Xem mẫu
- Chương 6: PHƯƠNG PHÁP CHỮA LÀNH KHÔNG ĐỘC
HẠI
“Tất cả kiến thức của tôi được học bằng cách đứng trên vai
những thiên tài”.
– Bác sĩ Albert Schweitzer
Lý do tôi bắt đầu chương này với trích dẫn trên là vì tôi muốn làm rõ
rằng những liệu pháp điều trị này, về thực chất, không phải là “của tôi”.
Chúng được các chuyên gia y tế hành nghề tự do tạo ra, thử nghiệm và
đã được chứng minh có hiệu quả trong điều trị ung thư. Tôi chỉ tổng kết
giúp bạn những thông tin tiện dùng và dễ hiểu, vì gần như không thể tìm
ra được trong hàng triệu trang web về ung thư, phải lội qua những tuyên
truyền dối trá của mafia y tế, và nhận ra sự thật về liệu pháp điều trị ung
thư thay thế.
Toàn bộ chương này được dành cho các liệu pháp điều trị ung thư
thay thế không độc hại đã được chứng minh có hiệu quả nhất trong điều
trị ung thư cấp (giai đoạn III và IV). Tiêu đề của chương này làm nổi bật
sự khác biệt chính giữa liệu pháp điều trị ung thư chính thống và liệu
pháp điều trị ung thư thay thế. Không có ngoại lệ, tất cả các liệu pháp
điều trị ung thư chính thống đều độc hại, trong khi tất cả các liệu pháp
điều trị ung thư thay thế thành công đều không độc hại.
Trở lại năm 2006, báo chí dường như choáng váng thực sự khi Coretta
Scott King (góa phụ của mục sư Martin Luther King, Jr.) chết vì ung thư
tại một cơ sở điều trị ung thư thay thế ở Mexico. Những gì báo chí không
nêu ra là y học chính thống đã đầu hàng không chữa được cho bà và để bà
chết. Không có gì ngạc nhiên khi bà ấy muốn tìm kiếm thông tin về các
phương pháp thay thế. Thật đáng buồn, bà ấy đã quá muộn.
Sự thật là nhiều bệnh nhân chỉ tìm kiếm phương pháp thay thế sau
khi họ đã bị cắt bỏ, đầu độc và đốt cháy bởi Big 3. Đổ lỗi cho một phòng
khám ung thư thay thế cho cái chết của một bệnh nhân giai đoạn cuối khi
họ bước chân vào phòng khám cũng giống như đổ lỗi cho một nhân viên
cửa hàng ô tô làm tổn hại chiếc xe bạn kéo đến sau khi nó đã tan tành
trong một vụ va chạm nghiêm trọng. Nhưng thật không may, đây lại là
- thời điểm mà hầu hết bệnh nhân ung thư mới quyết định thử liệu pháp
điều trị ung thư thay thế.
Nếu bạn bị ung thư, tin vui là có hy vọng với liệu pháp điều trị ung
thư thay thế. Hy vọng thật sự. Không phải hy vọng dối trá mà bác sĩ cung
cấp cho bạn khi cố gắng thuyết phục bạn điều trị bằng Big 3. Hãy nhớ
rằng, đó là những gì họ đã được dạy ở trường y, nên đó là tất cả những
gì họ biết. Khi bác sĩ của bạn tỏ ra nghi ngờ về một liệu pháp chữa trị tự
nhiên mới, bạn có thể đặt cược là ông ấy chỉ nhai lại những điều dối trá
mà ông ấy đã đọc trên tạp chí y khoa mới nhất được Big Pharma tài trợ.
Sự thật đau lòng là mafia y tế hoàn toàn không quan tâm đến việc cứu
người. Theo Walter Last: “Có sự đàn áp quy mô lớn đối với các liệu pháp
điều trị ung thư tự nhiên, và bức hại các nhà trị liệu tự nhiên thành công.
Cái cớ cho việc đàn áp này là sự khẳng định liệu pháp điều trị ung thư tự
nhiên chưa được khoa học chứng minh là có hiệu quả, và điều trị như thế
thì dù vô hại cũng có thể trì hoãn điều trị ung thư chính thống đạt hiệu
quả cao hơn. Lập luận này thật nực cười nếu không phải là quá bi thảm
cho hàng triệu người phải chịu thiệt hại.”
Sao lại “không có bằng chứng khoa học chính thức” cho liệu pháp
điều trị thay thế? Điều quan trọng này cần được hiểu rõ. Theo Webster
Kehr, “lý do không có ‘bằng chứng khoa học chính thức cho liệu pháp
điều trị ung thư thay thế là vì chúng không đem lại lợi nhuận cao cho Big
Pharma. Theo luật, một chất chỉ được xem là có ‘bằng chứng khoa học’
nếu Big Pharma trình lên FDA, và họ sẽ chỉ trình nộp những thứ rất sinh
lời cho họ. Thế nên, hàng ngàn nghiên cứu về các chất tự nhiên đã chữa
hoặc điều trị khỏi ung thư không có ‘bằng chứng khoa học’ và bị chính
phủ phớt lờ, bởi chúng không được thực hiện dưới sự kiểm soát của Big
Pharma”.
Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực của mafia y tế nhằm ngăn chặn và
chà đạp hoàn toàn sự thật về những liệu pháp điều trị ung thư thay thế,
đôi khi thông tin về một liệu pháp điều trị hiệu quả vẫn thoát ra là nhờ
phần lớn vào Internet. Nhưng mafia đã chuẩn bị cho trường hợp như vậy
và có hẳn quy trình hoạt động tiêu chuẩn đối với những “rò rỉ” này.
Thông thường, họ xử lý theo một trong những cách sau đây:
Các bản giám định kết luận “không đáng tin” hay “hoang đường”.
Các liệu pháp điều trị ung thư thay thế bị bỏ qua và bị đàn áp.
- Các bệnh nhân được cho là đã trải qua “thuyên giảm tự phát” không
liên quan gì đến liệu pháp điều trị ung thư thay thế.
Các bệnh nhân được cho là được chữa khỏi bởi những tác động
chậm của liệu pháp điều trị ung thư chính thống.
Các bác sĩ thực hiện liệu pháp điều trị ung thư thay thế bị bức hại.
Đừng tin vào những lời nói dối của mafia y tế! Có một số liệu pháp
điều trị ung thư thay thế không độc hại hiệu quả với bệnh nhân ung thư
cấp. Tuy nhiên, do thực tế là Big Pharma bơm hàng tỷ đô la vào quảng
cáo mỗi năm, bạn có lẽ chỉ quen thấy liệu pháp điều trị ung thư Big 3.
Hầu hết các liệu pháp điều trị ung thư thay thế đều không tốn kém và
không thể cấp độc quyền nhãn hiệu, không cung cấp cho công nghiệp
ung thư một xu lợi tức nào; do đó, chúng gần như không có chút tiếng
tăm.
Hãy nhớ rằng, các liệu pháp điều trị thay thế thành công nhắm đến
các tế bào ung thư và không làm tổn hại các tế bào khỏe mạnh. Đây là sự
khác biệt cốt lõi giữa các phác đồ điều trị ung thư thay thế và các phác đồ
ung thư chính thống, dùng chất độc không chọn lọc (tức là tiêu diệt tất
cả mọi tế bào, kể cả tế bào khỏe mạnh). Liệu pháp điều trị ung thư thay
thế tập trung vào việc làm sạch cơ thể và kích thích hệ miễn dịch tự
nhiên với các chế độ ăn đặc biệt, thực phẩm bổ sung cũng như việc giải
độc và tăng cường ô-xy.
Các bác sĩ sử dụng liệu pháp thay thế coi ung thư là bệnh hệ thống
(liên quan đến toàn bộ cơ thể); họ tập trung vào việc điều trị gốc rễ của
bệnh, chứ không phải khối u, thứ chỉ đơn thuần là triệu chứng. Vậy tại
sao toàn bộ các bác sĩ không gia nhập trào lưu này và bắt đầu điều trị ung
thư bằng những liệu pháp thực sự hiệu quả?
