Xem mẫu

  1. MỤC LỤC HỌC PHẦN 1......................................................................................................1 NHÓM TƯỢNG XƯƠNG SỌ, TƯỢNG PHÁC MẢNG, TƯỢNG LỘT DA VÀ TƯỢNG CHÂN DUNG........................................................................1 MỞ ĐẦU..........................................................................................................................1 MỤC TIÊU.......................................................................................................................1 TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ ĐIỀU KIỆN HỖ TRỢ.................................................1 NỘI DUNG BÀI HỌC....................................................................................................1 1. Những kiến thức chung về Hình hoạ .......................................................................1 1.1. Khái niệm...............................................................................................1 1.2. Nguồn gốc hình hoạ..............................................................................3 1.3. Vai trò của hình họa với học tập và sáng tác mỹ thuật.....................11 2. Đặc tính của chất liệu vẽ chì đen trắng với các bài vẽ khối cơ bản .................24 2.1. Các yếu tố biểu đạt.............................................................................24 2.2. Khả năng biểu đạt của chất liệu chì đen ..........................................25 2.3. Đặc điểm tâm lý thị giác trong bài vẽ hình hoạ đen trắng................26 3. Hướng dẫn tự học.....................................................................................................26 3.1. Tìm hiểu thêm để củng cố kiến thức chung......................................26 3.2. Phân tích khả năng biểu đạt của chất liệu chì trong các bài hình hoạ và tranh vẽ đen trắng..................................................................................27 4. Yêu cầu cần đạt........................................................................................................28 5. Câu hỏi ôn tập............................................................................................................28 TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................30
  2. HỌC PHẦN 1 NHÓM TƯỢNG XƯƠNG SỌ, TƯỢNG PHÁC MẢNG, TƯỢNG LỘT DA VÀ TƯỢNG CHÂN DUNG (2 tiết lý thuyết) MỞ ĐẦU Tái tạo không gian ba chiều trên mặt phẳng hai chiều là công việc của người học và sáng tạo nghệ thuật hội hoạ (trong đó có hình hoạ). Sử dụng các thủ pháp diễn tả thông qua đường nét, hình mảng, đậm nhạt, màu sắc... để tạo không gian cho bài vẽ đòi hỏi một quá trình nghiên cứu, vừa có kiến thức tổng thể, vừa có kỹ năng thực hành cơ bản và sáng tạo. Máy ảnh chỉ ghi lại một khoảng khắc nhất định của thực tiễn do máy móc thực hiện. Do vậy, máy ảnh có thể giúp ích rất nhiều cho hoạ sỹ trong lấy tài liệu và sáng tạo nghệ thuật, nhưng không thể thay thế được vẽ nghiên cứu bởi vẽ nghiên cứu là cả một quá trình phân tích, tìm tòi của người vẽ trước đối tượng; khám phá và thể hiện cái đẹp của đối tượng thông qua cảm xúc và khả năng của người vẽ. MỤC TIÊU - Hiểu được khái niệm, nguồn gốc của hình họa; vai trò của môn hình họa đối với sáng tác và học tập các môn học khác, nắm được khái lược chương trình giảng dạy hình họa ở hệ đại học. - Hiểu được đặc tính, các yếu tố và khả năng biểu đạt của chất liệu vẽ chì trắng đen. TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ ĐIỀU KIỆN HỖ TRỢ Các tư liệu về bài vẽ hình họa của các họa sỹ nổi tiếng trên các tài liệu mỹ thuật các sách dạy vẽ hình họa; bài nghiên cứu hình họa; tư liệu về các bức họa trên các tài liệu khảo cổ, các hiện vật... NỘI DUNG BÀI HỌC 1. Những kiến thức chung về Hình hoạ 1.1. Khái niệm Nhu cầu vẽ là một hiện tượng tự nhiên mang tính bản năng của con người. Trẻ em biết vẽ trước khi biết viết, biết đọc. Một đứa trẻ mới hai hoặc ba tuổi, nếu có một vật trong tay như bút, phấn hoặc chỉ là một mẩu gạch cũng có thể gạch và vẽ 1
