- Trang Chủ
- Mỹ thuật
- FESTIVAL Mỹ Thuật Trẻ Toàn Quốc Viễn Cảnh Cho Nghệ Thuật Đương Đại
Xem mẫu
- FESTIVAL Mỹ Thuật Trẻ Toàn
Quốc Viễn Cảnh Cho Nghệ
Thuật Đương Đại
Như chúng ta đã
biết, nghệ thuật
đương đại với
những dạng
thức mới chủ
yếu
(intasllation;
performance art;
video art;…) đã
hoà nhập vào
Việt Nam trong
bối cảnh toàn
cầu hoá. Quá
PHAN ĐÌNH PHÚC. Hội tụ trình bình
thường hoá
thẩm mỹ này, hay cũng có thể nói là sự thêm ra cho nền mỹ
thuật Việt Nam hiện đại đã vấp phải không ít trở ngại bởi
một sức đề kháng được tự động hoá từ chính người trong
giới trước tiên chứ không phải từ đại chúng. Quá trình đó kéo
dài mười mấy năm để rồi Festival mỹ thuật trẻ toàn quốc
2007 diễn ra và được đón nhận, hưởng ứng bởi hầu h ết
những người tham gia vào mọi hoạt động nghệ thuật.
Có thể nói ngay rằng, tên gọi của sự kiện trên không bộc lộ
- hết ý nghĩa đối với tính chất của nó. Vì ban tổ chức ph ải b ảo
đảm dễ chấp nhận về mặt sự kiện và hợp lý về mặt truyền
thông. Tầm cỡ của nó không chỉ thuần tuý là sự kiện mỹ
thuật mà còn là sự kiện văn hoá nếu chúng ta ý th ức đ ược rõ
tầm ảnh hưởng. Bởi, ở đây, chúng ta đang chính thức hoá một
mô hình thẩm mỹ mới chứ không đơn thuần là chấp nhận
một thể loại; trường phái hay một xu hướng mỹ thuật. Do đó,
nó còn một cái tên ngoài lề được người ta dùng rất nhiều ở
những nơi không có sự lưu luyến truyền thống và câu ch ấp
về mặt ngôn từ “Triển lãm nghệ thuật đương đại toàn quốc”.
Tên gọi này và sự thêm ra cho nền mỹ thuật Việt Nam trong
quá trình bình thường hoá trên được hiểu là những loại hình
mới không có mục đích phủ định tất cả những thứ vẫn đang
được gọi là mỹ thuật chính thống. Nếu không bị xuyên tạc,
nó chỉ có nhu cầu đồng hành với hội hoạ, điêu khắc,… đương
nhiên lúc này nhu cầu về thẩm mỹ nói chung cũng nh ư những
bộ môn gọi là nghệ thuật thị giác nói riêng được phong phú
hoá một cách tối đa. Tức là, nếu trước đây, người ta có nhu
cầu thưởng thức tranh, tượng,… thì giờ đây, người ta còn có
cơ hội biết thêm cả intasllation (sắp đặt); performance art
(trình diễn); video art;… Những hình thức đó không có gì là
nghiêm trọng và khó thích nghi ở ta như một số người quan
niệm. Mà rất cần những cuộc triển lãm như thế để Việt Nam
có được một góc nhỏ nhìn ra thế giới, bởi đơn giản chúng
đang là xu hướng hiện hành của nghệ thuật thế giới đương
đại. Trong trường hợp này, cần nhấn mạnh lại một lần nữa,
đây là sự chia sẻ văn hoá, bởi người ta có quy ền được lựa
chọn nhu cầu thẩm mỹ nhất định. Dưới tác động xã hội, chắc
chắn nó tạo ra một sự cạnh tranh lành mạnh để mọi lĩnh vực
nghệ thuật phát triển. Và, trên lý thuyết, các bộ môn trước
đây của mỹ thuật tất nhiên phải thu hẹp “diện tích” của mình
- lại. Nhưng thực tế, sự thu hẹp đến đâu lại phụ thuộc vào
chất lượng cũng như sự hấp dẫn hội hoạ, điêu khắc hay
những lĩnh vực tạm gọi là mỹ thuật chính thống được duy trì
như thế nào. Ngược lại, những hình thức mới trong nghệ
thuật đương đại có nguy cơ một lần nữa trở thành “thường
dân không có hộ khẩu” nếu không chứng tỏ được những giá
trị đích thực mà nó đem lại cho đời sống văn hoá nghệ thuật
nói chung.
