những cặp sừng như một rừng cây đã thay thế cho
những con hươu giữa đàn. Như vậy trong bức chạm này, tác giả của nó đã dùng bút
pháp tượng trưng, ước lệ xen với lối tả thực đạt tới trình độ cao.
7
- 2.3. Đặc điểm về kỹ thuật, chất liệu
Một vấn đề đặt ra: Người nguyên thuỷ vẽ bằng gì? Và cách họ vẽ ra sao? Màu
vẽ được gọi là mầu thổ hoàng. Đó là một loại màu được chế tạo bằng cách mài các
khoáng chất thành bột rồi pha với nước. Màu đỏ lấy từ đá hematite (ôxit sắt hay đất son)
màu trắng từ đá Kalin hoặc phấn, màu đen từ dioxýt mangan hay than đá. Một số cộng
đồng người còn biết đun nóng các khoáng chất để tạo ra màu mới. Đôi khi để có chất
kết dính màu thổ hoàng người nguyên thuỷ đã biết dùng mỡ, hoặc tuỷ sống động vật và
nhựa cây. Kỹ thuật vẽ thì đơn giản, có thể dùng que, tay để vẽ. Chất liệu của điêu khắc
phong phú lơn. Có thể họ khắc, chạm lên xương, sừng, ngà voi hay đá mềm, ….
3. Một số di tích nghệ thuật tạo hình nguyên thuỷ tiêu biểu
Ngày nay chúng ta đã tìm được trên một trăm hang động có hình vẽ. Phần lớn
đều nằm ở miền Bắc Tây Ban Nha và miền Nam nước Pháp. Tuy vậy có hai hang còn
lưu giữ nhiều hình vẽ đẹp. Đó là hang Anta - mi - ra (Tây Ban Nha) và hang Látxcô
(Pháp). Đây được coi là hai bảo tàng lớn của nguyên thuỷ. Hang Anta - mi - ra được phát
hiện năm 1863 do một sự tình cờ. Sau 16 năm tìm hiểu, nghiên cứu về các hình vẽ bò
rừng ở trong hang con người thế kỷ XIX mới tin rằng hang Anta - mi - ra chính là một
trong những địa điểm nổi tiếng của mỹ thuật thời nguyên thuỷ. Trong hang có nhiều
hình vẽ con bò rừng (Bi đông) trong các dáng khác nhau và rất sống động. Ngoài nh ững
đặc điểm được miêu tả chính xác các hình vẽ này còn được thể hiện với những đường
nét mềm mại, đậm nhạt sinh động. Nhiều nhà nghiên cứu nghệ thuật còn gọi hang Anta
- mi - ra là “Toà tiểu giáo đường Xicxtin của thời nguyên thuỷ”.
Hang Latxcô (Pháp) lại do một nhóm trẻ em đi chơi trong khu rừng Latxcô, do một
sự bất ngờ chúng tìm thấy một chiếc hang lớn. Trên vách và trần hang chúng thấy có
nhiều hình vẽ thú vật. Trong đó rõ và đẹp nhất là hình ngựa, bò, …. Ngựa ở hang Latxcô
được thể hiện có màu sắc và đậm nhạt gợi khối. Những hình vẽ này thành công đ ến
mức người ta có thể ví nó với hình vẽ ngựa của các hoạ sĩ Trung Quốc, những bậc thầy
về diễn tả con vật.
Theo một số nhà nghiên cứu cho rằng lối vẽ màu ở đây khá độc đáo. Màu được
thổi lên hình vẽ qua một ống sậy hoặc ống xương.
Các hình vẽ được tô màu đỏ là chủ yếu. Trên hình vẽ có một số mảng màu được
cạo bớt đi để diễn tả khối, tạo sự sinh động cho hình tượng. Các tranh vẽ còn l ại đ ến
ngày nay được định tuổi từ khoảng 15.000 đến 10.000 năm trước công nguyên.
8
- Bên cạnh hình thú, ở đây còn có hình tượng con người: Những người đi săn bị thương ở
giữa các con vật, hình người ném lao hoặc hình người nhảy múa với mặt nạ thú, ….