  3. những hình, nét trên mặt phẳng trong khi ch ưa biết viết, biết đọc. Lịch sử văn minh nhân loại cũng ghi nhận nhiều hiện tượng tương tự như vậy, các hình vẽ và hình hoạ đã có từ rất lâu trước khi phát minh ra chữ viết. Khoảng 20.000 nghìn năm trước đây, người nguyên thuỷ đã biết vẽ lên vách hang đá nơi họ sinh sống những hình ng - ười, hình thú vật. Và thật kỳ diệu, những bức vẽ ấy sống động và rất gần với hiện thực, với đối tượng được miêu tả. Hiện thực của tự nhiên và xã hội luôn là đối t ượng trung thành cho con người đi tìm cái đẹp. Sự tìm tòi và khám phá vốn là thuộc tính của nghệ sỹ. Vì vậy, nghiên cứu thực tế, vẽ lại thiên nhiên một cách trung thực là yêu cầu rất cần thiết đ ối với người mới học mỹ thuật. Theo “Từ điển thuật ngữ Mỹ thuật phổ thông” , hình hoạ là môn vẽ người hoặc vật (mẫu) tương đối kỹ và chính xác, được thể hiện bằng nhiều kỹ thuật và chất liệu khác nhau như chì đen, than, bột màu, sơn dầu. Từ trước tới nay, nghiên cứu và thể hiện vẻ đẹp của con ng ười luôn được đề cao, là đối tượng để hoạ sỹ khám phá, sáng tạo. Con người là sản phẩm cao quý nhất, đẹp nhất của tự nhiên. Việc nghiên cứu người mẫu (nhất là người mẫu khoả thân) luôn là mục tiêu của người học và sáng tác mỹ thuật. Bởi con người là một hình mẫu đẹp nhất về cấu trúc, tỷ lệ. Những hình tượng nghệ thuật thể hiện trên người khoả thân khác hẳn về chất, nội dung và hình thức nghệ thuật với những loại tranh ảnh thiếu lành mạnh. Tuy nhiên, để vẽ được người mẫu, cần có những luyện tập từ thấp tới cao, từng bước một với những kiến thức và kỹ năng cơ bản của vẽ hình hoạ. Những pho tượng lý tưởng về tỷ lệ, cấu trúc và vẻ đẹp của cơ thể con người đã được các nhà điêu khắc cổ đại Hy Lạp như Pô-li-clét, Mi-rông, Phi-đi-át...thể hiện mãi mãi là những chuẩn mực tuyệt tác của nhân loại. Vì thế ng ười ta đã mệnh danh cho đất nước Hy lạp là “Vương quốc của cái đẹp”. Không thoả mãn với những gì đã có, các hoạ sĩ thời Phục Hưng Ý, mà tiêu biểu là Lê-ô-na đờ Vanh-xi, Mi-ken- lăng-giơ, Ra-pha-en... đã vẽ nên những bức hình hoạ tuyệt đẹp về vẻ đẹp con ng ười. Lịch sử mỹ thuật đã cho thấy, hầu hết các hoạ sỹ nổi tiếng đều có trình độ rất cao về hình họa. Đó chính là cái gốc giúp họa sĩ thành công trong xây dựng tác phẩm. Hình hoạ có vai trò rất lớn trong học tập và sáng tác mỹ thuật. Hoạ sỹ người Pháp Anh-gơ-rơ cho rằng: “đường nét là hình hoạ hay đúng ra nó là tất cả ”. Trong thiên nhiên, mọi vật đều tồn tại có dạng hình thể, vẽ tr ước hết là ghi lại các hình thể đó trên mặt phẳng của không gian 2 chiều. Vậy hình hoạ là gì? “Hình hoạ là phương pháp xây dựng hình thể để mô tả đối t ượng khách quan có thực mà mắt ta quan sát được bằng đường nét, mảng, hình khối, sáng tối 2
  4. để tạo không gian trên mặt phẳng”. Không gian trong hình hoạ có thể là một màu hoặc nhiều màu. Có nhiều cách gọi khác nhau về hình hoạ nhưng nói chung có những cách gọi chính là: hình họa, vẽ theo mẫu, vẽ tả thực, vẽ nghiên cứu... 1.2. Nguồn gốc hình hoạ 1.2.1. Hình vẽ có từ thời nguyên thuỷ Sự phát hiện ra những bức vẽ trong hang động Altamira (Tây Ban Nha) năm 1875 thực sự đã gây sửng sốt và tạo nên một cuộc tranh luận sôi nổi trong giới khảo cổ học, sử học. Ban đầu, người ta đã không thể tin rằng tranh vẽ những con bò rừng, trang trí tuyệt đẹp và sinh động, tưởng như còn rất mới kia không thể có cách đây trên một vạn năm. Bởi lúc đó, người tiền sử với công cụ thô sơ, trình độ thấp kém không thể vẽ được những con vật hoàn hảo như vậy. Nhưng sau nhiều năm nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã khẳng định các tranh vẽ ở hang Altamira là