Tôi đã nghiên cứu hơn 300 liệu pháp điều trị ung thư thay thế không
độc hại. Chương này tập trung vào các liệu pháp điều trị hiệu quả nhất
trong số đó. Nếu bị ung thư cấp tính, bạn bị coi là “giai đoạn cuối”. Bạn
không có thời gian để lãng phí với những liệu pháp điều trị ung thư chưa
được chứng minh. Thời gian đang dần cạn! Sau khi xem xét cẩn thận và
nghiên cứu rất nhiều, tôi trình bày chi tiết các liệu pháp điều trị ung thư
không độc hại hiệu quả nhất trong chương này. Một số là những liệu
pháp điều trị độc lập trong khi những liệu pháp khác có thể kết hợp.
- Những liệu pháp điều trị trong chương này được liệt kê theo thứ tự
bảng chữ cái (tiếng Anh), chứ không phải theo tỷ lệ thành công của
chúng. Thành thật mà nói, đây là những liệu pháp điều trị mà nếu tôi bị
ung thư cấp, tôi sẽ nghĩ đến. Có chắc chắn thành công không? Không thể
chắc chắn được. Nhưng nếu bị ung thư cấp, gần như bạn đã được kết
“án tử hình” từ bác sĩ và cơ bản là bạn có 0% cơ hội sống sót nếu theo
liệu pháp điều trị ung thư chính thống.
Trừ khi có quy định khác, các liệu pháp điều trị ung thư không độc hại
tiên tiến này không bao giờ được kết hợp, ngoại trừ trong thử nghiệm
lâm sàng. Đây là do liều lượng cho các liệu pháp điều trị này được thiết
lập dựa trên khả năng cơ thể loại bỏ các tế bào ung thư chết. Bằng cách
kết hợp các liệu pháp điều trị tại nhà, số lượng tế bào ung thư chết có
thể là quá cao và có thể xảy ra độc tính.
Nếu bạn quyết định điều trị với một (hoặc nhiều hơn) trong các liệu
pháp điều trị này tại nhà, điều quan trọng là bạn phải làm xét nghiệm
chính thức (trước, trong, và sau) để đảm bảo hết ung thư hoàn toàn trước
khi ngừng điều trị. Tôi khuyên bạn nên xét nghiệm AMAS2. Không giống
như các xét nghiệm CEA3 và PSA4, xét nghiệm AMAS đo một kháng thể
được xác định rõ.
Aloe Arborescens
Năm 1988, trong khi đứng đầu chủ trì khu phố ổ chuột của Rio
Grande do Sul, Brazil, Cha Romano Zago (học giả và tu sĩ dòng Phanxicô)
đã học được từ người bản xứ địa phương một công thức hoàn toàn tự
nhiên và hiệu nghiệm bắt nguồn từ cây Aloe Arborescens, mà họ sử dụng
để tăng cường sức khỏe miễn dịch. Ông bắt đầu giới thiệu cho bạn bè và
nhà thờ, và đây là nơi ông lần đầu quan sát thấy những kết quả tích cực
từ Aloe Arborescens.
Zago được cử đến Jerusalem và Ý, tại đó ông tiếp tục chứng kiến
thành công to lớn trong việc cải thiện hệ miễn dịch của những người sử
dụng công thức làm từ toàn bộ lá của cây Aloe Arborescens mọc tự nhiên
ở các vùng đó. Điều này khích lệ ông cống hiến cuộc đời mình cho
nghiên cứu và giáo dục về Aloe Arborescens vì lợi ích của nhân loại trên
toàn thế giới. Cuối cùng, Zago đã xuất bản hai cuốn sách về công thức
Aloe Arborescens Brazil như sau:
- 1. Nửa kg mật ong nguyên chất (không phải mật ong tổng hợp hoặc
tinh chế)
2. 350 gam lá Aloe Arborescens (khoảng 3 hoặc 4 lá, tùy thuộc vào
kích thước của lá).
3. 40-50 ml (6-8 thìa cà phê) sản phẩm chưng cất cồn (uýt-ki, rượu
cô-nhắc, hoặc cồn nguyên chất khác) để bảo quản sản phẩm và có tác
dụng làm giãn mạch máu. Các sản phẩm chưng cất chỉ chiếm 1% trong
công thức, nhưng rất quan trọng.
Liều lượng tính bằng thìa canh, một thìa canh là một liều. Dùng mỗi
lần một liều, ba lần một ngày (tức là, ba thìa canh mỗi ngày). Uống khi
bụng đói, 10 đến 20 phút trước bữa ăn. Lắc chai thật kỹ trước khi rót ra
thìa. Và nhớ rằng thuốc không bao giờ được tiếp xúc trực tiếp với ánh
sáng mặt trời. Trong thực tế, khi sử dụng thuốc phải cố gắng tránh tối đa
mọi loại ánh sáng. Uống ngay lập tức sau khi rót thuốc ra thìa.
Nói chung, thuốc phải được bảo quản ở chỗ tối và mát mẻ. Liệu
pháp điều trị này sẽ làm sạch cơ thể của bạn. Giống như với mọi phác
đồ thải độc, có thể sẽ có một số trải nghiệm khó chịu. Có thể phải trải
qua một loạt các triệu chứng giải độc. Điều quan trọng là bệnh nhân
không được ngừng phác đồ điều trị cho đến khi ung thư thuyên giảm
hoàn toàn. Nếu không, ung thư sẽ có khả năng tái phát.
Vì là sản phẩm thực vật nguyên chất (gồm mật ong và một sản phẩm
chưng cất), nên nó có thể được bổ sung vào bất kỳ điều trị không độc hại
nào khác. Trong thực tế, đây là một điều trị “bổ sung” tuyệt vời để sử
dụng kết hợp với các phác đồ khác. Mặc dù tôi ghét đề cập đến hóa trị
liệu, nhưng phác đồ này có thể kết hợp với hóa trị và làm giảm đáng kể
các tác dụng phụ. Liệu pháp này cũng đã được chứng minh là làm nhẹ
bớt ảnh hưởng của xạ trị.
Công thức có vẻ khá đơn giản, nhưng nếu bạn thực sự muốn làm ở
nhà thì có nhiều quy tắc quan trọng về việc khi nào cắt lá, xử lý lá ra sao,
v.v.. Nếu quyết định làm ở nhà, bạn cần đọc cuốn sách của Zago mang
tên Cancer Can Be Cured! (Có thể chữa khỏi ung thư!). Cuốn sách cũng
đưa ra một thư mục bách khoa thông tin hiện đại về các nghiên cứu khoa
học và các chứng thực đặc tính chữa bệnh của Aloe arborescens.
Đã có nhiều công bố nghiên cứu khoa học và tài liệu về lợi ích tổng
hợp của 300 liệu pháp thảo dược hóa sinh và thành phần dinh dưỡng của
nha đam trong việc tăng sức đề kháng của cơ thể và thúc đẩy hệ miễn
- dịch cũng chống lại bệnh tật. Tuy nhiên, đây là cuốn sách đầu tiên tiết lộ
tiềm năng được tìm thấy trong thành phần của “cây họ hàng” là Aloe
Arborescens, trong đó có chứa nhiều hơn 200% các chất dược liệu so với
cây nha đam và gần như nhiều hơn đến 100% đặc tính chống ung thư.
Zago cũng đã viết một cuốn sách khác (về các bệnh khác không phải
ung thư) mang tên Aloe Isn’t Medicine, and Yet… It Cure (Aloe không phải
là thuốc, thế nhưng… chữa khỏi bệnh).