BÀI 2: MỸ THUẬT AI CẬP CỔ ĐẠI
1. Một số nét khái quát về lịch sử và địa lý Ai Cập
Khoảng năm 3100 trước công nguyên, Ai Cập cổ đại đã ra đời ở vùng Đông bắc Châu
Phi. Đây là quốc gia gần như sớm nhất được hình thành, nó nằm dọc theo hai bên bờ con
sông Nil, dòng sông mang nước cho ruộng đồng, bùn đất của sông Nil có thể thai thác làm
gạch, làm đồ gốm, dòng sông còn là nguồn giao thông quan trong của đất nước. Tháng 6 có
mưa lớn ở vùng xích đạo, nước dòng sông lên cao tràn bờ, lúc nước rút để lại trên mặt đất
lớp phù sa màu mỡ. Điều này tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển.
Ai Cập tiền sử chia làm hai phần: Thượng Ai Cập và Hạ Ai Cập. Đến năm 3100
trước công nguyên thống nhất, đánh dấu bằng sự chinh phục của Pharaông Nácme. Lịch sử
Ai Cập đã chứng kiến 3 giai đoạn hoàng kim, văn hoá nghệ thuật phát triển hơn. Cổ vương
quốc (3100 - 2160 TCN), thời trung vương quốc (2133 - 1625 TCN), thời Tân quốc (1567 -
1085TCN) với các đời vua từ XVIII đến XX. Từ triều vua thứ XXI trở đi quyền lực của các
vua Ai Cập bị sa sút rõ rệt, quốc gia lại bị chia thành nhiều quốc gia tự trị. Thời đại cuối cùng
là Pôlêmê (Poléméc: 323 - 31 TCN).
Nền văn minh Ai Cập được hình thành và phát triển ngay từ thời kỳ đầu tiên. Lúc
này mọi yếu tố như chữ viết, tôn giáo, văn hoá nghệ thuật, khoa học Ai Cập đã phát
triển và hoàn thiện. Năm 1822, một nhà Ai Cập học người Pháp là Giăng Phờrăng xoa
Sămpôli đã đọc được phần viết bằng chữ tượng hình Ai Cập trên tấm đá Rosette tìm
thấy năm 1799. Từ đó giải mã được chữ tượng hình Ai Cập, và lịch sử mỹ thuật Ai Cập
dần được hé mở.
Người Ai Cập có nhiều thành tựu về khoa học: Toán học, Thiên văn học, y
học…. sớm phát triển. Về toán học đã sớm nghiên cứu về phương trình bậc nhất trong
tri thức đại số, hình học đã biết các hình tam giác vuông, chữ nhật và số Pi (ð = 3,1416),
… dùng thước đo bằng gang tay, … Làm ra lịch, … Những thành tựu ấy đã giúp ta hiểu
vì sao người Ai Cập lại có thể xây được các kim tự tháp lớn như các kim tự tháp còn tồn
tại trên đất nước Hy lạp đến ngày nay.
Về tôn giáo, tín ngưỡng của người Ai Cập cổ đại: Họ thờ rất nhiều vị thần, tôn
giáo đa thần giáo phát triển.
9
- Các vị thần hầu hết là đại diện cho lực lượng siêu nhiên chi phối đời sống nông
nghiệp như Thần mặt trời, Thần sông Nil, … và các thần động vật: Thần bò đực, Thần
diều hâu, Thần cá sấu, … người Ai Cập còn có lòng tin vào sự bất diệt của linh hồn, do
đó nghi lễ chôn cất của họ rất phức tạp. Vì quan niệm đó, hình thành tục ướp xác.
Tuy vậy với thủ tục và chi phí tốn kém nên hầu hết chỉ có các vua và nh ững
người có đủ tiền mới được ướp xác. Xác ướp sẽ được giữ gìn trong lăng mộ với kích
thước đồ sộ, chất liệu bền vững là kim tự tháp. Tôn giáo, tín ngưỡng có ảnh hưởng đến
đời sống, nghệ thuật của Ai Cập.