nghệ thuật Tiền sử. Cái đặc sắc của các bức vẽ này là đàn bò rừng được diễn tả rất thực với nhiều t ư thế rất sống động, chứng tỏ khả năng quan sát và thể hiện rất cao. Ngoài những kỹ thuật khắc chìm, dùng nét đen rồi bôi màu lên; trong các hình vẽ ở hang động này có những chỗ đã được vờn bóng khối, diễn tả ánh sáng và các sắc thái tương phản khá công phu. Sau Altamira người ta còn tìm thấy nhiều bức vẽ trong các hang động ở Tây Ban Nha, Pháp, Đức, Nga và Châu Phi... Điểm nổi bật trong các bức vẽ này là ngư ời nguyên thuỷ đã biết loại trừ những chi tiết nhỏ nhặt, chắt lọc lại những điểm rất cơ bản, đặc trưng và tinh tế. Từ cái vỏ giống nhau đ ược lặp đi lặp lại của sự việc, người nguyên thủy đã đơn giản để diễn tả bản chất của đối tượng bằng lối hình học hoá và đồ họa hoá. Những bức họa đặc sắc trên các vách đá, những dấu chân rõ nét của người và động vật, những vết khói ám từ những ngọn đuốc .... Tất cả là những kho báu vô giá của loài người được thời gian lưu giữ và bảo tồn cho đến ngày nay. Được mệnh danh là “nhà nguyện thời tiền sử". Động Lascaux - một quần thể hang động thuộc miền tây nam nước Pháp sở hữu một trong số những bức họa trên vách đá quý giá nhất trên thế giới. Những kiệt tác nghệ thuật trên các vách đá trong hang động này có tuổi thọ ít nhất là 15.000 năm. Hang động này được phát hiện vào ngày 12/9/1940 bởi 4 thanh niên có tên Marcel Ravidat, Jacques Marsal, Georges Agnel, Simon Coencas, và chú chó Robot của Ravidat. Sau Thế chiến thứ 2, công chúng mới có cơ hội dễ dàng tham quan khu hang động này. 3
  5. Hình 1- Đàn bò - nghệ thuật tiền sử Hình 2 - Đàn ngựa trên vách động Lascaux 4
  6. Hình 3- Bò rừng trên vách động Lascaux Đến năm 1955, Lascaux thu hút trung bình 1.200 du khách đ ến tham quan mỗi ngày khiến cho các tác phẩm hội họa bị hủy hoại khá nhiều bởi khí hecarbon dioxide. Cuối cùng, vào năm 1963, người ta quyết định đóng c ửa hang đ ộng, không cho phép khách du lịch vào thưởng lãm nhằm bảo tồn các bức họa này. Động Altamira độc đáo nhờ những bức họa trên vách đá. Altamira tọa lạc gần Santilliana del Mar ở Cantabria, phía Bắc Tây Ban Nha, cách Santander 30 km về phía Tây. Cũng giống như những hang động khác, Altamira cũng tình cờ được phát hiện ra. Vào năm 1868, một thợ săn có tên Modesto Cubillas bị trượt ngã khi đi ngang qua khu hang động này nhưng mãi 7 năm sau, một nhà quý tộc từ Santander có tên Marcellino Sanz de Santuola mới chính thức khám phá ra Altamira. 5
  7. Hình 4- Bò rừng trên vách động Altamira Vào khoảng năm 1879, người phát hiện ra những bức họa trên vách đá trong hang động này lại là cô con gái của nhà quý tộc tên Maria de Santuola. Hai cha con họ quyết định giữ bí mật nhằm bảo tồn và gìn giữ những bức tranh đá đẹp tuyệt vời, mãi cho đến khi họ qua đời, các chuyên gia vẫn còn nghi ngờ về tính xác th ực c ủa khu động này. Đến đầu thế kỷ XX, các nhà khoa học và các chuyên gia khảo cổ học mới phát hiện ra khu hang động nhờ vào những vết tích từ thời kỳ đồ đá còn sót lại xung quanh khu vực đó. Những bức họa của Altamira là bằng chứng rõ nét về nền văn hóa của người Magdaléni (cách đây gần 16.000 năm) sinh sống tại phía Nam châu Âu. Hình 5 - Một bức họa trên vách động Altamira Động Chauvet nằm ở phía Nam nước Pháp cũng sở hữu rất nhiều tác phẩm nghệ thuật đặc biệt. Hang động này trở nên nổi tiếng vào năm 1994 sau khi một nhóm gồm 3 nhà nghiên cứu hang động phát hiện ra những vách đá của hang động này được trang trí bằng những bức họa mô phỏng cuộc sống của con người vào thời kỳ đồ đá cũ. 6
