Xem mẫu

Chương 8

TRẺ EM BỊ HIV/AIDS

225

8. HIV/AIDS

8.1. Bệnh nhi với tình trạng nghi ngờ hoặc xác định nhiễm HIV
8.1.1. Chẩn đoán lâm sàng
8.1.2 . Tham vấn HIV
8.1.3 . Xét nghiệm và chẩn đoán nhiễm HIV
8.1.4. Phân giai đoạn trên lâm sàng
8.2. Liệu pháp kháng virus
8.2.1. Thuốc kháng virus
8.2.2. Thời điểm bắt đầu liệu pháp kháng virus
8.2.3. Tác dụng phụ và theo dõi
8.2.4 . Thời điểm thay đổi điều trị
8.3. Điều trị hỗ trợ cho trẻ có HIV dương tính
8.3.1. Vắc xin
8.3.2. Dự phòng bằng co – trimoxazole
8.3.3. Dinh dưỡng
8.4. Điều trị những bệnh lý liên quan HIV
8.4.1. Lao
8.4.2. Viêm phổi do Pneumocystis jiroveci
8.4.3. Viêm phổi mô kẽ dạng lympho
8.4.4. Nhiễm nấm
8.4.5. Sarcoma Kaposi
8.5. Phòng ngừa lây truyền HIV từ mẹ sang con và dinh dưỡng ở trẻ
nhũ nhi
8.5.1. Phòng ngừa lây truyền HIV từ mẹ sang con
8.5.2. Nuôi ăn ở trẻ nhũ nhi khi nhiễm HIV
8.6. Theo dõi
8.6.1. Xuất viện
8.6.2. Chuyển viện
8.6.3. Theo dõi lâm sàng
8.7. Chăm sóc giảm nhẹ và chăm sóc trong giai đoạn cuối
8.7.1. Giảm đau
8.7.2. Điều trị chán ăn, buồn nôn và nôn
8.7.3. Phòng ngừa và điều trị loét do tì đè
8.7.4. Chăm sóc miệng
8.7.5. Thông thoáng đường thở
8.7.6. Hỗ trợ tâm lý

BỆNH NHI VỚI TÌNH TRẠNG NGHI NGỜ HOẶC XÁC ĐỊNH NHIỄM HIV

8. HIV/AIDS

Nhìn chung, việc điều trị những bệnh lý ở trẻ nhiễm HIV cũng tương tự
như ở những trẻ khác (xem Chương 3 – 7). Hầu hết tác nhân nhiễm trùng
ở trẻ có HIV dương tính cũng giống như ở trẻ có HIV âm tính, mặc dù tình
trạng nhiễm trùng thường gặp hơn, nặng nề hơn và tái đi tái lại. Tuy nhiên,
trong một vài trường hợp, nhiễm trùng có thể do những tác nhân không
thường gặp.
Nhiều trẻ có HIV dương tính tử vong do những bệnh lý mắc phải lúc nhỏ,
và nhiều trường hợp tử vong có thể phòng tránh được nếu chẩn đoán
sớm và điều trị đúng hoặc tiêm chủng đầy đủ và cải thiện dinh dưỡng.
Những trẻ này có nguy cơ đặc biệt cao nhiễm tụ cầu, phế cầu và lao. Việc
cứu sống trẻ phụ thuộc vào việc chẩn đoán sớm, điều trị ngay với thuốc
kháng virus và dự phòng co–trimoxazole cho những trẻ nhiễm HIV.
Tất cả trẻ nhũ nhi và trẻ lớn nên được đánh giá tình trạng nhiễm HIV ở lần
đầu tiên tiếp xúc với hệ thống y tế, lý tưởng là vào lúc mới sinh hoặc sớm
nhất sau đó. Để thuận tiện, tất cả các khoa hoặc bệnh viện sản nhi nên đề
nghị xét nghiệm HIV cho các bà mẹ và con của họ.
Chương này chủ yếu đề cập đến việc điều trị trẻ nhiễm HIV/AIDS: chẩn
đoán nhiễm HIV, xét nghiệm và tham vấn, phân giai đoạn trên lâm sàng,
thuốc kháng virus, điều trị bệnh lý có liên quan HIV, điều trị hỗ trợ, bú mẹ, lên
kế hoạch xuất viện, theo dõi và chăm sóc giảm nhẹ cho trẻ ở giai đoạn cuối.
8.1. Bệnh nhi với tình trạng nghi ngờ hoặc xác định nhiễm HIV
8.1.1. Chẩn đoán lâm sàng
Biểu hiện lâm sàng của nhiễm HIV ở trẻ em rất đa dạng. Nhiều trẻ có
HIV dương tính biểu hiện triệu chứng nặng trong năm đầu đời, trong khi
những trẻ khác có thể không có triệu chứng hoặc chỉ có triệu chứng nhẹ
trong khoảng thời gian hơn một năm và có thể sống sót qua nhiều năm.
Kinh nghiệm cho thấy biểu hiện lâm sàng ở trẻ nhiễm HIV trong giai đoạn
chu sinh không được dùng thuốc kháng virus trước đó có thể rơi vào ba
nhóm sau đây:
• Nhóm diễn tiến nhanh (25–30%): hầu hết tử vong trước 1 tuổi, do nhiễm
trùng mắc phải trong tử cung hoặc giai đoạn sớm sau sinh.
• Nhóm xuất hiện triệu chứng sớm, sau đó diễn tiến nặng dần và tử vong
ở thời điểm 3– 5 tuổi (50–60%).