2. Nghệ thuật kiến trúc Ai Cập Cổ đại
Thời kỳ đầu tiên, các kim t ự tháp xây b ằng g ạch có b ậc thang. Tr ải qua th ời
gian phát triển, dần xuất hi ện đá thay th ế. Kim t ự tháp đá đ ược g ọi là c ổ nh ất là
của vua Giôxê (Djoser), do “Ki ến trúc s ư” Imhôtép, quan đ ại th ần c ủa vua thi ết k ế
và xây dựng. Tháp đ ược xây b ằng đá, cao 60m, làm thành 6 b ậc thang, nh ững b ậc
này tượ ng trưng như nh ững t ầng bậc đ ưa linh h ồn vua lên t ới tr ời cao. C ạnh đáy
khoảng 71m.
Từ nguyên mẫu kim tự tháp Giôxê, các lăng mộ sau này đều được xây dựng thành
hình khối chóp, đáy là hình vuông, 4 mặt đều trơn nhẵn, không có bậc thang. T ừ thời
Tân quốc người Ai Cập không xây dựng các kim tự tháp ở giữa sa mạc, mà xây chúng
trong thung lũng các vua và hoàng hậu.
Những ngôi đền thờ của Ai Cập được xây dựng với đồ án kiến trúc đơn giản
gồm: cổng đền là một khối kiến trúc lớn được phủ đầy các hoa văn trang trí; Từ cổng
vào đền chính điện ta phải đi trên con đường thần (thần đ ạo). Chính điện là một căn
phòng lớn với những hàng cột bao quanh còn được gọi là phòng cột. Trên các di tích còn
lại, cho thấy người Ai Cập thời cổ đại đã tạo ra nhiều kiểu dáng cột: cột hình bó s ậy,
hình hoa súng, hình cây Thốt Nốt, … Các đền thờ này được xây dựng ở hai bên bờ sông
Nil, chủ yếu ở phía Nam như đền: Kác nác, Luxo, Abuximben… Kim tự tháp và đền thờ
Ai Cập đều mang vẻ đẹp của sự đồ sộ, vững chắc và vĩnh hằng. Điều này bộc lộ một
phần ở hình thức vĩ đại của các thể loại kiến trúc Ai Cập cổ đại.
10
- 3. Nghệ thuật Điêu khắc Ai Cập Cổ đại
Ở thời kỳ cổ đại, các loại hình nghệ thuật gắn bó với nhau rất chặt chẽ trong
một tổng thể. Đi cùng với kiến trúc là điêu khắc, là tranh tường.
Điêu khắc và tranh vẽ làm đẹp, làm tăng ý nghĩa cho các công trình kiến trúc. Vì
vậy, cùng với hai loại kiến trúc lăng mộ và đền miếu thờ. Bên cạnh các kim tự tháp có
rất nhiều tượng nhân sư đầu người mình sư tử. Thần thoại có bao nhiêu thần thì người
Ai Cập cũng nghĩ ra bấy nhiêu hình thức thể hiện các vị thần ấy. Thường thì họ ghép
hai yếu tố người và thú với nhau để tạo ra một hình tượng linh thiêng nh ư t ượng nhân
sư, …đầu chó mình người, chim ưng, ….
Trong các ngôi mộ đều có đặt tượng chân dung của chủ nhân các ngôi mộ. Tượng
này có thể thay thế cho xác chết, làm cho linh hồn tồn tại, vì vậy tượng được làm giống
thực tối đa.
Phong cách tả thực nổi rõ trong điêu khắc thời cổ vương quốc. Kiểu người nông
nghiệp thô đậm. Sang thời kỳ trung và nhất là thời kỳ tân vương quốc tính chất tr ọng
thực trong điêu khắc Ai Cập đã giảm bớt. Tỷ lệ các pho tượng được kéo dài, tạo dáng
thanh mảnh hơn cho tượng. Cái đẹp, mềm mại, duyên dáng được đ ưa vào điêu kh ắc.
Tượng đặt ở lăng mộ hay đền thờ đều có kích thước tương ứng với kích thước ở đ ền
hay kim tự tháp.