Các liệu pháp ô-xy hóa sinh học
Cơ thể có thể tồn tại vài tuần không thức ăn, vài ngày không nước
uống, nhưng chỉ vài phút nếu không có ô-xy. Cơ thể chúng ta được cấu
tạo chủ yếu là nước, trong đó hơn 90% là ô-xy. Mỗi tế bào của cơ thể
đòi hỏi được cung cấp ô-xy không ngừng để nuôi các phản ứng hóa học
tạo ra năng lượng, giải độc chất thải, và duy trì sản sinh các thành phần
cấu trúc tế bào. Bạn có nhớ giải Nobel của Otto Warburg không? Nó
được dựa trên nghiên cứu của ông về các sắc tố tế bào trong hô hấp tế
bào. Ông tin tưởng chắc chắn rằng tất cả các bệnh thoái hóa là kết quả
của sự thiếu ô-xy ở cấp độ tế bào. Câu nói của ông thường được trích
dẫn là: “Ung thư chỉ có một nguyên nhân chính. Đó là sự thay thế hô hấp
ô-xy bình thường của các tế bào trong cơ thể bằng hô hấp kị khí của tế
bào.”
Bác sĩ Warburg chỉ ra rằng chất nào lấy đi ô-xy của tế bào là chất gây
ung thư. Năm 1966, ông tuyên bố rằng việc đi tìm các chất gây ung thư
mới là vô ích, bởi vì kết quả cuối cùng của mỗi lần tìm là như nhau, tế
bào bị tước đi ô-xy. Ông cũng nói thêm rằng việc tìm kiếm không ngừng
các chất gây ung thư mới là phản tác dụng vì nó che khuất nguyên nhân
chính, thiếu ô-xy, và do đó ngăn cản điều trị thích hợp. Một khi mức độ
ô-xy có sẵn cho một tế bào giảm xuống dưới 40% so với bình thường, tế
bào buộc phải chuyển sang phương pháp kém hơn để sản xuất năng
lượng gọi là lên men. Khi đó tế bào mất đi sự điều chỉnh sao chép vì tự
kích thích với các yếu tố tăng trưởng (như IGF) để đáp ứng tình trạng
thiếu ô-xy.
Định nghĩa đơn giản, “ô-xy hóa” là sự tương tác giữa ô-xy và bất kỳ
chất nào nó tiếp xúc. Thở ô-xy là một quá trình “ô-xy hóa”. Không thể có
cuộc sống nếu không có quá trình ô-xy hóa. Cơ thể sử dụng ô-xy hóa như
tuyến đầu tiên bảo vệ chống lại vi khuẩn, vi-rút, nấm men và ký sinh
trùng. Khi chúng ta sử dụng những nguyên lý chính của ô-xy hóa để mang
- lại những cải thiện trong cơ thể, việc đó được gọi là “liệu pháp ô-xy
hóa”.
Hầu hết các phản ứng sinh hóa trong cơ thể là “cân bằng” thông qua
các cơ chế khử. Khử có nghĩa là giảm ô-xy hóa. Bất cứ khi nào một chất
bị “giảm” (thu electron), thì thứ khác phải bị “ô-xy hóa” (tức là mất đi
electron) để các phản ứng giữ “cân bằng”. Một ví dụ, ô-xy hóa là quá
trình gây gỉ kim loại (ô-xy hóa chậm) hoặc cháy (ô-xy hóa nhanh).
Có hai chất tự nhiên đơn giản sử dụng trong lâm sàng đã được ghi
nhận trong các tài liệu y tế kể từ năm 1920 và đã được chứng minh hiệu
quả trong điều trị một số bệnh nguy hiểm phổ biến nhất, gồm cả bệnh
tim, ung thư và AIDS. Đó là hydrogen peroxide và ô-zôn (O3), được sử
dụng trong chữa bệnh gọi chung là “các liệu pháp ô-xy hóa sinh học”.
Nhà nghiên cứu hàng đầu về các liệu pháp ô-xy hóa sinh học là bác sĩ
Charles H. Farr, người được đề cử giải Nobel Y học năm 1993 cho công
trình của mình.
Triết lý đằng sau liệu pháp ô-xy hóa sinh học rất đơn giản. Nếu hệ
thống ô-xy của cơ thể bị yếu hoặc thiếu (do không tập thể dục, chế độ
ăn uống không lành mạnh, ô nhiễm môi trường, hút thuốc lá, hoặc thở
không đúng), cơ thể không thể loại bỏ thỏa đáng các độc tố. Các liệu
pháp ô-xy hóa sinh học được sử dụng để cung cấp cho cơ thể ô-xy dạng
tích cực (uống, tiêm tĩnh mạch, hoặc qua da) để loại bỏ độc tố và chống
lại bệnh tật.
Khi peroxide hydrogen hoặc ô-zôn trong cơ thể tách nhỏ thành vô số
gốc ô-xy hóa phụ khác nhau, chúng tiếp xúc với vi sinh vật kị khí (vi sinh
vật có khả năng sống không cần có không khí), cũng như các tế bào mô
thiếu hụt hoặc bị bệnh. Nó chỉ ô-xy hóa các tế bào này trong khi không
đụng đến các tế bào khỏe mạnh nguyên vẹn. Khi cơ thể trở nên bão hòa
với những hình thức đặc biệt này của ô-xy, nó đạt đến trạng thái tinh
khiết trong đó các vi sinh vật gây bệnh bị tiêu diệt, trong khi độc tính cơ
bản bị ô-xy hóa và loại bỏ. Kết quả là tạo ra một hệ miễn dịch mạnh
hơn và cải thiện toàn bộ đáp ứng miễn dịch.
Ô-zôn được Fridereich Schonbein phát hiện vào năm 1840. Nó là ô-xy
trong “mối quan hệ tay ba”, một hình thức kích hoạt ô-xy với ba nguyên
tử. Ban đầu, ô-zôn được sử dụng để khử trùng vết thương trong Thế
chiến thứ nhất. Liệu pháp ô-zôn làm tăng tốc độ chuyển hóa ô-xy và kích
thích giải phóng các nguyên tử ô-xy trong máu. Trong khoảng thời gian
- 20-30 phút, ô-zôn tách ra thành hai nguyên tử ô-xy bình thường và một
nguyên tử ô-xy đơn có tính ô-xy hóa. Chính ô-xy đơn này nhắm vào các tế
bào bị bệnh.
Điều đã được minh chứng là ô-zôn có thể “làm nổ tung” các lỗ xuyên
qua màng của các vi-rút (HIV), nấm, men, vi khuẩn và các tế bào mô bất
thường (tế bào ung thư) trước khi tiêu diệt chúng, mà không làm tổn hại
các mô bình thường. Ô-zôn là trọng tâm của nhiều nghiên cứu trong
những năm 1930 ở Đức, tại đó ô-zôn đã được sử dụng thành công để
điều trị cho bệnh nhân bị viêm ruột, viêm loét đại tràng, bệnh Crone, và
tiêu chảy mãn do vi khuẩn.
Ô-zôn y tế được làm từ ô-xy tinh khiết kết hợp với năng lượng điện
(sử dụng một máy phát ô-zôn) để tạo thành ô-zôn. Ô-zôn có thêm một
phân tử ô-xy (ô-xy đơn) mà nó không muốn ở đó, vì vậy nó tách ra và cố
gắng liên kết với các phần tử khác như carbon monoxide (rất nguy hiểm)
và biến nó thành carbon dioxide (cơ thể biết phải làm gì với nó). Cơ thể
chúng ta thích ô-xy, cho nên ô-xy đơn đó bị ăn ngấu nghiến bởi mọi thứ
tốt trong cơ thể và tiêu hủy mọi thứ xấu, vì tác nhân gây bệnh như vi
khuẩn, vi-rút, nấm mốc, nấm, ký sinh trùng, và ung thư rất ghét ô-zôn.
Sau khi ô-xy đơn biến mất, thì còn lại ô-xy.
Vậy, làm thế nào đưa được ô-zôn vào cơ thể? Một phương pháp
tuyệt vời là thông qua ô-zôn IV (tiêm một chất lỏng bão hòa ô-zôn vào
máu). Một phương pháp hiệu quả là liệu pháp autohemotherapy (qua chai
truyền dịch), 10-15 ml máu được lấy ra khỏi cơ thể, bão hòa với ô-zôn,
và sau đó đưa trở lại vào cơ thể. Có lẽ liệu pháp ô-zôn hiệu quả nhất
trong tất cả là tắm hơi ô-zôn, với ứng dụng kép của ô-zôn và thân nhiệt
cao. Tiêm trực tiếp thì mạnh, nhưng gần như không có sẵn như tắm hơi
ô-zôn, thứ mà hầu như người nào cũng có thể sử dụng tại nhà cho bản
thân và gia đình rất tuyệt vời.