Đi sâu vào hệ vấn đề có tính chất thao tác, kỹ năng, cũng nh ư
các yêu tố chuyên môn nghề nghiệp, thì thấy rằng Festival
lần này có những thay đổi căn bản trong tư duy thẩm mỹ và
phương thức sáng tạo nghệ thuật. Mặc dù không có ý định
trình bày cũng như phân định các tác phẩm theo một quy tắc
nào, nhưng cũng xin có một vài sắp xếp tương đối để tiện
cho việc khảo sát các loại nghệ thuật mới (không kể các loại
hình truyền thống như hội hoạ, đồ hoạ, điêu khắc được ban
tổ chức đưa vào với mục đích dung hoà). Chúng Tôi xin tạm
chia các sắp đặt ở đây làm 4 dạng.
NGÔ VĂN LỰC. Thời gian tiếp nối (Trước và trong triển lãm)
- Dạng 1: Là những tác phẩm sắp đặt mang tính điển hình (có
tiền lệ, tương đối rõ ràng, mang tính đặc trưng cho thể loại
này) hoặc như một số người vẫn quen gọi là một tác phẩm
sắp đặt theo phong cách “hàn lâm”, “cổ điển”. Ở dạng này,
xuất phát điểm của nó phần lớn đi từ ý hướng nhất định để
đòi hỏi một hình thức phù hợp. Vì nếu ch ỉ tạo ra m ột hình
thức nào đó, thì đương nhiên nó trở thành một thứ “ki ểu s ức”
khi không cần ý thức đến vấn đề ý tưởng. Vấn đề nh ận th ức
bao giờ cũng được coi là mục đích cuối cùng. Hoặc, trong
một trường hợp, người ta chủ động việc không đưa ra một
nhận thức trực tiếp nào nhưng chủ động công khai việc này,
chứ không dựa dẫm vào diện mạo thẩm mỹ như tác phẩm:
Nhân- đồ vật của Nguyễn Thế Hùng hay Lớn hơn 20 của
Nguyễn Hồng Hải,…
Dạng 2: Các tác phẩm sắp đặt có thiên h ướng deco (trang trí)
tức là có sự phụ thuộc khá lớn về tính dàn dựng và bài trí
không gian. Dạng này, theo diễn giải của nhà phê bình mỹ
thuật Phan Cẩm Thượng là: “cấu trúc của các tác phẩm sắp
đặt vẫn bị ảnh hưởng bởi lối bố cục hội hoạ, điêu khắc,…”.
Tức là, phần nào đó vẫn loay hoay với việc tạo ra m ột không
gian phải có nhóm chính nhóm phụ, có sự cân bằng thị giác và
hài hoà thẩm mỹ. Dạng này xuất hiện không phải là ít trong
Fesvival. Ít nhất có hơn 50% trở lên những tác ph ẩm ở tầng 3
nhà triển lãm tại Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội đều bị sa
đà vào việc bày biện chi tiết nhằm đạt hiệu quả thẩm mỹ. Ví
dụ như tác phẩm Hội tụ có sắp đặt với nh ững chiếc nút chai
của Phan Đình Phúc, tác giả vẫn phải chú trọng đến nhân v ật
chính trong không gian sau đó trải dài trên những tấm thảm.