Một thể loại khác của điêu khắc là phù điêu. Trong nghệ thuật Ai Cập phù điêu
rất phát triển. Hình tượng người, thần, … trong phù điêu được thể hiện theo những ước
lệ tạo hình. Hình tượng nhân vật được diễn tả ở nhiều điểm nhìn khác nhau biểu hiện
11
- ở một hình nhưng đầu mặt nhìn nghiêng, mắt và vai luôn hướng ở chính diện, bàn chân
nhìn nghiêng, ….
Sự kết hợp đó đã tạo nên những hình tượng rất đặc biệt, mang đặc điểm của
nghệ thuật Ai Cập. Nó đã khiến cho nghệ thuật Ai Cập mang tính dân tộc và không
giống cách tạo hình của dân tộc nào trên thế giới.
Như vậy, nghệ thuật điêu khắc Ai Cập vừa mang tính hiện thực, vừa mang tính
ước lệ và chịu ảnh hưởng của tư tưởng thần bí, tôn giáo.
4. Nghệ thuật Bích hoạ Ai Cập Cổ đại
Ngay từ thời kỳ cổ vương quốc, bên cạnh những bức chạm nổi có tô màu còn có
nhiều tranh vẽ trên tường (bích hoạ). Trong các bức tranh này ngoại trừ tính ước l ệ
trong cách tạo hình như đã đề cập ở nghệ thuật điêu khắc tất cả các yếu tố khác đều
đạt tới vẻ đẹp hoàn thiện. Màu sắc trong sáng, tươi tắn với những nhịp điệu phong phú
của mảng sáng tối, đậm nhạt, của màu sắc và của đường nét. Hình tượng các con vật
được diễn tả tỉ mỉ, chính xác và hài hoà đến đáng khâm phục. Tuy vậy những bức tranh
tường này vẫn bộc lộ cảm xúc sâu sắc của các tác giả khi vẽ tranh. Tính khoa học r ất
cao trong nghệ thuật tranh tường song không thô cứng mà vẫn rất mềm mại, giàu sức
sống động. Nội dung được chuyển tải là tôn giáo, là các cuộc tế lễ, cầu đảo, hoặc sinh
hoạt của con người rất phong phú. 5. Một số tác phẩm và công trình nghệ thuật tiêu
biểu
5. Kiến trúc Ai Cập cổ đại
5.1. Kim tự tháp Kê ốp (Chéops)
Nằm ở phía Tây sông Nil, bên sa mạc Ghida (Ghiga) ngày nay, còn sừng sững ba
kim tự tháp: Kim tự tháp Kê ốp, Kêphren và Mykênrinốt. Trong số đó kim tự tháp Kê ốp
lớn nhất. Nó được xếp vào một trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại. Đây là lăng mộ xây
cho vua Kê ốp, ông vua thứ hai của vương triều IV khoảng giữa năm 2650 TCN. Kim tự
tháp Kê ốp cao 137m, do 225 vạn tảng đá vôi xây nên, Mỗi tảng đá nặng từ 2 - 2,5 t ấn,
tảng lớn nhất nặng 15,25 tấn. Đỉnh kim tự tháp là một hình vuông bằng phẳng không có
dấu hiệu của sự dở dang hay sói mòn. Hình vuông ấy có kích thước mỗi cạnh 10m,
được lát bằng 9 phiến đá vuông.
Theo các nhà khoa học trong kim tự tháp Kê ốp có 1/5 thể tích là những khoang
trống có chứa cát. Bốn mặt của kim tự tháp theo bốn hướng Bắc, Nam, Đông, Tây.