Hãy nhớ rằng, năng lượng của ô-zôn thực hiện công việc này. Do đó,
ô-zôn luôn được coi là liệu pháp điện (electrotherapy). Như Tesla nói, ô-
xy chỉ là vật dẫn điện vào cơ thể. Ô-zôn kích thích sự sản xuất các
cytokine. Cytokine là các “tế bào sứ giả” như các protein kháng vi-rút và
chất sát khuẩn trong bạch cầu, kích hoạt phản ứng của những thay đổi
tích cực trong toàn hệ miễn dịch. Việc tăng cường sự có mặt của ô-xy
lần lượt hỗ trợ các chức năng trao đổi chất và giải độc của tất cả các cơ
quan trong cơ thể.
- Như tôi đã đề cập, không giống như phần lớn các vi khuẩn, nấm và
vi-rút, Chúa đã thiết kế cơ thể chúng ta để tự bảo vệ đối với phản ứng
của ô-xy đơn. Đó là nhờ việc sản xuất tế bào của enzyme phòng thủ
[superoxide dismutase (SOD), glutathione peroxidase (GPx), glutathione
reductase (GR), và catalase]. Để tạo ra các enzyme này cần một lượng
năng lượng thích hợp, nhưng tế bào ung thư yếu ớt sẽ không có năng
lượng để tạo ra chúng. Thế nên, nó bị ô-xy đơn tấn công.
Theo đó ô-zôn không làm hại các tế bào khỏe mạnh, nhưng có “tính
diệt khuẩn, diệt nấm và diệt vi-rút rất rõ rệt và vì thế được sử dụng
rộng rãi trong khử trùng vết thương, cũng như vi khuẩn và vi-rút gây
bệnh” (R. Viebahn Haensler, The Use of Ozone in Medicine ‒ Sử dụng Ô-
zôn trong y học). Ô-zôn chọn lọc chất độc, thế nên kết quả cuối cùng là
liệu pháp ô-zôn diệt vi khuẩn, vi-rút, nấm, và men có hại nhưng không
đụng đến các tế bào khỏe mạnh.
Tạp chí Science ngày 22 tháng 8 năm 1980, có một báo cáo do một số
bác sĩ y khoa viết (Sweet, Kao, Hagar, và Lee) tựa đề Ozone Selectively
Inhibits Growth of Human Cancer Cells (Ô-zôn chọn lọc ức chế sự tăng
trưởng của tế bào ung thư ở người). Báo cáo nói: “Sự phát triển của các
tế bào ung thư ở người đến từ ung thư phổi, vú và tử cung đã được ngăn
chặn một cách chọn lọc với liều phụ thuộc ô-zôn ở 0,3 đến 0,8 phần
triệu ô-zôn trong không khí xung quanh trong tám ngày nuôi cấy. Nhị bội
nguyên bào sợi phổi người hoạt động như những tế bào kiểm soát không
ung thư. Sự hiện diện của ô-zôn ở 0,3 đến 0,5 phần triệu đã ức chế sự
tăng trưởng của tế bào ung thư tương ứng 40% và 60%. Các tế bào phổi
không ung thư không bị tác động ở những mức này. Tiếp xúc với ô-zôn
tại 0,8 phần triệu ức chế sự tăng trưởng tế bào ung thư hơn 90% và
kiểm soát sự tăng trưởng của tế bào nhỏ hơn 50%. Rõ ràng cơ chế phòng
vệ chống lại ô-zôn gây tổn hại đang bị suy giảm trong các tế bào ung thư
ở người.” Bằng chứng từ những nghiên cứu này của các bác sĩ là không
thể chối cãi.
Cả EPA (Cục bảo vệ môi trường Mỹ) và FDA thừa nhận khả năng ô-
xy hóa của ô-zôn là hơn 99,99% cho tất cả tác nhân gây bệnh qua đường
nước.
Ô-zôn đã được sử dụng vào mục đích sức khỏe từ năm 1860, và hiện
đang được sử dụng tại hơn 16 quốc gia. Sử dụng rộng rãi nhất là ở Đức,
nơi có hơn 7.000 bác sĩ đã điều trị cho hơn 12 triệu người kể từ Thế
- chiến thứ hai. Tuy nhiên, bạn cũng có thể đoán được, FDA không cho
phép thử nghiệm ô-zôn, và đã ngược đãi các bác sĩ sử dụng nó.
Theo bác sĩ Hans Nieper, người đã sử dụng ô-zôn ở Hanover, Đức:
“Bạn sẽ không tin có bao nhiêu quan chức FDA hay họ hàng người quen
của các quan chức FDA đến chỗ tôi khám ở Hanover đâu. Bạn sẽ không
tin điều này, họ hoặc là các giám đốc của AMA hoặc ACA, hoặc các chủ
tịch của các viện ung thư chính thống. Đó là một thực tế.” Ngoài ra,
nhiều người nổi tiếng đến Đức để được bác sĩ Nieper điều trị, có cả
Tổng thống Ronald Reagan, Sir Anthony Quinn, William Holden, John
Wayne, Yul Brynner.
Hydrogen peroxide (H2O2) tham gia tất cả các quá trình quan trọng
của cuộc sống và phải có mặt trong hệ miễn dịch giúp hệ này hoạt động
bình thường. Sữa non (trong sữa mẹ) có nồng độ H2O2 rất cao. Các tế
bào trong cơ thể làm nhiệm vụ chống nhiễm trùng sản xuất H2O2 tự
nhiên như tuyến đầu bảo vệ chống lại sự xâm nhập của sinh vật (như ký
sinh trùng, vi rút, vi khuẩn, và men). Bác sĩ Charles Farr đã chỉ ra rằng
H2O2 kích thích hệ thống enzyme ô-xy hóa trong cơ thể, gia tăng mức độ
trao đổi chất, làm các động mạch nhỏ giãn ra và tăng lưu lượng máu, tẩy
sạch độc tố, tăng nhiệt độ cơ thể, và tăng cường phân phối và tiêu thụ ô-
xy của cơ thể. H2O2 cũng kích thích sản xuất các tế bào bạch cầu rất
cần thiết để chống nhiễm trùng.
Vào những năm 1950, bác sĩ Reginald Holman đã tiến hành các thí
nghiệm liên quan đến việc sử dụng H2O2 bổ sung vào nước uống của
những con chuột có khối u ung thư. Các khối u đã biến mất hoàn toàn
trong vòng 15 đến 60 ngày. Vào những năm 1960, các bác sĩ châu Âu bắt
đầu kê H2O2 cho bệnh nhân. Ngay lập tức, việc sử dụng H2O2 đã trở
thành một phần được chấp nhận của y tế chủ đạo ở Đức, Nga và Cuba.
Trong một bài báo, bác sĩ Kurt Donsbach viết: “30 gam 35% hydrogen
peroxide (cho mỗi 3,785 lít nước) trong bình phun hơi mỗi đêm trong
phòng ngủ khí thũng sẽ giúp người ta hít thở thoải mái hơn! Tôi làm điều
này cho bệnh nhân ung thư phổi của mình.”
Đã bao giờ bạn tự hỏi tại sao H2O2 sùi bọt khi bạn đổ nó vào vết
thương? Lý do nó sùi bọt là vì máu và các tế bào chứa một loại enzyme
gọi là “catalase”. Vì vết cắt hoặc vết xước có chứa cả máu và các tế bào
bị tổn thương, nên có rất nhiều catalase trôi nổi xung quanh. Khi catalase
tiếp xúc với hydrogen peroxide, nó sẽ biến hydrogen peroxide (H2O2)
- thành nước (H2O) và khí ô-xy (O2). Catalase làm việc này cực kỳ hiệu
quả, lên tới 200.000 phản ứng trong một giây! Những bong bóng bạn
nhìn thấy trong bọt là bong bóng ô-xy tinh khiết được catalase tạo ra.