  8. Hơn thế nữa, những bức tường trong hang động vẫn còn lưu giữ những phần hóa thạch còn sót lại của rất nhiều loài động vật trong đó có những loài ngày nay đã tuyệt chủng. Trên sàn động cũng còn l ưu l ại khá nhiều dấu chân c ủa đ ộng v ật và con người từ thời tiền sử. Động Chauvet nhanh chóng được xem là một trong những bảo tàng tự nhiên về nghệ thuật thời tiền sử quan tr ọng nhất thế gi ới. Hang động này là nơi cư ngụ của con người trong suốt 2 thời kỳ: Aurignacian (cách đây khoảng 32.000 đến 30.000 năm trước Công nguyên) và thời kì Gravettian (cách đây khoảng 28.000 đến 22.000 năm trước Công nguyên). Hình 6 - Bức họa trên vách động Chauvet Hầu hết các tác phẩm nghệ thuật thuộc thời kỳ Aurignacian đều nguyên vẹn cho đến tận ngày nay trong khi đó vết tích của thời Gravettian còn sót lại chỉ là một dấu chân trẻ con, một khoảng hang đá nhuốm khói carbon từ những cây đuốc mà họ đốt cháy trong hang động. Động Magura nằm ở phía Tây Bắc Bulgary, cách thủ đô Sofia 180 km. Điểm có một không hai của hang động này là những bức tranh trên đá đ ược hình thành từ phân Dơi. Những bức tranh này bao gồm rất nhiều lớp, hình thành từ nhiều thời kỳ khác nhau: Epupaleolith, Neolith, Eneolith, giai đoạn đầu của thời kỳ Đồ đồng. Những bức họa trong hang động Magura miêu tả cảnh nhảy múa của những cô gái, cảnh săn bắn của những người đàn ông, cảnh hóa trang Hình 7 - Các hình vẽ trên vách động Magura trong các lễ hội và rất nhiều hình ảnh động vật, mặt trời, các ngôi sao, nông cụ và những cây cối. Rất nhiều các sự kiện và lễ hội tôn giáo qua các thời kỳ đ ược phản ánh bằng những biểu tượng, những nhân vật quan trọng trên nền vách đá. Một số hình ảnh miêu tả rõ nét và phong phú các mặt đời sống tinh thần, vật chất của con người thời kỳ tiền sử. Độc đáo nhất trong số tất cả các hang động được nhắc đến có lẽ là động Cosquer bởi đây là một hang động dưới nước, cách đây 27.000 năm. Cosquer thuộc vùng Calanque de Morgiou gần Marseille, Pháp, cách Cap Morgiou không quá xa. Cửa vào hang động này đến nay vẫn ngập trong nước, dưới mực nước biển 37m. Năm 1991, Henri Cosquer đã khám phá ra chiếc hang đặc biệt này và vì vậy mà tên của ông được đặt cho địa danh này. 7
  9. Hình 8- Các hình vẽ trên vách động Magura Hình 9 - Hình vẽ trên vách động Cosquer Du khách có thể vào tham quan khu hang động thông qua một đường ống dài 175m nối thẳng vào cửa hang. Động có rất nhiều tác phẩm hội họa và điêu khắc có từ thời kỳ tiền Paleolithic: những khuôn vẽ có cách đây 27.000 năm; những dấu vết của động vật và con người cách đây 19.000 năm (thời kỳ Solutrean); những bức vẽ các loài động vật từ bò rừng Bizon, dê rừng núi An-pơ, ngựa đến những sinh vật biển như Hải cẩu, chim Anca và Sứa. Động Font de Gaume là nơi cư ngụ của con người sinh sống quanh khu vực thung lũng Dordogne cách nay khoảng 25.000 năm trước Công nguyên. Miệng hang là nơi định cư của con người trong khoảng vài nghìn năm sau đó. Tuy nhiên, sau đó thì hang động này bị lãng quên mãi cho đến thế kỷ thứ XIX, người dân địa phương mới bắt đầu phát hiện ra Font de Gaume. Năm 1901, Denis Peyrony, một giáo viên đến từ Les Eyzies, khám phá ra những bức họa bên trong Font de Gaume, có niên đại khoảng 17.000 năm, thuộc thời kỳ Magdaléni. Font de Gaume gìn giữ hơn 200 bức họa đa sắc miêu tả rất nhiều Hình 10 - Một bức họa trong động Font de Gaume loài động vật như bò rừng Bizon, Ngựa và Voi Ma-mút. 8
  10. Ngành khảo cổ học nước ta cũng đã tìm thấy những hình vẽ đ ược khắc trên vách đá ở động người xưa (Hoà Bình). Đó là những hình mặt người và thú được khắc một cách đơn giản, khái quát, góc nhìn chính diện với đầy đủ mắt mũi, miệng rất sinh động. Những viên đá sỏi có khắc hình nét mặt người ở Na Ca (Thái Nguyên) với trán nhẵn, cằm rộng, mũi dài, mắt nheo và miệng cười ... tiêu biểu cho nghệ thuật của người nguyên thuỷ Việt Nam. Những trống đồng cổ được phát hiện ở Đông Sơn (Thanh Hoá) vào năm 1924 không chỉ đạt đỉnh cao về kỹ thuật chế tác mà còn là tinh hoa, biểu t ượng tiêu biểu của văn minh người Việt Cổ. Đặc điểm quan trọng của nghệ thuật tạo hình trên trống đồng là con người; con người chiếm vị trí chủ đạo trong thế giới muôn loài. Đó là hình các chiến binh, vũ đạo và con người trong sinh hoạt đời thường như chèo thuyền, giã gạo... hình vẽ người được đơn giản và cách điệu khá cao theo h ướng đồ hoạ hoá, kỷ hà hoá một cách khúc triết, sinh động. Hình 11 - Hình khắc ở hang Đồng nội- Hòa bình Hình 12 - Hình mặt trống đồng Hình 13 - Hoa văn trên trống đồng Ngọc Lũ Hình 14 -Di tích bãi đá có hình khắc vẽ thời tiền sử xã Nấm Dẩn, 9