• Nhóm sống sót đến hơn 8 tuổi (5–25%): thường kèm viêm phổi mô kẽ
dạng lympho và gây còm với chiều cao và cân nặng thấp hơn so với
tuổi.
226

CHẨN ĐOÁN LÂM SÀNG

Nghi ngờ HIV khi có bất kỳ triệu chứng nào vốn không thường gặp ở trẻ
HIV âm tính sau đây:
Những triệu chứng cho thấy có thể nhiễm HIV

• Loét miệng: hồng ban và mảng giả mạc màu trắng be ở vòm họng,
nướu và niêm mạc má. Sau giai đoạn sơ sinh, loét miệng gợi ý nhiều
đến nhiễm HIV khi kéo dài trên 30 ngày mặc dù đã điều trị kháng sinh,
tái đi tái lại, lan rộng đến lưỡi hoặc biểu hiện dưới dạng nhiễm nấm
candida thực quản.
• Viêm tuyến mang tai mãn tính: sưng tuyến mang tai một bên hoặc hai
bên (chỉ ở phần trước tai) ≥ 14 ngày có hay không kèm đau hoặc sốt.
• Bệnh phì đại hạch lympho toàn thể: phì đại hạch lympho ≥ 2 hạch ngoài
vùng bẹn mà không rõ nguyên nhân.
• Gan to không rõ nguyên nhân: không có sự hiện diện của tình trạng
đồng nhiễm virus như cytomegalovirus.

• Sốt kéo dài hoặc tái đi tái lại: sốt > 38oC kéo dài ≥ 7 ngày hoặc sốt trên
1 lần trong vòng 7 ngày.

• Rối loạn chức năng thần kinh: tổn thương thần kinh tiến triển, tật đầu
nhỏ, chậm phát triển, tăng trương lực cơ, mê sảng.
• Herpes zoster (bệnh zona): đau chỗ phát ban với những nốt phồng giới
hạn trên một vùng da ở một bên cơ thể.

• Viêm da HIV: sẩn hồng ban. Ban điển hình gồm nhiễm nấm lan rộng ở
da, móng và da đầu và u mềm lây lan rộng.
• Bệnh phổi mạn

Những triệu chứng hoặc bệnh lý đặc hiệu cho trẻ nhiễm HIV
Nghĩ nhiều đến nhiễn HIV nếu có:
• Viêm phổi do Pneumocystis jiroveci (trước đây là carinii) (PCP)
• Nhiễm nấm Candida thực quản
• Viêm phổi mô kẽ lympho
• Sarcoma Kaposi
• Rò trực tràng – âm đạo mắc phải (ở bé gái)
227

8. HIV/AIDS

• Nhiễm trùng tái đi tái lại: ít nhất ba đợt nhiễm trùng nặng (như viêm
phổi, viêm màng não, nhiễm trùng huyết, viêm mô tế bào) trong vòng
12 tháng qua.

THAM VẤN HIV

Những triệu chứng thường gặp ở trẻ nhiễm HIV nhưng cũng xảy ra
ở bệnh nhi không nhiễm HIV
• Viêm tai giữa mạn: chảy mủ tai kéo dài ≥ 14 ngày.

8. HIV/AIDS

• Tiêu chảy kéo dài: tiêu chảy ≥ 14 ngày.

• Suy dinh dưỡng cấp vừa đến nặng: sụt cân hoặc chậm tăng cân so với
mong đợi theo biểu đồ tăng trưởng. Đặc biệt nghi ngờ HIV ở trẻ đang
bú mẹ < 6 tháng tuổi mà chậm tăng trưởng.
8.1.2. Tham vấn HIV

Ở những nước có dịch HIV, tất cả trẻ em khi đến với các dịch vụ chăm sóc
y tế nên được sàng lọc và tham vấn về HIV (tỉ lệ hiện mắc trên 1% ở phụ
nữ mang thai). Nếu chưa rõ trẻ có nhiễm HIV không, cần tham vấn cho gia
đình và đề nghị xét nghiệm chẩn đoán HIV.

Vì phần lớn trẻ bị nhiễm là do lây truyền dọc từ mẹ sang nên người mẹ và
cả người cha cũng có thể đã bị nhiễm nhưng chưa biết. Ngay cả những
đất nước có tỷ lệ nhiễm HIV cao vẫn còn tình trạng kỳ thị nên cha mẹ có
thể cảm thấy miễn cưỡng làm xét nghiệm.