Một phương pháp tuyệt vời để cung cấp H2O2 là cho H2O2 yếu, rất
tinh khiết (0,0375% hoặc nồng độ thấp hơn) vào dung dịch nước đường
hoặc muối, giống như sử dụng truyền tĩnh mạch ở bệnh viện. Truyền
liều 50 đến 500 ml từ từ vào tĩnh mạch lớn, thường ở cánh tay, trong
khoảng thời gian 1 đến 3 giờ tùy thuộc vào lượng ấn định và điều kiện
của bệnh nhân. Thường điều trị khoảng một lần một tuần cho bệnh mạn
tính, nhưng có thể sử dụng hằng ngày đối với bệnh nhân HIV và ung thư.
Bác sĩ sẽ xác định tổng số lần xử lý cần thiết để điều trị tình trạng cụ
thể của bạn. Hơn nửa thế kỷ qua, hàng chục ngàn bệnh nhân đã được
điều trị H2O2 mà không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng hydrogen peroxide mua ở cửa hàng tạp
hóa chứa hóa chất độc hại. Nó chỉ dành để sử dụng ngoài da. Bệnh nhân
ung thư nên tránh xa dạng này của H2O2. Ngoài ra, bệnh nhân ung thư sử
dụng H2O2 bên trong cơ thể cũng nên sử dụng một enzyme phân hủy
protein chất lượng (như Vitälzym), nó sẽ cắt qua lớp phủ protein trên tế
bào ung thư và cho phép H2O2 thâm nhập xuyên qua thành tế bào. Nếu
đang theo chế độ ăn Budwig, bạn nên tránh ăn thực phẩm cung cấp H2O2
vì sự tương tác của các chất béo với H2O2 có thể gây tổn hại dạ dày.
Gần 200 năm trước, dưới thời trị vì của Nữ hoàng Victoria, người dân
Ấn Độ (thuộc địa của Anh khi đó) nhận thấy cho thêm lượng nhỏ H2O2
vào nước uống có thể chữa khỏi nhiều bệnh như cảm lạnh, cúm, tả và
sốt rét. Sự hiểu biết này đe dọa việc bán thuốc của “Big Pharma Anh”, vì
vậy nước Anh đã gửi một nhân viên “đặc vụ” đóng giả bác sĩ và tuyên bố
rằng H2O2 gây tổn thương não do vi-rút. Ông ta thậm chí còn dựng lên
câu chuyện về một em bé (không tồn tại) đã chết vì tổn thương não sau
khi uống H2O2. Do xuất phát từ một “bác sĩ”, nên câu chuyện bịa đặt đó
đã được chấp nhận là “thật”, và người dân Ấn Độ đã bắt đầu mua các
loại thuốc của Anh.
Nghe quen quen, phải không? Kỹ thuật tương tự như thế vẫn đang
được mafia y tế sử dụng ngày nay. Bất chấp số lượng lớn các dữ liệu
khoa học xác nhận những hiệu ứng sinh học và hóa học tuyệt vời của ô-
zôn và hydrogen peroxide, một mảng lớn trong ngành y tế vẫn tiếp tục
- bỏ qua hoặc cố tình phớt lờ những liệu pháp điều trị cực kỳ đơn giản và
không tốn kém.
Một phòng khám có sử dụng các liệu pháp ô-xy hóa sinh học là Trung
tâm điều trị y tế thay thế và chống lão hóa Nevada của bác sĩ Frank
Shallenberger, ở thành phố Carson, Nevada. Theo bác sĩ Shallenberger, ô-
zôn và hydrogen peroxide thực sự làm tăng hiệu quả của hệ enzyme
chống ô-xy hóa, dọn sạch các gốc tự do dư thừa trong cơ thể. Ngoài ra
còn tăng cường miễn dịch tế bào. Trang web của họ là
www.antiagingmedicine.com. Một phòng khám tuyệt vời khác là Chăm sóc
Y tế và Phục hồi, do bác sĩ Ross Hauser điều hành, ở Illinois. Trang web
của họ là www.CaringMedical.com.
Cuối cùng, nếu quyết định sử dụng liệu pháp ô-zôn, bạn phải liên hệ
với bác sĩ Saul Pressman, người mà tôi gọi là “bậc thầy ô-zôn”. Ông điều
hành nhóm thư điện tử: ozonetherapy@yahoogroups.com. Chỉ cần tham
gia nhóm và gửi email cho bác sĩ Pressman với bất kỳ câu hỏi nào. Ông
cực kỳ nhiệt tình và luôn sẵn sàng giúp đỡ. Ông cũng đã giúp tôi về các
thông tin trong phần này của cuốn sách.
Phác đồ Bob Beck
Phác đồ Bob Beck khởi đầu là liệu pháp điều trị điện y cho bệnh
AIDS; tuy nhiên, nó có tiềm năng đáng kinh ngạc để trở thành liệu pháp
điều trị xuất sắc đối với ung thư cấp.
Trở lại năm 1990, hai bác sĩ William D. Lyman và Steven Kaali đã
khám phá ra rằng một dòng điện nhỏ có thể vô hiệu hóa các vi sinh sinh
sôi nảy nở, theo đó làm cho chúng bị trơ hoặc vô hại. Đây là một trong
những khám phá vĩ đại nhất trong lịch sử y học bởi vì hầu như tất cả các
bệnh đều do một loại vi sinh gây ra hoặc làm nặng thêm. Phát hiện này là
phép chữa bệnh cho gần như tất cả các bệnh được biết đến ở loài
người.
Song, mặc dù công nghệ của họ được dẫn chứng rõ ràng bằng tài
liệu, nhưng y học chính thống không quan tâm đến khám phá này. Y học
chính thống quan tâm đến “điều trị” chứ không phải là “chữa bệnh” bởi
“điều trị” một người mang lại nhiều lợi nhuận hơn là “chữa bệnh” cho
họ.
Beck qua đời năm 2002, ông là Tiến sĩ vật lý và đã có 30 năm nghiên
cứu điện y. Ông đã nghiên cứu khám phá của Lyman và Kaali và tìm ra
phương pháp không xâm lấn để sử dụng.
- Theo Beck, “Tôi đọc được một bài báo trên Science News công
bố ngày 30 tháng 3 năm 1991. Trang 207 mô tả phương pháp xử lý
“gây sốc” cho bệnh AIDS được Cao đẳng Y Albert Einstein tại New
York đề xuất, trong đó vô tình phát hiện ra cách chữa trị tất cả các
chủng loại AIDS. Vì vậy, tôi quan tâm vấn đề này, và tôi thấy bài
viết về chữa AIDS đã được trình bày tại Hội nghị chung về các liệu
pháp kết hợp ở Washington DC, vào ngày 14 tháng 3 năm 1991, tại
Hội nghị chuyên đề quốc tế đầu tiên về liệu pháp kết hợp.
Khi cố tìm một bản sao bài viết này để xem nội dung, tôi thấy
họ đã thủ tiêu toàn bộ hoặc đã cắt xén. Chúng tôi đã thuê một thám
tử tư và có được bản tóm tắt cá nhân của một người tham dự hội
nghị. Tôi cũng tiến hành tìm kiếm trên máy tính và chỉ có duy nhất
một kết quả đề cập đến công nghệ này là bài báo “Vượt ngoài giới
hạn” trong tạp chí Longevity, số ra tháng 12 năm 1992. Họ nói rằng
bác sĩ Steven Kaali thuộc Cao đẳng Y Albert Einstein đã tìm ra cách
ức chế AIDS trong máu, nhưng cần nhiều năm thử nghiệm trước khi
có thể sử dụng thiết bị diệt vi-rút. Nói cách khác, họ phát hiện ra và
sau đó cố che đậy ngay lập tức.