  11. huyện Xín Mần - Lào Cai. Như vậy, có thể nói nghệ thuật ra đời do nhu cầu của con ngư ời. Trong lao động săn bắn và hái lượm, trong đấu tranh với thiên nhiên nghiệt ngã để bảo tồn và phát triển, người nguyên thuỷ đã sáng tạo ra ngôn ngữ nghệ thuật cho mình. Những tác phẩm hội hoạ đầu tiên trong buổi bình minh của loại ng ười đều mang nặng dấu ấn của hình hoạ. Đó là những hình vẽ các con vật, hình người với các động tác đa dạng, sống động. Với cách vẽ đường viền chu vi hay những mảng màu đậm đặc, hình ảnh được miêu tả chứng tỏ khả năng quan sát và rất thuộc mẫu của người vẽ. Dù đơn giản hay tinh tế, vụng về hay trau chuốt, chất liệu thực vẫn là phẩm chất đầu tiên của bức vẽ .... 1.2.2. Hình vẽ có trước chữ viết Trước khi dùng những ký hiệu đơn giản để nói lên tư tuởng của mình, tức chữ viết, con người đã biết vẽ. Những hình vẽ trên hang động của người nguyên thuỷ không chỉ để trang trí, mà còn là ký hiệu thông tin để ghi nhớ và báo cho cộng đ ồng những con thú cần săn bắt. Qua những bức tranh ở Sa-ha-ra (châu Phi) có thể nhận biết hai giống bò thông qua cấu tạo của sừng ... người Et-ki-mô có những ký hiệu bằng hình vẽ rất cô đọng để chuyển tải thông tin cho nhau một cách nhanh chóng nhất. Chữ tượng hình của người Ai cập, Trung quốc là loại chữ đ ược biểu hiện trên cơ sở hình tượng sự vật. Mặc dầu đã được đổi thay theo tiến trình tiến hoá lịch sử song nhiều chữ vẫn còn mang nặng dấu ấn đó cho đến ngày nay; minh chứng kh ả năng hình vẽ làm biểu tượng và là phương tiện truyền tải thông tin nhanh nhất, đơn giản nhất. Lịch sử Trung quốc ghi nhận, có chữ ban đầu dựa vào một nguyên mẫu cụ thể, thông qua hình vẽ làm biểu tượng cho ngôn ngữ. Qua quá trình vận động, ký hiệu đó dần được chuyển hoá, đôi khi không còn hình dáng nguyên mẫu của ban đầu. Chữ quân trong tiếng Hán cổ là một ví dụ. Khởi đầu là một bức chân dung vẽ người cầm đầu bộ lạc với mặt, mồm và hai tay. Song từng bư ớc, thời gian đã làm cho thay đổi, đi dần đến đơn giản và thuận tiện hơn. Tuy không hoàn toàn là chữ tượng hình, nhưng ở tấm đá của Pha-ra-ông- nac- me-rơ (Ai cập cổ đại) với những hình khắc nổi và những dòng chữ ngắn đã kể lại một cách đầy đủ, trọn vẹn chiến thắng của Nác-me-rơ của Vua Ai cập và đã thống nhất đồng bằng sông Nin thành một quốc gia hùng mạnh. Tấm đá này giúp cho các nhà sử học, ngôn ngữ học ngày nay có thể đọc và nghiên cứu khá chính xác lịch sử thời kỳ đó thông qua các hình vẽ, hình tượng mà người Ai cập cổ đã ghi lại. 10
  12. Hình 15 - Chữ tượng hình Ai cập cổ đại Hình 16 - Chữ tượng hình Rongorongo Hình 17 - Chữ tượng hình Rongorongo Như vậy, trước khi có chữ viết, trong quá trình lao động, đấu tranh để tồn tại, phát triển và tự hoàn thiện mình con ngư ời đã sáng tạo ra các ký hiệu bằng hình vẽ. Đó là những bảng mẫu chữ viết nguyên sơ đầu tiên. Cùng với tiến trình văn minh nhân loại, chữ viết đã không ngừng được hoàn thiện và đóng vai trò quan trọng trong đời sống con người. 1.3. Vai trò của hình họa với học tập và sáng tác mỹ thuật 1.3.1. Hình hoạ là môn học cơ bản Trong thiên nhiên, mọi vật tồn tại đều có hình thể. Đối với mỹ thuật, hình thể đóng vai trò rất quan trọng, mỗi hình chiếm một vị trí nhất định trong không gian và 11