Về mặt thị giác mà nói thì nó có phần gây bắt mắt, nh ưng
xem kỹ, tác phẩm không gợi một cảm giác mạnh về xã hội
tiêu thụ đang ám ảnh lên cuộc sống con người. Hay tác ph ẩm
- Những con số cũng vậy, những chiếc nón dán vé số, tưởng
chừng tạo không gian, nhưng trên bình diện tác động thị giác
lại yếu. Và người xem phải đặt câu hỏi tại sao nhất thiết
phải đưa ra hình ảnh nón lá để liên tưởng đến thân phận
người Việt Nam nghèo khổ đi bán vé số. Những tác phẩm
kiểu như thế đã tạo ra một lối mòn và những quan điểm lệch
lạc khi nhìn nhận về nghệ thuật sắp đặt ở Việt Nam. Vì nó
đã hình thành nên những “motif cố hữu”, là ph ải bày bi ện, bài
trí, phải treo cái này, dựng cái kia,… và cố gắng đưa cái gì đó
liên quan đến truyền thống, khiến người ta phải lưu truy ền
một câu: “bu gà rọ lợn” nhằm ám chỉ tính truyền th ống đó.
Tất nhiên nếu vơ đũa cả nắm sẽ có phần oan uổng cho
những nghệ sĩ thực sự có nghề.
NGUYỄN HỒNG HẢI. Lớn hơn 20
Dạng 3: Tạm gọi là bán sắp đặt, tức bao gồm những tác
phẩm sắp đặt có thiên hướng điêu khắc hoá, hay những tác
phẩm điêu khắc có yếu tố sắp đặt. Tác phẩm của tác giả
Khổng Đỗ Tuyền là một ví dụ tiêu biểu, không vượt qua giới
hạn của tư duy điêu khắc, để trở thành một sắp đặt mà nó ở
- ranh giới giữa hai hình thức đó.
Dạng 4: Những tác phẩm có cấu trúc mang tính kết h ợp (có
thể bao gồm cùng lúc installation+ performance + video + …),
và không thuộc vào ba loại trên. Trong một số trường hợp, thì
vật chất hình thành nên tác phẩm chỉ có ý nghĩa biểu tượng,
và mang tính trung gian. Những tác phẩm loại này, người ta
thường khó xác định chính xác nó thuộc vào nghệ thuật khái
niệm (conceptual art) hay nghệ thuật dự án (project art), hoặc
cả hai. Ví dụ điển hình nhất cho phong cách này là tác phẩm
Những con đường của Nguyễn Huy An. Cần nói thêm rằng,
để thực hiện tác phẩm này, tác giả đã có hoạt động điền dã
cả tháng trời trên hầu hết các con phố trong khu phố cổ Hà
Nội. Và kết quả của nó được trưng bày chẳng đem lại một
cảm nhận gì liên quan đến cái đẹp. Ngược lại, tác ph ẩm c ủa
Lê Trần Hậu Anh về rằm trung thu cũng được coi là loại
tổng hợp, nhưng tính chất thị giác của nó lại có phần nghiêng
vào dạng thứ hai.
Đối với performance art tại cuộc triễn lãm này thì cả chất và
MAI ANH DŨNG. Những con số
lượng đều không có gì đáng nói. Như tác phẩm nói lên sự
- mâu thuẫn và cam chịu khi tác giả mời người xem dùng gậy
đâm vào chính tác giả và đến đoạn cao trào, theo một lẽ thông
thường, người ta sẽ nhận được một phản ứng nổi giận thì
mọi chuyện lại buông xuôi. Tất cả nói lên ý nghĩa con ng ười
không nên sống trong thù hận, mà biến thù hận thành hoà
bình. Ý tưởng của phần trình diễn có vẻ hay, nhưng về hình
thức và màu hồng mà tác giả sử dụng lại không gây đ ược cái
cảm giác đủ mạnh cho ý nghĩa về sự thù h ận. Một trình di ễn
khác về sự mù quáng của con người trước đồng đô la và quà
tặng có phần nhạt nhẽo và mang tính kể lể.