Nhưng đã xảy ra một điều rất khôi hài. Hai năm sau, một bằng
sáng chế bất ngờ xuất hiện. Cục sáng chế Mỹ đã mô tả toàn bộ quá
trình. Bạn có thể xem bằng sáng chế số #5188738 trong đó bác sĩ
Kaali mô tả quá trình làm suy yếu bất kỳ vi khuẩn hoặc vi-rút nào
(bao gồm cả AIDS/HIV), ký sinh trùng và tất cả các loại nấm chứa
trong máu, khiến chúng bị vô hiệu khi lây nhiễm tế bào của người
khỏe mạnh bình thường. Đây là tài liệu chính phủ! Đó là năm 1990!
Tại sao họ không nói với công chúng về điều đó? Tôi quyết định
nếu có một ca chắc chắn chữa khỏi AIDS, tôi phải tìm hiểu về nó.
Khi nghiên cứu công trình của bác sĩ Kaali, tôi quyết định xúc
tiến và tài trợ công trình này. Chúng tôi nhận thấy nó luôn hoạt động
hiệu quả. Sau đó, tôi phát hiện ra rằng công nghệ này có một lịch sử
lâu dài. Chúng tôi lần ngược 107 năm theo dấu vết của bằng sáng
chế này! Chúng tôi tìm thấy một bằng sáng chế, số 4665898, sáng
chế này chữa khỏi tất cả các loại ung thư, đề ngày 19 tháng 5 năm
1987.
Tại sao việc này bị ỉm đi? Tại sao bác sĩ không nói cho bạn biết
về một phương pháp chữa ung thư đã được kiểm chứng? Câu trả lời
- là các bác sĩ thu về 375.000 đô-la từ mỗi bệnh nhân phẫu thuật, sử
dụng hóa trị, chụp X-quang, nhập viện. Đây là số liệu thống kê
chính thức từ Bộ Thương mại Mỹ. Thật không may, chữa khỏi cho
bệnh nhân đồng nghĩa mất khách hàng”.
Ban đầu, nghiên cứu của bác sĩ Beck đã phải thực hiện bên ngoài
nước Mỹ. Máy điện y đầu tiên của ông gọi là máy lọc máu hay máy kích
điện máu. Máy kích điện máu tạo ra một dòng điện xoay chiều rất nhỏ
phá hủy enzyme chính trên bề mặt vi sinh và ngăn ngừa nó sinh sôi nảy
nở. Cơ thể đào thải vi sinh vô hiệu một cách an toàn.
Thế nhưng, bác sĩ Beck phát hiện ra trong một số trường hợp, vi-rút
ẩn náu trong cơ thể và không hoạt động, do đó không lưu thông cùng với
máu. Sau đó, ông đã phát triển máy điện y thứ hai (máy xung điện từ) để
vô hiệu hóa các vi sinh không lưu thông trong máu. Phác đồ của bác sĩ
Beck cũng bao gồm chất keo bạc và nước ô-zôn. Vì phác đồ này có khả
năng tiêu diệt cả các vi khuẩn “thân thiện” trong đường tiêu hóa, nên bạn
phải xem xét bổ sung thêm một số chế phẩm sinh học mạnh vào chế độ
ăn.
Có ít nhất một người đã bị tống giam vì bán máy theo phác đồ Bob
Beck và hai người khác đã chết một cách bí ẩn. Bob Beck tin rằng liệu
pháp điều trị của ông loại bỏ hẳn các loại vi sinh từ cơ thể của một
người cũng là phương pháp hiệu nghiệm để khôi phục lại hệ miễn dịch
của người đó. Ông cảm nhận rằng đó là lý do quan trọng khiến phương
pháp này cực kỳ thành công trên bệnh nhân ung thư.
QUAN TRỌNG: Không liệu pháp điều trị ung thư thay thế nào hoặc
điều trị ung thư chính thống nào có thể được sử dụng cùng với phác đồ
Bob Beck. Tất cả các liệu pháp điều trị ung thư khác phải được dừng lại
ít nhất hai ngày trước khi bắt đầu phác đồ Bob Beck. Phác đồ Bob Beck
phải được sử dụng riêng. Không thuốc kê đơn, không thảo mộc, v.v..
Nếu bạn quyết định sử dụng phác đồ Bob Beck, vui lòng truy cập
www.cancertutor.com/Cancer02/BobBeck.html. Hãy xem kỹ danh sách các
“chất cấm” cũng như đọc toàn bộ bài viết.
Phương thuốc nho Brandt/Kehr
Trong những năm 1920, Johanna Brandt ở Nam Phi cho biết bà đã
chữa khỏi ung thư dạ dày bằng thứ bà gọi là phương thuốc nho. Một vài
năm sau đó, bà viết một cuốn sách hấp dẫn tiết lộ các chi tiết cụ thể về
- việc làm thế nào bà tự thoát khỏi ung thư. Về cơ bản, Brandt ăn nho, rất
nhiều nho, ăn cả vỏ và hạt. Thì ra, nho có chứa một chất gọi là
resveratrol.
Theo nhà nghiên cứu nổi tiếng, bác sĩ John Pezzuto của Đại học
Illinois tại Chicago, chất phenol tự nhiên được tìm thấy này “có nhiều
cách tác động, ức chế sự phát triển ung thư ở nhiều giai đoạn khác nhau,
đó là điều đáng chú ý”. Người ta cũng tin rằng resveratrol kích hoạt gen
p53 gây ra quá trình chết tự nhiên ở tế bào. Ngoài resveratrol, nho (đặc
biệt là nho Concord tía) còn chứa nhiều chất dinh dưỡng khác có tác dụng
diệt tế bào ung thư, chẳng hạn như axit ellagic, lycopene, selenium,
catechin, quercetin, axit gallic, và vitamin B17. Thật là một kho vũ khí
tuyệt vời để chống ung thư!
Nhiều thứ đã thay đổi kể từ khi Brandt công bố chế độ ăn với
phương thuốc nho của bà vào những năm 1920, tôi đã theo chế độ ăn này
dựa trên khuyến nghị của Webster Kehr; do vậy, tôi gọi là Phương thuốc
nho Brandt/Kehr. Ví dụ, một lượng nhỏ khoáng chất trong đất hầu như
đã bị cạn kiệt trong vòng nửa thế kỷ qua, còn clo và flo thì được bổ sung
vào hệ thống cấp nước. Tôi đề cập đến chuyện này vì toàn bộ nước ép
nho, gồm cả nho sạch, có thể đã được pha trộn với nước có clo. Ngoài ra,
theo luật thì toàn bộ nước ép nho đều phải được tiệt trùng, do đó phá hủy
các enzyme rất quan trọng cho quá trình tiêu hóa nước ép nho. Vì thế,
phương thuốc nho Brandt/Kehr đòi hỏi một lượng nho nhất định.
Một ngày điển hình của chế độ ăn Brandt/Kehr gồm 12 giờ nhịn ăn
sau 12 giờ ăn nho. Trong thời gian ăn đó, bạn tuyệt đối không ăn gì khác
ngoại trừ nho, nho đặc và nước ép nho tươi, ăn từ từ trong suốt thời gian
12 giờ, không chỉ vào bữa ăn. Trong thời gian này, bạn nên ăn từ 2 lít đến
4 lít “nước nho đặc” tinh khiết được làm từ máy chế biến nho. Để tránh
buồn nôn và tối đa hóa hiệu quả của nho đặc, hãy chia thành tám phần
bằng nhau ăn từ từ mỗi tiếng rưỡi một lần trong thời gian 12 giờ.
Phải đảm bảo uống mỗi ngày ít nhất 4 lít nước suối tinh khiết hoặc
nước giếng phun, phân đều ra cho cả hai giai đoạn 12 giờ, và uống cùng
nho đặc trong thời gian ăn. Phải đảm bảo nước của bạn không qua xử lý
clo hoặc flo. Nước ép nho đặc phải có cả hạt và vỏ nho nghiền nát và
nho thì nên là nho Concord tía. Không mua nho không hạt hoặc nho xanh,
vì chúng không có những “chất tốt” mà nho Concord tía có. Và mua nho
hữu cơ nếu được, vì nho bị tưới rất nhiều phun thuốc trừ sâu. Nếu không
- thể có được nho hữu cơ, hãy ngâm nho thật đảm bảo trong nước suối ấm
ít nhất 15 phút và rửa tráng thật sạch.