  13. có tiếng nói tạo hình nhất định. Vẽ cũng có nghĩa là ghi lại hình dáng (hay hình thể của vật) đó bằng đường nét, đậm nhạt. Thông qua các kỹ thuật và thủ pháp diễn tả về tương quan tỷ lệ, hình khối, sáng tối, màu sắc và chất cảm để tạo không gian ba chiều trên mặt phẳng hai chiều. Vị trí của các hình trong tác phẩm tạo hình nói lên sự vững chãi, chặt chẽ cho bố cục, các nhân vật và các chi tiết theo ý đồ của tác giả. Hình hoạ tham gia vào tất cả quá trình học tập, nghiên cứu và sáng tạo nghệ thuật của hoạ sỹ. Từ cổ tới kim, không có hoạ sỹ nào lại coi th ường việc nghiên cứu hình họa. Quan niệm của người Ai cập cổ đại tin rằng việc bảo tồn thân xác và chân dung những người quá cố, nhất là các Pha-ra-ông sẽ làm cho họ trường tồn. Ngôn ngữ Ai cập, từ “thợ điêu khắc” có nghĩa là “người giữ cho sống mã”,. Vì thế, nhờ sự tập trung hoàn toàn vào vào cấu trúc hình dáng cơ bản của đầu người mà những bức t - ượng chân dung gây được nhiều ấn tượng sống động. Còn người Hy lạp La mã lại tin rằng khi tạo ra cái đẹp bằng cách làm cho một hình t ượng được xây dựng thông qua một cơ thể đẹp cụ thể. Những pho t ượng như người ném đĩa của Mi-rông, vệ nữ Mi-lô... đã đạt được hiệu quả cao về chuẩn cấu tạo của cơ thể người và vị thế kỳ lạ của chuyển động, tạo được vẻ đẹp và sự duyên dáng trong diễn tả, nét quyến rũ của cuộc sống bình dị. Đến các hoạ sỹ thời Phục H ưng, nghiên cứu hình hoạ là niềm say mê trong khám phá, sáng tạo, nhất là nghiên cứu cơ thể con người. Hoạ sỹ Lê-ô-na đờ Vanh-xi ngay từ thời trẻ đã học vẽ mẫu ng ười khoả thân và các đường l- ượn trên mẫu quần áo. Ông học vẽ phác hình vào các quyển sổ tay mà ngày nay còn lưu giữ được với hàng nghìn bức vẽ và trang viết. Khi đã thành danh, ông vẫn dò dẫm nghiên cứu bí mật về cơ thể ngư ời bằng cách mổ xẻ hơn 30 tử thi. Nhờ đó hoạ sĩ đã xây dựng nên những bức tranh bất tử, trong đó con người là trung tâm của tác phẩm với các trạng thái tâm lý khác nhau. Nhà họa sĩ, điêu khắc Mi-ken-lăng-giơ l ại cố thâm nhập, tìm hiểu về cách miêu tả cơ thể đẹp của con ngư ời khi chuyển động với tất cả các cơ bắp và gân cốt. Ông thích vẽ các nhân vật khoả thân ở t ư thế phức tạp. Bức tranh sự phán xét cuối cùng đ ược vẽ trên tường nhà thờ Xích-xtin là một tác phẩm hoàn hảo về ý tưởng, bố cục và nhất là vẻ đẹp của các mẫu người khoả thân. Hình 18 - Vẽ nghiên cứu hình họa của Lê-ô-na-đờ Vanh-xi Để xây dựng tác phẩm diễn tả cái chết của Ma-ra, một trong những lãnh tụ của cách mạng Pháp, hoạ sỹ Đa-vít đã học đ ược cách tạo hình bắp thịt và cơ gân của thân thể, đồng thời tạo cho nó vẻ đẹp quí phái để đặc tả Ma-ra, người đã tự nhận sẽ mang lấy định mệnh tuần giáo khi đang làm việc cho hạnh phúc của cộng đồng bị kẻ thù sát hại ngay trong bồn tắm. Còn hoạ sỹ Anh-gơ-rơ thường nhấn mạnh vào qui 12
  14. luật về độ chính xác tuyệt đối trong giờ vẽ hình hoạ khi dạy học. Anh-gơ-rơ có kỹ thuật diễn tả hình thể con người một cách vững chãi, cặn kẽ với vẻ trong sáng đến lạnh lùng của cái đẹp. Hình 19 – Picasso - Những cô nàng ở Avignon Các họa sỹ nổi tiếng cận hiện đại sau này tr ước khi trở thành danh hoạ với các trào lưu nghệ thuật hiện đại nổi tiếng, họ đều là những người vẽ nghiên cứu hiện thực, nghiên cứu mẫu người rất nghiêm túc và cơ bản. Hoạ sỹ vĩ đại bậc nhất của thế kỷ 20 Pi-cát-xô đã từng nói đại ý rằng: năm mười ba tuổi tôi vẽ được như Mi-ken-lăng-giơ nhưng đến năm 30 tuổi tôi vẽ được như trẻ con. Điều ấy nói lên rằng trước khi sáng tạo ra những trường phái tân kỳ cho hội hoạ thế kỷ XX, Pi-cát- xô đã từng nghiên cứu hội hoạ rất kinh điển, bài bản và có kết quả cao. Chính s ự vững vàng về nghiên cứu hình hoạ đã giúp ông đi sâu vào tìm tòi, khám phá, tạo nên những khuynh hướng hội hoạ mới. Đây cũng là điểm chung của các hoạ sỹ hiện đại thời trẻ. Khi còn học vẽ tại Ma-đơ-rít, hoạ sỹ nổi tiếng Đa-li đã nắm rất vững hình hoạ kinh viện để sau này khi tham gia phong trào Siêu thực (từ năm 1928) ông