Người Ai Cập vẫn coi kim tự tháp là cái la bàn khổng lồ. Cho đến ngày nay, với khoa
học kỹ thuật phát triển người ta vẫn còn ngạc nhiên về tài xây dựng kim t ự tháp của
12
- người Ai Cập cổ. Theo cách hiểu thông thường thì kim tự tháp là lăng mộ của các
Pharaông Ai Cập. Tuy vậy đến nay cũng chưa phát được thi thể của các vua. Bằng cách
nào có thể đưa những phiến đá nặng lên cao 140m như vậy? Việc khai thác đá, vận
chuyển đá đến nơi làm kim tự tháp đã có thể coi là một kỳ công. Họ còn phải đ ẽo các
phiến đá, mài nhẵn để có thể xếp lên nhau cho thật khít, các tảng đá được xếp lên nhau,
hầu như không có kẽ hở, không có vật liệu kết dính, ấy vậy mà các lăng mộ vĩ đ ại ấy
vẫn sừng sững tồn tại đến ngày nay.
Bên cạnh kim tự tháp Kê ốp còn có kim tự tháp Kêphren và kim tự tháp Mykêrinốt
có hình dáng tương tự, nhưng nhỏ hơn. Kêphren có cạnh đáy khoảng 215m, cao 134m.
Mykêrinốt là nhỏ nhất, cạnh đáy khoảng 105m, cao khoảng 60m.
Kim tự tháp là công trình kiến trúc tiêu biểu thể hiện tài năng của người Ai Cập.
Đồng thời nó cũng thể hiện quyền lực rất lớn của Pharaông Ai Cập. Tuy vậy để có
được công trình đó phải có sự hy sinh của bao nhiêu nô lệ. Đứng về mặt lịch sử nó là
lăng của các Pharaông Ai Cập. Nhưng đồng thời về mặt nào đó, nó như một đài kỷ
niệm một lời nhắc nhủ đến mai sau về sức lao động sáng tạo, bền bỉ của người Ai Cập
thời cổ đại.
5.2. Lăng Vua Tút tan kha môn
Do quan niệm của người Ai Cập về sự vĩnh hằng, về thế giới bên kia, nên các
ngôi mộ của Pharaông còn là nơi chứa nhiều đồ quý giá. Nó làm tăng ham muốn chiếm
kho báu, dẫn đến nhiều vụ cướp phá những ngôi mộ xảy ra. Ngày 26/11/1922, nhà khảo
13
- cổ học Hô uốt Các tơ (Howard carter) là người phát hiện ra ngôi mộ còn nguyên vẹn của
ông vua trẻ Tút tan kha môn, qua đó cho ta biết về nghi thức tang lễ của thời Tân vương
quốc.
Lăng của Tút tan kha môn gồm nhiều căn phòng được bịt kín bằng gạch. Có l ẽ
sau khi tiến hành tang lễ người ta bắt đầu xây kín các cửa thông các gian phòng với
nhau. Khi khai quật mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn. Người ta đã phát hiện ra một chiếc
quan tài bằng đá rất lớn trong đó có 3 quan tài khác bằng vàng, cái nọ lồng trong cái kia.
Khoảng trống giữa các lớp quan tài là nước thơm đã đông cứng. Xác của Pharaông còn
nguyên vẹn.
5.3. Tượng Nhân sư (Sphinx).
Bên cạnh lăng Kêphren ở Ghi - da có một bức tượng lớn. Tượng đầu người mình
sư tử. Tượng cao 20m, dài gần 60m. Hình tượng nhân sư là hình tượng mang tính chất
thần bí, biểu hiện sức mạnh vô địch. Sức mạnh được tạo bởi quyền lực của nhà vua và
sức mạnh thể chất của chúa sơn lâm. Đó cũng là sự kết hợp giữa trí tuệ và hành đ ộng.
Tượng được làm bằng đá khối. Hơn ba ngàn năm trôi qua, tượng nhân sư đã được tu sửa
rất nhiều lần.
5.4. Tượng Viên thư lại Kai
Ở Ai Cập nghề được coi trọng và ngưỡng mộ là nghề viết chữ. Thư lại là người
rất quan trọng và có nhiều nhiệm vụ: có thể giữ hồ sơ thuế, các vụ xét x ử và nhiều
loại văn bản khác.
