- Trang Chủ
- Du lịch
- Du lịch vì người nghèo – hướng phát triển mới cho du lịch Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa
Xem mẫu
- DU LỊCH VÌ NGƯỜI NGHÈO – HƯỚNG PHÁT TRIỂN MỚI
CHO DU LỊCH VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA
Nguyễn Thị Vân Hạnh(*)
TRAVEL FOR THE POOR - NEW DEVELOPMENT
FOR TRAVEL VIETNAM IN THE CONTEXT OF GLOBALIZATION
Abstract
Tourism industry is considered one of the largest industries in the world, created a lot of
opportunities, challenges, positive effect and reversible as well as social responsibility. While
existing tourism perspective is the industry's richest man, catering to the wealthy (or at least the
non-poor), now appearring quite popular term "tourism for the poor" as a conceptual opposite
the above point of view. Tourism development associated with poverty reduction is the goal of
many poor countries and developing countries, including Vietnam.
*
1. Bối cảnh
Ngành công nghiệp du lịch được xem là một trong những ngành công nghiệp lớn nhất thế
giới, tạo ra rất nhiều cơ hội, thách thức, tác động thuận chiều và trái chiều cũng như các trách
nhiệm xã hội. Tuy nhiên, những lợi ích to lớn mà ngành công nghiệp này đem lại thường được
xem là phân bố không đồng đều, tập trung chủ yếu vào một số nhóm nhỏ và những nhóm nằm ở
những tầng dưới cùng của hệ thống phân tầng xã hội theo thu nhập thường không tiếp cận được
tới những lợi ích này. Mặc dù du lịch có vị trí đặc biệt trong việc xóa đói giảm nghèo, tuy nhiên,
người nghèo ở những nước kém phát triển thường không được hưởng các lợi ích kinh tế từ ngành
du lịch.
Trong khi tồn tại quan điểm du lịch là ngành công nghiệp của người giàu, phục vụ cho
người giàu (hoặc chí ít là người không nghèo), hiện nay đã xuất hiện khá phổ biến thuật ngữ “du
lịch vì người nghèo” như một khái niệm đối nghịch với quan điểm trên. Phát triển du lịch gắn với
xóa đói giảm nghèo đang là mục tiêu của nhiều quốc gia nghèo và quốc gia đang phát triển, trong
đó có Việt Nam.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh thiên niên kỷ từ năm 2000, Liên Hợp Quốc xác định nghèo đói
là thách thức lớn của toàn cầu, coi đó như một trong những Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ
(MDGs), hướng tới xóa đói giảm nghèo cùng cực vào năm 2015. Với mục tiêu này, Tổ chức Du
lịch Thế giới (UNWTO) đã tìm cách giải quyết vấn đề bằng việc đưa ra Sáng kiến ST-EP
(Sustainable Tourism - Eliminating Poverty Initiative - Du lịch bền vững - xóa đói giảm nghèo),
công bố tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển Bền vững tại Johannesburg năm 2002
(Viện Nghiên cứu Phát triển du lịch, 2013). Đây là một Chương trình quan trọng, bắt nguồn từ
yêu cầu phát triển tất yếu, nhằm hướng dẫn các nước thành viên về các giải pháp thực hiện xóa
đói giảm nghèo thông qua hỗ trợ cộng đồng phát triển du lịch.
2. Du lịch vì người nghèo – xu hướng phát triển du lịch trong bối cảnh mới
(*)
TS., Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
- Trên phạm vi toàn cầu, du lịch dược coi là một trong những ngành kinh tế trọng điểm,
phát triển nhanh nhất và có đóng góp cơ bản đối với nền kinh tế, là động lực phát triển kinh tế xã
hội ở nhiều quốc gia, đặc biệt là những nước kém phát triển. Hiện nay, du lịch đang xếp vị trí
hang đầu hoặc thứ hai về kim ngạch xuất khẩu tại 20/48 nước kém phát triển và thể hiện sự tăng
trưởng ổn định tại 10 nước khác (ILO, 2012). Tổ chức Lao động quốc tế ILO nhận định du lịch
có thể đóng góp đáng kể vào phát triển kinh tế xã hội và giảm nghèo (ILO, 2012). Tổ chức Du
Lịch Liên Hợp Quốc UNWTO cũng đã coi giảm nghèo là một trong những mục tiêu cũng như
nhân tố làm thay đổi hoạt động du lịch trên phạm vi toàn cầu trong thế kỷ mới và tổ chức này
cũng đã đưa việc phát triển du lịch bền vững vì người nghèo vào chương trình nghị sự (Jahid
Anwar, 2012). Những điều này cho thấy du lịch vì người nghèo đã trở thành một xu hướng mới
trong phát triển du lịch trên thế giới trong giai đoạn hiện nay.