đã có thể thể hiện trên tranh những tương phản thực và ảo cùng với những ác mộng căng thẳng về các mâu thuẫn xã hội, các nghịch lý trong cuộc sống. Hình 20 - Đôi giày - tranh của Van Gốc Hình 21 - “Người đàn bà tắm” của Anh-gơ-giơ Năm 1925 trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương được thành lập. Cùng với các môn học tạo hình khác, Hình họa được đề cao với quỹ thời gian được đào tạo nhiều, trong thi tuyển thường được chú trọng và nhân hệ số. Một loạt các hoạ sỹ tài danh của đất nước ta đã trưởng thành từ mái trường này và tác phẩm của họ đã để lại dấu ấn đậm nét trong nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam. Đó là các hoạ sỹ Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái... Hình 23 - La Vie - Picasso Như vậy, Hình hoạ nói chung hay vẽ người nói riêng luôn là mục tiêu, là đối t- ượng để người học vẽ nghiên cứu, tìm hiểu và phát hiện. Hình hoạ có vai trò quan trọng giúp cho người học có thể đi sâu hơn, phát triển bền vững trên con đường sáng 13
  15. tạo. Dù ở bất kỳ thời đại nào Hình hoạ vẫn là nghiên cứu cơ bản cho sáng tạo nghệ thuật. 1.3.2. Các yếu tố nghiên cứu của hình hoạ - Nét, mảng không gian sáng tối và hình khối: + Nét: Nét còn gọi là đường viền hay đường chu vi, là ranh giới giữa vật này với vật khác hay giữa một vật với không gian bao quanh. Định nghĩa một cách khoa học thì đường nét là tập hợp của những điểm chuyển động, trong hội hoạ, khái niệm “đư- ờng” và “nét” thường cùng song hành, muốn tạo nét phải có đ ường và đường làm nên nét. Sử dụng đường nét hợp lý, hiểu được vị trí vai trò của chúng trong học tập và sáng tác hội hoạ, đồ hoạ là yêu cầu cơ bản của dạy và học mỹ thuật. Ngay từ các lớp đầu tiên, học sinh tiểu học đã được làm quen với nét thẳng, nét cong, nét thanh, nét đậm... và vai trò của chúng. Mỗi nét đều có đặc tính biểu cảm khác nhau. Trong một bức tranh, người hoạ sỹ phải sử dụng đường nét một cách hợp lý, có tình cảm mới tạo ra được thành công cho tác phẩm. Trong giới tự nhiên, bất kỳ một vật thể nào cũng đư ợc tạo nên bởi nhiều đường nét kết hợp, đường nét cũng chính là cái cảm đầu tiên của con mắt đối với hình dáng của một vật thể. Hoạ sỹ Anh-gơ-rơ cho rằng: “Đường nét là hình hoạ hay đúng ra nó là tất cả”. Vì vậy, vẽ cũng có nghĩa là ghi lại các hình thể đó bằng nét ngay từ đầu khi tiến hành bài tập. 14
  16. Hình 24 - Nét vẽ của họa sỹ Leonardo da Vinci + Mảng: 15
  17. Một mặt phẳng có chu vi nhất định gọi là mảng. Vẽ là nghệ thuật diễn tả trên mặt phẳng nhưng sử dụng các phương pháp khoa học về phép đo tỷ lệ, xa gần, tác động của sáng tối trong không gian theo qui luật của mắt nhìn, có nghĩa là tạo đ ược không gian ba chiều trên mặt phẳng hai chiều. Trong mỹ thuật, nhất là đối với bố cục tranh còn có mảng chính, mảng phụ, mảng nổi, mảng chìm, mảng đậm, mảng nhạt... đó là cách gọi một lư ợng đậm nhạt màu nào đó chiếm diện tích nhất định trên mặt tranh, tạo thành một mảng riêng, khác biệt rõ ràng với các mảng xung quanh. Một bức tranh đẹp thường đ ược nói đến bởi sự hài hoà chung của các hình mảng trong bố cục. Hình 25- Thiếu nữ bên hoa huệ - Tô Ngọc Vân Đối với người mới học vẽ bao giờ giáo viên cũng yêu cầu phải quy các vật thể của tự nhiên định vẽ thành các mảng cụ thể để dễ nhận xét, phân tích và đẩy sâu bài học. + Hình: 16