Trong khi nhịn uống, các tế bào ung thư rất đói. Sau đó, khi có thức
ăn, những gì chúng nhận được là nho, chúng nuốt ngấu nghiến vì nho
chứa nồng độ đường tự nhiên cao. Và các tế bào ung thư lại thích đường!
Tuy nhiên, những loại nho này cũng chứa một số chất dinh dưỡng quan
trọng tiêu diệt ung thư như liệt kê ở trên. Vì vậy, thực chất là chúng ta
“đánh lừa” các tế bào ung thư nuốt tất cả các chất dinh dưỡng chống ung
thư. Nó giống như việc cho chất độc vào kẹo và sau đó đưa cho đứa trẻ
đang chết đói. Và vì các tế bào ung thư cực kỳ kém hiệu quả trong việc
sản xuất năng lượng, chúng đòi hỏi nhiều đường hơn các tế bào khỏe
mạnh bình thường, nên chúng nuốt nhiều nho hơn! Và như chúng ta đã
biết, các tế bào ung thư tiêu thụ nhiều đường gấp 18 lần (và tiêu thụ các
chất dinh dưỡng chống ung thư trong nho nhiều gấp 18 lần) so với các tế
bào khỏe mạnh bình thường. Do đó, chế độ ăn uống Brandt/Kehr là một
trong những cách tốt nhất để tiêu diệt tế bào ung thư!
Cần phải dùng những thực phẩm bổ sung gì với phương thuốc nho
Brandt/Kehr?
1. Chiết xuất hạt nho – kiểm tra thành phần để nhận được nhiều
OPC nhất.
2. Chiết xuất vỏ nho – kiểm tra thành phần để có được nhiều
resveratrol nhất.
3. Quercetin – tương đương thực phẩm bổ sung mà không cần qua kê
đơn.
4. Vitamin C – 12 đến 15 gam chia ra trong ngày (tăng dần đến lượng
này trong hai tuần, không bắt đầu ở mức 12-15 gam).
5. Ớt cayenne – càng cay và càng tươi càng tốt.
6. Niacin – 1 gam mỗi ngày.
Cả ớt cayenne và niacin đều tăng lưu lượng máu, điều này giúp đem
nước nho đến các tế bào ung thư. Tế bào ung thư thường phát triển
mạnh ở khu vực lưu thông kém. Bạn có thể sử dụng những liệu pháp
điều trị gì cùng với phương thuốc nho? Không sử dụng cesium chloride,
vì cesium ngăn cản glucose đến với các tế bào ung thư, và phương thuốc
nho Brandt/Kehr sử dụng glucose như một nhân tố vận chuyển các chất
dinh dưỡng chống ung thư.
- Một chu kỳ điều trị này dài sáu tuần. Năm tuần đầu tiên chỉ có nho
Brandt/Kehr. Không ăn hoặc uống bất cứ thứ gì khác nho. Tuần thứ sáu
sẽ cho phép ăn một số thực phẩm khác. Lặp lại chu kỳ sáu tuần nhiều
lần nếu cần thiết để chữa ung thư.
Chế độ ăn Budwig
Một liệu pháp điều trị ung thư thay thế nổi bật được đưa ra bởi một
nhà hóa sinh người Đức, bác sĩ Johanna Budwig, bà cũng là người bảy lần
được đề cử giải Nobel. Đóng góp y tế quan trọng nhất của bà liên quan
đến nghiên cứu vai trò của các axit béo thiết yếu (EFA). Để sản xuất đại
trà và phân phối thực phẩm giàu tinh dầu, các nhà sản xuất thực phẩm cố
ý thay đổi thành phần hóa học của các loại dầu để có hạn sử dụng dài
hơn. Vào những năm 1950, bà đã chứng minh rằng những thay đổi hóa
học này, những chất béo hydro hóa (mà bà gọi là chất béo “giả tạo”) là
chất béo cứng dính vào màng tế bào, khiến chúng làm sai chức năng.
Bác sĩ Budwig tin rằng những chất béo, dầu qua chế biến và hydro
hóa này làm tắt điện trường của các tế bào và khiến chúng ta dễ mắc các
bệnh mạn tính và không cứu chữa được, vì men oxidase có lợi bị phá hủy
bởi nhiệt độ hoặc luộc chín. Bà cũng chứng minh rằng sự vắng mặt của
các chất béo thiết yếu không bão hòa chịu là tác nhân sản sinh ra oxidase,
dẫn đến ung thư tăng trưởng và nhiều rối loạn mạn tính khác. Bà tin
rằng ung thư không phải là do quá nhiều tế bào tăng trưởng, mà là do sự
tăng trưởng tế bào bị lỗi (như phân chia tế bào), gây ra bởi sự kết hợp
quá nhiều chất béo “giả tạo” và quá ít chất béo lành mạnh ở màng tế
bào.
Nhưng chính xác điều gì xảy ra với chất béo khi xử lý chúng? Trong
chất béo lành mạnh có một đám mây electron quan trọng cho phép các
chất béo liên kết với ô-xy. Những chất béo ô-xy hóa lành mạnh có khả
năng liên kết với protein và trong quá trình xử lý trở nên hòa tan được
trong nước. Tính hòa tan được vào nước này rất cần thiết cho tất cả các
quá trình tăng trưởng, phục hồi tổn thương tế bào, tái tạo tế bào, các
chức năng thần kinh và não bộ, chức năng thần kinh cảm giác, và phát
triển năng lượng. Thực tế, toàn bộ nền tảng sản xuất năng lượng của
chúng ta dựa trên sự chuyển hóa lipid. Hydro hóa phá hủy đám mây
electron quan trọng và kết quả là những chất béo “giả tạo” có thể không
còn liên kết được với ô-xy hoặc protein. Rốt cuộc, những chất béo này
ngăn chặn lưu thông, gây tổn hại tim, ức chế tái tạo tế bào, và cản trở
- dòng chảy tự do của máu và bạch huyết. Phải sáng suốt ghi nhớ thực tế
này khi lần sau bạn muốn mua bơ chế biến hoặc các loại thức ăn chiên,
vì cả hai đều chứa các chất béo có hại điển hình này.
Bác sĩ Budwig bắt đầu nghiên cứu chất béo vào những năm 1950, và
nhanh chóng phát hiện ra rất nhiều điều về các quá trình chuyển hóa của
chất béo so với những gì đã được biết đến trước đó. Bà bắt đầu nghiên
cứu bằng việc phân tích các mẫu máu của hàng ngàn bệnh nhân bị bệnh
nặng, sau đó so sánh những mẫu này với máu của những người khỏe
mạnh. Bà nhanh chóng phát hiện ra máu của bệnh nhân ung thư bị thiếu
hụt một số thành phần thiết yếu quan trọng, bao gồm cả phosphatide và
lipoprotein, trong khi máu của người khỏe mạnh luôn chứa đủ số lượng
các thành phần này. Bà đưa ra giả thuyết rằng việc thiếu các thành phần
này dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng các tế bào ung thư. Khi phân tích
máu của bệnh nhân ung thư, thay vì tìm thấy hemoglobin giàu ô-xy, màu
đỏ, khỏe mạnh, bà phát hiện ra một chất có màu xanh vàng. Bà nhận
thấy khi những thành phần tự nhiên này được thay thế, các khối u ung
thư bắt đầu co lại. Khi các yếu tố xanh lục kỳ lạ trong máu được thay
thế bằng các tế bào hồng cầu khỏe mạnh thì các lipoprotein và
phosphatide bất ngờ xuất hiện trở lại. Sau đó, bà phát hiện ra rằng ăn
một hỗn hợp hai loại thực phẩm thay thế lipoprotein và phosphatide sẽ
làm cho máu khỏe mạnh trở lại.