Khi tham vấn về HIV, trẻ nên được đối xử như một phần của gia đình bằng
cách lưu ý đến những tác động tâm lý do nhiễm HIV của trẻ, cha, mẹ và
những thành viên khác trong gia đình. Người tham vấn phải nhấn mạnh
rằng, mặc dù không có cách điều trị triệt để nhưng dùng thuốc kháng virus
sớm và điều trị hỗ trợ có thể cải thiện rất nhiều chất lượng cuộc sống cũng
như khả năng sống còn của trẻ và cha mẹ.
Việc tham vấn đòi hỏi thời gian và phải được thực hiện bởi những nhân
viên được huấn luyện. Nếu không có những nhân viên được huấn luyện,
cần kêu gọi sự giúp đỡ từ những tổ chức hỗ trợ AIDS tại địa phương. Xét
nghiệm HIV phải được thực hiện với sự tự nguyện, không ép buộc và phải
có giấy đồng thuận trước khi thực hiện.
Chỉ định tư vấn và xét nghiệm HIV
Tất cả trẻ nhũ nhi và trẻ em ở những nước có dịch HIV mà tình trạng
nhiễm HIV chưa rõ cần phải được tham vấn và làm xét nghiệm tầm soát.
Trong hầu hết trường hợp, tình trạng nhiễm HIV của trẻ được xác định
bằng cách hỏi bà mẹ về xét nghiệm tầm soát HIV trong quá trình mang
thai, lúc sinh và hậu sản và kiểm tra hồ sơ sức khỏe của trẻ hoặc bà mẹ.
Nếu tình trạng HIV chưa rõ thì việc tham vấn và làm xét nghiệm tầm soát
HIV nên được thực hiện trong những trường hợp sau:
• Tất cả trẻ nhũ nhi và trẻ em ở vùng dịch HIV (tỷ lệ hiện mắc > 1% phụ
nữ mang thai).
228

XÉT NGHIỆM VÀ CHẨN ĐOÁN NHIỄM HIV

• Tất cả trẻ nhũ nhi phơi nhiễm HIV lúc sinh hoặc sớm nhất sau đó.

• Tất cả trẻ nhũ nhi hoặc trẻ em có những triệu chứng hoặc bệnh lý cho
thấy nhiễm HIV.
• Tất cả phụ nữ mang thai và bạn tình của họ ở vùng dịch HIV.
8.1.3. Xét nghiệm và chẩn đoán nhiễm HIV

Trong trường hợp cả mẹ hoặc trẻ có xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán
HIV dương tính và trẻ có triệu chứng điển hình gợi ý nhiễm HIV nhưng xét
nghiệm virus không thực hiện được, trẻ có thể coi như được chẩn đoán là
nhiễm HIV. Tuy nhiên, xét nghiệm virus HIV phải được thực hiện sớm nhất
có thể để chẩn đoán xác định.
Tất cả xét nghiệm chẩn đoán HIV của trẻ phải đáng tin cậy, phải có sự
tham vấn và đồng thuận, từ đó việc xét nghiệm được thực hiện trên cơ sở
tự nguyện và được thông tin đầy đủ.
Xét nghiệm huyết thanh tìm kháng thể HIV (ELISA hoặc test nhanh)
Test nhanh được sử dụng rộng rãi, độ nhạy cao và đáng tin cậy trong
chẩn đoán nhiễm HIV ở trẻ > 18 tháng. Đối với trẻ < 18 tháng, test kháng
thể HIV là xét nghiệm nhạy và đáng tin cậy trong việc phát hiện sơ nhiễm
và loại trừ nhiễm HIV ở trẻ không bú mẹ.
Test nhanh HIV có thể dùng để loại trừ nhiễm HIV ở trẻ suy dinh dưỡng
cấp nặng, hoặc nhiễm lao hoặc bất kì bệnh lý nặng nào khác ở vùng dịch
tễ HIV. Ở trẻ < 18 tháng, những trường hợp có xét nghiệm huyết thanh
dương tính cần được xác định lại bằng xét nghiệm virus càng sớm càng
tốt (xem bên dưới). Khi chưa thực hiện được, lặp lại xét nghiệm huyết
thanh tìm kháng thể ở thời điểm 18 tháng tuổi.
Xét nghiệm virus
Xét nghiệm virus tìm DNA hoặc RNA đặc hiệu của HIV là phương pháp
đáng tin cậy nhất để chẩn đoán nhiễm HIV ở trẻ < 18 tháng tuổi. Mặc dù
xét nghiệm virus được thực hiện rộng rãi ở nhiều nước nhưng đòi hỏi phải
gửi mẫu máu đến phòng xét nghiệm có thể thực hiện được. Những xét
229

8. HIV/AIDS

Chẩn đoán nhiễm HIV ở trẻ nhũ nhi và trẻ < 18 tháng có tiếp xúc trong giai
đoạn chu sinh là khó vì kháng thể HIV từ mẹ truyền sang vẫn còn tồn tại
trong máu trẻ. Chẩn đoán càng khó hơn nếu trẻ vẫn còn bú mẹ hoặc đã
từng bú mẹ. Mặc dù nhiều trẻ không còn kháng thể HIV ở giai đoạn 9–18
tháng tuổi, lúc này xét nghiệm virus là phương pháp duy nhất đáng tin cậy
để xác định tình trạng nhiễm HIV ở trẻ < 18 tháng tuổi.

nguon tai.lieu . vn