5.5. Tượng ông xã trưởng Bolét - gỗ (khoảng 4500 năm)
Khí hậu Ai Cập khô, nóng, độ ẩm thấp. Vì vậy ngay cả chất liệu gỗ cũng bền
vững với thời gian. Tượng ông xã trưởng là pho tượng gỗ cổ nhất Ai Cập còn lại đ ến
ngày nay. Tượng được diễn tả trong tư thế đang bước đi, tay trái chống gậy, mắt nhìn
thẳng. Khối căng tròn, thể hiện người đẫy đà, thô, mập theo kiểu người làm nghề nông.
Riêng đôi mắt, để tăng thêm phần sống động, người Ai Cập cổ đã nghĩ ra kỹ thuật gắn
bột thuỷ tinh.
Tượng vua Rahôtép và vợ là hoàng hậu Nophre (cuối triều vua thứ III). Nhìn
thẳng hai pho tượng được làm theo nguyên tắc nhìn ngay ngó thẳng của Ai Cập. Cả hai
pho tượng đều được tạc từ khối đá nguyên, ngồi tĩnh lặng, tay bó vào thân. Tượng được
tô màu: Vua màu đậm, hoàng hậu mắt sáng hơn. Mắt được khảm và vẽ đậm, trông
giống như người thật. Nhìn nghiêng ta có thể cảm nhận được sức sống tràn trề trên hai
cơ thể, chất da thịt sống động gợi cảm.
14
- Nói đến nghệ thuật điêu khắc Ai Cập, không thể bỏ qua tượng hoàng hậu
Nephéctiti vợ vua Akhênatôn. Nhiều tượng chân dung của bà được giữ đến ngày nay, đã
đánh dấu sự chuyển biến trong phong cách nghệ thuật Ai Cập. Tượng mang nhiều chất
hiện thực, sống động, bớt vẽ trang nghiêm, quy tắc như thời cổ vương quốc.
5.6. Bức chạm gỗ mạ vàng
Mặt sau chiếc ngai trong mộ diễn tả cảnh Pharaôn Túttankhamôn và vợ (Khoảng
1350 TCN)
Túttankhamôn là người kế vị ngai vàng Akhênatôn, ông lên ngôi từ bé và mất sớm.
Lăng mộ của ông là một trong những lăng mộ đẹp nhất của Ai Cập. Trong lăng của ông
khi khai quật, các nhà khảo cổ học đã thu được nhiều hiện vật. Người ta đem chúng về
và trưng bày trong 11 văn phòng lớn ở bảo tàng Cairô mới hết. Trong đó có chi ếc ngai,
mặt sau ngai có bức chạm gỗ, được sơn mạ vàng, nó diễn tả cảnh vua và hoàng hậu.
Từ dáng ngồi của nhà vua, đến cách tạo hình và bộ lộ tình cảm của hoàng hậu ta đã
thấy có sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật cũng như quan niệm sống của người Ai
Cập. Tỉ lệ của hoàng hậu không nhỏ hơn vua. Trên đầu họ là thần mặt trời hiện diện là
một quả cầu vàng, với những tia sáng là những cánh tay nhỏ vươn xuống chúc phúc cho
2 người. Các bức chạm khối nổi nhẹ nhàng, đường nét mềm mại, tỉ lệ tương đối cân
đối, hài hoà. Hình tượng nhân vật đã bớt nặng nề và mang tính chất hiện thực phóng
khoáng hơn thời kỳ trước.
5.7. Bích hoạ Ai Cập
Tác phẩm: “Cuốn sách của người chết” được vẽ trong mộ của một viên quản gia
kiêm thư lại của Hoàng gia thuộc vương triều thứ 19 (1320 - 1290 TCN). Một s ự kết
hợp tuyệt vời của đường nét và màu sắc trong tranh. Tác giả đã chỉ cho người chết con
đường, cách thức để đi tới thế giới vĩnh cửu của thần Ôdirít.
Toàn bộ tranh được chia làm 3 phần: Phía trên là các vị thần thẩm định, mỗi vị đại
diện cho một quận của Ai Cập. Phía dưới là người chết được thần ướp xác Amubít dẫn
đường. Nội dung chính trong bức tranh này thể hiện người chết sẽ nhận được sự phê
chuẩn của thần trí tuệ. Cuối cùng thần Amubít sẽ đưa người đó đến thần Ôdirít, người
cai quản dưới lòng đất.