Về mặt tổ chức mà nói, sự huy động một số lượng đông đảo
những người tham gia là một điều đáng mừng, và nó động
viên rất lớn tinh thần cho giới trẻ. Nhưng trên một mặt b ằng
rộng đến cả nghìn mét vuông của Trường Đại học Mỹ thuật
Hà Nội xem ra vẫn còn quá chật cho khá nhiều ý tưởng. Nó
cho thấy phần nào tính chất non nớt của các tác giả còn quá
trẻ về tuổi đời và kinh nghiệm sống tham gia. Do vậy họ đã
không lường trước được các vấn đề mà mình sẽ gặp phải khi
đặt tác phẩm của mình vào trong không gian chứ không chỉ
đơn thuần là ở trong trí tưởng tượng hoặc trên giấy. Bởi các
tác phẩm nghệ thuật có tính không gian yêu cầu tác giả phải
là người có đầu óc tổ chức tốt, để trên bất cứ địa hình nào,
thì tác phẩm của mình đều có thể diễn đạt được ý tưởng c ủa
nó một cách hiệu quả nhất. Điều này cũng cần đến vai trò
của người curator, quyết định xem các tác phẩm nào đặt cạnh
nhau thì hợp lý, để trong mối quan hệ tương tác lẫn nhau,
chúng không bị hỏng về không gian. Đây cũng là trường hợp
của tác phẩm Sự tương tác của Ngô Văn Lực và tác phẩm Mô
hình bản đồ Việt Nam để ngay phía dưới. Tự nhiên tác ph ẩm
bản đồ bị biến thành một thứ thừa chứ không ph ải tác ph ẩm,
mặc dù tác giả của nó đã treo trên đó một cái nón nh ằm m ục
- đích hoạch định không gian ba chiều cho tác phẩm. Tác ph ẩm
Cái nhà kén cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Nó choán một
không gian chật ních ngay giữa phòng triển lãm, khiến người
xem khó có thể cảm nhận được không gian thiên nhiên xung
quanh nó. Chưa nói đến yếu tố cảm nhận văn hoá mà tác
phẩm này mang lại, khiến người ta liên tưởng nhiều đến văn
hoá phương Tây với những căn lều du mục.
Mặc dầu còn khá nhiều điều còn chưa ổn về chất lượng
nghệ thuật và đầu óc của những người kiểm duyệt. Trên một
phương diện chung Festival này thành công ngay cả khi mọi
hoài nghi vẫn còn nơi số đông công chúng cũng như mọi giới,
ngay trên mọi sức ép hiện có. Điều th ực sự đáng mừng là, nó
được diễn ra khi mọi tranh luận về thuật ngữ, khái niệm,
ranh giới, phạm vi,… đều chưa ngã ngũ. Có nhiều sự đóng
góp cũng như chia sẻ cho vấn đề này từ dư luận. Cũng như
gần đây, nhà phê bình mỹ thuật Phan Cẩm Thượng có h ướng
suy nghĩ rất cấp tiến cho những vấn đề tương tự. Đại loại,
Ông cho rằng nếu chúng ta cứ loay hoay mãi với kiểu câu h ỏi
“những cái đó có phải là nghệ thuật không? Nên hiểu nó nh ư
thế nào?... Nếu cứ tiếp tục vấn đáp như vậy thì chẳng bao
giờ hiểu được. Vấn đề là giải tán câu hỏi chứ không phải đi
tìm câu trả lời…”.
Festival mỹ thuật trẻ 2007 là khởi đầu cho việc chính th ức
thừa nhận những môn mới như installation, performance art,
video art,… của nghệ thuật đương đại? Nó đang trên con
đường chính thống hoá, hay vẫn chỉ là sự uốn mình để thích
nghi làm yên lòng những đòi hỏi chính đáng trong việc bình
thường hoá mọi nhu cầu thẩm mỹ của thời đại hôm nay?
Viễn cảnh nghệ thuật đương đại, ở đó sẽ tiếp tục có những
nghệ sĩ theo đuổi con đường nghệ thuật phi lợi nhuận.
Nhưng, bên cạnh đó sẽ có thêm những dự án, những cách làm
- khác từ việc tái lý giải nghệ thuật đương đại theo hướng có
lợi nhuận. Sự nảy nở đa hướng, về đại thể nó sẽ đảm bảo
cho sự phát triển phong phú. Nhưng phát triển đến đâu, phụ
thuộc phần lớn vào việc chúng ta thực sự quan tâm và đầu tư
cho nó như thế nào. Vì rằng, chúng ta muốn có một th ứ thực
sự là nghệ thuật hay nghệ thuật tương tự là tuỳ vào sự lựa
chọn.
nguon tai.lieu . vn