Hai EFA là axit linoleic (LA) – chất béo omega-6, và axit
alphalinolenic (ALA) – chất béo omega-3. Sức khỏe tốt đòi hỏi tỷ lệ thích
hợp của omega-6 và omega-3; tỷ lệ lý tưởng là khoảng 2:1. Rau quả và
các loại hạt (ngô, hoa rum, hạt bông, đậu phộng, đậu nành) chứa chất
béo omega-6 cao nhất. LA là chất béo omega-6 chính, mà một người khỏe
mạnh sẽ chuyển đổi thành gamma linolenic axit (GLA). Các chất béo
omega-6 khác gồm có liên hợp axit linoleic (CLA), dihomo-gamma-
linolenic axit (DGLA), và axit arachidonic (AA). Cá biển (như cá hồi, cá
ngừ và cá thu) và một số hạt (như hạt lanh) chứa chất béo omega-3 cao
nhất. ALA là chất béo omega-3 chính, mà một người khỏe mạnh sẽ
chuyển đổi thành axit eicosapentaenoic (EPA) và sau đó thành axit
docosahexaenoic (DHA) và axit docosapentaenoic (DPA).
Budwig tin rằng bệnh mạn tính là do cơ thể thiếu EFA, trong đó có
đầy đủ electron và liên kết với ô-xy và protein. Khi được hấp thụ vào
thành tế bào, chúng kéo ô-xy vào trong tế bào. Và khi liên kết với protein
- gốc lưu huỳnh, chúng trở nên hòa tan trong nước. Đây là lý thuyết đằng
sau chế độ ăn Budwig: Tính hữu ích của ô-xy trong cơ thể có thể được
kích thích bởi các lipoprotein (protein giàu lưu huỳnh và axit linoleic).
Trong cuốn sách Oxygen Therapies (Liệu pháp ô-xy), Ed McCabe bày
tỏ quan điểm của ông về EFA: “Các tế bào hồng cầu trong phổi thải bỏ
carbon dioxide và hấp thụ ô-xy. Sau đó, chúng được vận chuyển đến vị
trí tế bào thông qua các mạch máu, tại đó chúng giải phóng ô-xy vào
huyết tương. Ô-xy giải phóng này được ‘hút’ vào các tế bào bởi ‘cộng
hưởng’ của các axit béo. Nếu không, ô-xy không thể tự nó vào trong tế
bào. ‘Electron giàu axit béo’ đóng vai trò quyết định trong hô hấp enzyme,
đó là nền tảng của quá trình ô-xy hóa tế bào”. EFA kết hợp với các
protein giàu lưu huỳnh (chẳng hạn như trong pho-mát làm từ sữa đã gạn
kem) tăng sự ô-xy hóa của cơ thể, vì các electron vốn được bảo vệ cho
đến khi cơ thể đòi hỏi năng lượng.
Tất nhiên, như bạn có thể đoán được, bác sĩ Budwig bị khủng bố vì
công trình của bà. Chỉ cần nghĩ về khoản tiền lợi nhuận mỗi năm của
ngành công nghiệp chất béo và dầu. Quá trình hydro hóa là trọng tâm của
cả hai ngành công nghiệp này, và lý thuyết của bác sĩ Budwig dựa trên
nền tảng rằng chất béo hydro hóa đóng góp vào sự hình thành các tế bào
ung thư! Rốt cuộc, bà bị cản trở tiếp tục nghiên cứu và bị ngăn chặn
công bố các kết quả khám phá. Chính bà đã nói, “Tôi có lời giải đáp cho
bệnh ung thư, nhưng các bác sĩ Mỹ không lắng nghe. Họ đến đây quan
sát các phương pháp của tôi và cảm thấy ấn tượng. Sau đó, họ muốn ra
một thỏa thuận đặc biệt để có thể sở hữu phương pháp này và kiếm thật
nhiều tiền. Tôi không làm điều đó, vì vậy tôi bị tẩy chay ở mọi quốc
gia.”
Một số nguồn cung cấp protein giàu lưu huỳnh là các loại hạt, hành,
hẹ, tỏi, đặc biệt là pho-mát không kem và sữa chua. Dầu hạt lanh tốt
nhất phải mới nguyên, ép nguội, sạch, lỏng, ướp lạnh và chưa tinh chế.
Một trong những thương hiệu tốt nhất là dầu hạt lanh Barlean. Hỗn hợp
pha trộn dầu hạt lanh và pho-mát không kem nên là một phần trong chế
độ ăn của bệnh nhân ung thư. Bạn chỉ cần trộn một cốc pho-mát không
kem sạch với 2–3 muỗng canh dầu hạt lanh. Trộn chúng với nhau và để
hỗn hợp trong vài phút. Điều này sẽ chuyển đổi omega-3 tan trong dầu
thành omega-3 tan trong nước. Cũng là một ý tưởng hay nếu xay hạt lanh
tươi rồi cho thêm vào hỗn hợp. Điều quan trọng cần lưu ý là không phải
- riêng các loại thực phẩm giàu EFAs hay các protein giàu lưu huỳnh có thể
mang lại hiệu quả. Đấy là vì các loại dầu phải liên kết với các protein
trước khi ô-xy được liên kết và cơ thể có thể tiêu hóa hỗn hợp này.
Nhờ nỗ lực không biết mệt mỏi của bác sĩ Budwig mà bây giờ chúng
ta biết được chất béo giàu điện electron tương tác với các protein giàu
lưu huỳnh để liên kết ô-xy và thúc đẩy chuyển hóa hiếu khí dẫn đến khôi
phục sức khỏe. Theo bác sĩ chuyên khoa u bướu và cựu chuyên gia tim
mạch, bác sĩ Dan C. Roehm: “Bà ấy (bác sĩ Budwig) đã xua tan sự hoài
nghi ban đầu của tôi. UNG THƯ CÓ THỂ DỄ DÀNG CHỮA KHỎI, liệu
pháp điều trị có kết quả ngay lập tức; các tế bào ung thư yếu ớt và dễ bị
tổn thương. Điểm phân giải sinh hóa chính xác được bà xác định vào năm
1951 và đặc biệt chính xác, trong thí nghiệm cũng như trên cơ thể sống…
Chế độ ăn này không còn nghi ngờ gì nữa là chế độ ăn chống ung thư
thành công nhất trên thế giới.”
Bill Henderson đã điều trị hơn một nghìn bệnh nhân ung thư “giai
đoạn cuối”. Yếu tố quyết định trong phác đồ điều trị của ông là chế độ
ăn Budwig. Ông là tác giả của hai cuốn sách xuất sắc là Beating Cancer
Gently (Nhẹ nhàng đánh bại ung thư) và Cancer-Free (Thoát khỏi ung
thư)5. Bill là một người tuyệt vời và sẽ “huấn luyện” bạn qua điện
thoại. Phác đồ của ông gồm một số đặc tính rất tiên tiến khiến nó trở
thành một trong những liệu pháp điều trị ung thư hiệu nghiệm nhất hiện
thời. Ông tập trung vào chế độ ăn chống ung thư nghiêm ngặt, một trong
những lý do mà rất nhiều người đã được chữa khỏi bằng cách sử dụng
liệu pháp điều trị của ông. Và đúng như tên gọi, đó cũng là một trong số
những liệu pháp điều trị “nhẹ nhàng” nhất. Bất cứ ai chọn phác đồ
Budwig nên sử dụng phác đồ Bill Henderson. Cuốn sách của ông có thể
được mua tại www.beating-cancer-gently.com.
Xin lưu ý rằng nếu đang theo phác đồ Budwig, bạn không được dùng
Protocel, vì nó hoạt động theo cách ngược lại. Ngoài ra, không dùng bất
kỳ sản phẩm nào từ chuối Paw Paw hoặc mãng cầu xiêm vì các quả này
làm giảm ATP và có thể bù trừ vào chế độ Budwig.
Cellect-Budwig
Đây là một trong những liệu pháp điều trị ung thư thay thế mạnh
nhất, không độc hại, và có hiệu quả cao.
Cốt lõi của liệu pháp điều trị này là Cellect, đa khoáng chất, đa amino
axit, thực phẩm bổ sung đa vitamin, cộng thêm một số sản phẩm chống
nguon tai.lieu . vn