Tranh vẽ toàn mảng bẹt, phẳng. Cái đẹp ở đây là nhịp điệu của mảng trắng, đậm
trong tranh, sự kết hợp giữa hình và chữ.
15
- Tranh “Săn chim”: Nhân vật trong tranh được vẽ với tỷ lệ lớn nhất, nhỏ hơn là
vợ và con gái anh ta. Tỷ lệ của các nhân vật được thể hiện theo chỗ đứng, địa vị của
nhân vật trong xã hội, tôn giáo, hoặc gia đình.
Người Ai Cập chưa diễn tả nhân vật theo như luật xa gần. Họ có quan niệm
riêng, mang tính dân tộc đậm nét. Tác giả đã rất giỏi khi thể hiện một cách chính xác
cây, hoa đặc trưng của Ai Cập và các giống thú, chim, bướm, … màu s ắc t ươi sáng,
nhẹ nhàng.
Những bức tranh này còn biểu hiện sự tuyệt vời về đường nét trong tác phẩm.
Chạm gỗ nắp quan tài, Sách của người chết, Bên phải, tranh dưới: Săn chim
5.8. Đền Kác nác (Karnak) thờ thần Mặt trời A.Mon
Là một trong những ngôi đền đẹp nhất của Ai Cập cổ đại, được xây dựng trong
thời kỳ Tân vương quốc. Theo cấu trúc chung của các đền miếu thờ ở Ai Cập.
Phía bên ngoài là cổng đền: thường là cột tháp với những bức tường hai bên. Đi
qua sân rộng hình chữ nhật là phòng cột đỡ trần nhà, có mái che. Sau cùng là hậu cung.
Phòng chính trong đến Kác nác có diện tích khoảng 5000m2 với 16 hàng cột đỡ trần nhà,
gồm 134 cột đá lớn, …
Qua một vài kích thước cụ thể như vậy ta thấy vẻ đẹp hùng vĩ của kiến trúc đền
thờ Ai Cập.
Trên các cây cột có khắc đầy các hình vẽ, trên cổng đền, ở mọi chỗ trên kiến trúc
là những phù điêu chạm nổi kẻ vẽ các cuộc chinh chiến của nhà vua. Nói liền đ ền Kác
nác với đền Lu xô là hai dãy tượng Xphanh đấu cừu kéo dài trên 2000m.
16
- 6. Đặc điểm của mỹ thuật Ai Cập cổ đại
Mỹ thuật Ai Cập cổ đại suốt 3000 năm tồn tại không có những biến động l ớn.
Ngay từ thời cổ vương quốc nghệ thuật dã có những thành tựu đáng khâm phục ở mọi
lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ. Sở dĩ như vậy vì trong nghệ thuật người Ai Cập
có những quan niệm, những quy định, các nghệ sĩ khi sáng tác phải tuân thủ nghiêm
ngặt. Vì vậy tính chất dân tộc thể hiện đậm nét trong các loại hình nghệ thuật Ai Cập
cổ đại. Điều đó góp phần hình thành một số đặc điểm chúng cho nghệ thuật tạo hình.
Nghệ thuật Ai Cập luôn hướng tới sự vĩnh hằng, sự trường tồn. Điều này thể
hiện trong kiến trúc, điêu khắc và bích hoạ. Các tác phẩm nghệ thuật của Ai Cập được
làm bằng chất liệu bền vững và chúng tồn tại cho tới tận ngày hôm nay. Quan ni ệm,
lòng tin vào sự bất diệt của linh hồn đã chi phối mạnh mẽ tới nghệ thuật tạo hình và
tạo ra những tác phẩm nghệ thuật bất hủ, xứng đáng là một trong bảy kỳ quan c ủa th ế
giới cổ đại.
Nghệ thuật Ai Cập mang nặng tính chất tôn giáo. Thông qua các phần còn lại ta
thấy các nghệ sĩ Ai Cập đã rất ưu tiên đề tài tôn giáo, tín ngưỡng.