  18. Mảng tạo nên hình nhất định, những hình khác nhau được sắp xếp tạo nên sự cân đối hay thăng bằng trong bố cục, hình vẽ. Trong tâm lý học thị giác, hình gây ấn tượng mạnh vì có tính ngưng tụ, Hình luôn tồn tại ở hai dạng: cụ thể và trừu tượng, nó bao hàm nhiều khía cạnh, nhiều ý nghĩa, biểu hiện tính đa dạng của ngôn ngữ hội hoạ. Trong hội hoạ khái niệm hình mảng thường không tách rời nhau. Mảng khái quát còn hình cụ thể hơn. Hiểu được mối quan hệ của hình và mảng để sắp đặt trong một bố cục cụ thể là việc tìm tòi, nghiên c ứu và sáng t ạo c ủa ng ười h ọc m ỹ thuật. Mỗi giai đoạn, mỗi dân tộc, th ậm chí mỗi cá nhân có cách x ử lý hình m ảng khác nhau nhưng đều đưa tới thành công và tạo nên bản sắc riêng. Khi dạy các bài vẽ theo mẫu, cái mà sinh viên nhận biết tr ước tiên chính là hình dáng bên ngoài của vật đó nhờ khối, màu và nét. Ví dụ, khi nhìn cái phích n ước, cái ấm... trước mặt không phải bằng khối, bằng màu, bằng nét mà bằng hình cái phích, cái ấm đó được tạo ra trong mắt và sẽ được thể hiện nhanh chóng. Người học có thể chỉ dùng nét mà tạo hình (đồ hoạ) hoặc chỉ dùng màu mà tạo hình (hội hoạ). Kết quả về hình có thể giống nhau; song ở sinh viên giỏi, do cách xử lý có toàn bộ, biết vận dụng hiểu biết về khối, nét và tương quan đậm nhật nên bức vẽ đẹp hơn, sinh động hơn. + Khối: Một vật thể phải có hình dáng và chiếm chỗ nhất định trong không gian. Khối chính là những khoảng không gian được giới hạn bởi các mặt phẳng hoặc cong. Khối là không gian ba chiều bị giới hạn, đ ược ánh sáng phân rõ các chiều hướng và bề mặt, được xác định bởi chiều cao, chiều rộng, chiều sâu. Nh ư vậy, khối của vật thể được nhận biết theo cách vật thể ấy được đặt trong một không gian có giới hạn và xác định. Trong khi đó, đối với hội hoạ nói chung và hình hoạ nói riêng, khối và không gian là yếu tố ảo do đậm nhạt tạo nên trên mặt phẳng. Khối là một trong những yếu tố của cấu trúc tạo hình cũng như đường nét, màu sắc, chất cảm... để tạo nên hình tượng vật thể trên bức tranh. Cảnh vật và con người trong giới tự nhiên được cấu tạo bằng các khối cụ thể hoặc liên kết với nhau, đều hình thành và xuất phát từ một số khối cơ bản. Đó là khối cầu, khối lập phương và khối hình chóp. 17
  19. Hình 26 - Một số khối cơ bản Hình 27 - Một số khối cơ bản và khối biến dạng + Các khối hình biến thể: Xuất phát từ các hình hình học cơ bản và các khối cơ bản sẽ tạo ra đ ược các khối hình biến thể. Các khối hình này là sự kết hợp các tính chất cơ bản của hai hình khối ghép với nhau. Ví dụ: khối hình hộp với hình tròn tạo ra khối hình trụ, khối hình 18
  20. chóp với hình tròn tạo ra khối hình nón, biến thể của khối cầu tạo ra khối quả trứng, của khối trụ là khối lục lăng .... Nghệ thuật hội hoạ có thể khái quát mọi hình dạng trong giới tự nhiên thành các khối cơ bản và biến thể những khối hình hộp, khối trụ, khối nón... là hoàn toàn hợp lý. Nếu chú ý quan sát sẽ thấy: ngôi nhà ngói mái có khối hình chóp, khung nhà là khối hộp, thân, cành cây là khối trụ, vòm lá là dạng khối hình quả trứng hoặc khối cầu. Cơ thể con người là sự tổng hoà đến tuyệt vời các hình khối. Đầu ngư ời là khối hình cầu, cổ và chân tay có dạng khối hình trụ, thân là dạng khối hộp... Nếu chi tiết thêm sẽ lại thấy từng bộ phận của cơ thể con ng ười cũng có cấu trúc từ các khối cơ bản hoặc khối biến dạng. Nhiều hoạ sỹ đã khai thác và sử dụng cách khái quát các hình khối vào xây dựng nhân vật, hình tượng để sáng tác và tạo nên cách nhìn riêng, độc đáo cho mình. Hình 28 - Bài vẽ tĩnh vật của sinh viên Sư phạm mỹ thuật - Sáng tối và đậm nhạt: Con người nhận biết thế giới khách quan thông qua con mắt và ánh sáng. Ánh sáng chiếu rọi vào vật thể làm nổi hình khối, làm cho vật có màu sắc và đem lại ý nghĩa cho việc ghi lại hình bóng của vật thể đó. Ánh sáng chiếu vào một hay hai chiều nào đó của vật thể làm cho vật thể đó nổi hình và khối lên, các chiều khác không nhận được ánh sáng sẽ chìm trong mảng tối. Tuỳ thuộc vào cấu tạo hình khối; màu sắc và chất của vật mẫu; tuỳ thuộc vào nguồn sáng mạnh hay yếu mà tư ơng quan của vật mẫu thay đổi khác nhau. Tuân thủ đúng qui luật tạo hình và làm cho vật nổi lên trên mặt phẳng hai chiều của tờ giấy hoặc vải vẽ là công việc của bài nghiên cứu hình hoạ. Tả được không gian thật của mẫu ngoài tác dụng làm nổi hình 19
nguon tai.lieu . vn