Bị ảnh hưởng của thần thoại, tôn giáo họ đã sáng tác ra nhiều hình tượng thần bí,
siêu thực như hình tượng các vị thần đầu thú mình người, tượng nhân sư đầu người
mình sư tử. Chính đặc điểm thứ nhất đã tạo ra tiền đề nảy sinh đặc điểm thứ hai.
Những ước lệ tạo hình cổ sơ đã chi phối nghệ thuật Ai Cập trong hai lĩnh vực
điêu khắc (phù điêu) và bích hoạ. Các hình tượng phù điêu và bích hoạ Ai Cập đã đ ược
thể hiện hoặc nhìn chính diện nghiêm trang, ngay ngắn hoặc là sự kết hợp của đầu mặt
nghiêng, thân thẳng chân nghiêng. Hai bàn chân nhìn nghiêng và được nhìn từ phía ngón
cái là một đặc điểm đặc biệt trong các hình tượng phù điêu và bích hoạ Ai Cập. Sở dĩ
người Ai Cập tạo hình như vậy vì họ quan niệm về sự toàn vẹn của hình tượng. Họ
muốn trên một hình tượng nhưng có thể nhìn thấy nhân vật ở tất cả các hướng. Mặt
khác các hướng chọn để diễn tả phải là hướng mà các đặc điểm được thể hiện rõ đ ặc
trưng nhất. Ví dụ con mắt nhìn nghiêng không cho thấy rõ “mắt” bằng con mắt nhìn
thẳng; Bàn chân nhìn từ phía ngón cái và nghiêng có đặc điểm hơn, … Như vậy người
Ai Cập đã rất khéo chọn lựa và khéo sắp xếp. Nhìn thoáng qua ta thấy hình v ẽ Ai Cập
có dạng vặn và nhiều chi tiết tưởng như không hợp lý phải nghiên cứu kỹ mới thấy sự
sáng tạo và tài năng của người Ai Cập khi tạo hình. Như vậy mới có cái nhìn đúng đắng
về giá trị của nghệ thuật Ai Cập.
Trong nghệ thuật Ai Cập, các loại hình nghệ thuật như kiến trúc, điêu khắc, bích
hoạ luôn gắn bó với nhau. Nghệ thuật Ai Cập là nghệ thuật tổng hợp trong đó kiến trúc
17
- phát triển sớm nhất và mạnh nhất. Điêu khắc và tranh vẽ gắn với kiến trúc. Tất cả đều
thống nhất phong cách và hoà hợp trong một tổng thể hoàn chỉnh.Tất cả những đ ặc
điểm trên đã kết hợp nhuần nhuyễn với nhau tạo ra sự độc đáo, riêng biệt cho nghệ
thuật tạo hình Ai Cập. Tuy nó bị chi phối bởi tôn giáo, bởi ý tưởng về sự vĩnh hằng, hay
siêu hình thần bí thì nghệ thuật Ai Cập vẫn rất phong phú về thể loại.
Những ước lệ tạo hình cổ sơ mặc dù theo các nghệ sĩ suốt trong quá trình sáng
tạo và phát triển. Nhưng không vì thế mà nghệ thuật Ai Cập đơn điệu và không thay
đổi. Trái lại phong cách nghệ thuật Ai Cập mặc dù vẫn thống nhất nhưng v ẫn có s ự
chuyển biến phong cách qua các thời kỳ từ cổ đến trung và tân vương quốc. Có một
điều chắc chắn rằng, nghệ thuật Ai Cập thống nhất và phát triển theo một hướng đi
riêng, có thay đổi song vẫn giữ được đặc điểm, quan niệm tạo hình của mình.
Nghệ thuật Ai Cập là một nền nghệ thuật sáng tạo, để lại nhiều thành tựu, kỳ
quan cho thế giới và mang đậm sắc thái dần .
Ai cập xứng đáng là cái nôi đầu tiên của văn minh nhân loại như người ta vẫn
đánh giá từ nhiều thế kỷ trước.
Nữ hoàng Ne phititi
18
nguon tai.lieu . vn