Du lịch vì người nghèo (pro-poor tourism: PPT) là một phương thức tiếp cận mới về lập
kế hoạch và quản lý du lịch, trong đó những người sống trong điều kiện nghèo tại cộng đồng
được đưa lên vị trí ưu tiên hàng đầu. Các chiến lược PPT đều nhằm đến việc giảm thiểu cả tình
trạng tuyệt đối nghèo lẫn tương đối nghèo bằng cách tạo ra các cơ hội thu nhập liên quan đến du
lịch cho những người có hoàn cảnh khó khăn. Ngoài ra, du lịch nghèo cũng có thể đem lại những
lợi ích phi kinh tế như các lợi ích về xã hội, môi trường hay văn hóa.
Du lịch vì người nghèo không phải là một loại hình du lịch mà là một cách tiếp cận nhằm
sử dụng du lịch như một công cụ chiến lược trong hoạt động xóa đói giảm nghèo tại cộng đồng.
Do vậy, bất cứ loại hình du lịch nào cũng có thể áp dụng trong du lịch vì người nghèo. Về bản
chất, du lịch vì người nghèo là một cách tiếp cận tổng hợp trong quản lý và phát triển du lịch
nhằm hướng đến việc tạo ra các cơ hội cho người nghèo có được những lợi ích từ các hoạt động
du lịch (Nguyễn Thị Vân Hạnh, 2013).
Để du lịch thực sự trở thành một công cụ hiệu quả trong tăng trưởng kinh tế và cải thiện
cuộc sống cho người nghèo, tổ chức UNWTO đã đưa ra các khuyến nghị đối với du lịch vì người
nghèo, bao gồm:
- Tuyển người nghèo làm việc cho các doanh nghiệp du lịch;
- Cung cấp cho các cơ sở kinh doanh du lịch hàng hóa và dịch vụ từ người nghèo hoặc
các doanh nghiệp sử dụng lao động nghèo;
- Bán trực tiếp hàng hóa và dịch vụ của người nghèo cho du khách;
- Cho người nghèo thành lập và vận hành các doanh nghiệp du lịch siêu nhỏ, nhỏ và vừa
hoặc các doanh nghiệp cộng đồng;
- Đánh thuế thu nhập hay lợi nhuận từ du lịch và phân chia tiền thuế thu được cho người
nghèo;
- Tự nguyện cho/ tặng/ hỗ trợ từ doanh nghiệp du lịch hoặc du khách;
- Đầu tư vào cơ sở hạ tầng xuất phát từ nhu cầu du lịch cũng mang lại lợi ích cho người
nghèo tại địa phương một cách trực tiếp hay thông qua hỗ trợ các ngành khác (ILO, 2012).
3. Hiện trạng ngành du lịch Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia giàu tiềm năng du lịch, xét từ cả khía cạnh tự nhiên và văn hóa.
Trải dải với hơn 3200km bờ biển với 125 bãi biển dọc từ bắc đến nam, trong đó có những bãi
biển tầm cỡ quốc tế như Lăng Cô, Non Nước, Hạ Long, Nha Trang cùng rất nhiều sông, hồ, suối
và suối nước nóng, thác nước là nguồn tài nguyên nước quý giá phục vụ cho phát triển du lịch
biển và những loại hình du lịch tham quan khác. Địa hình 3/4 là núi đồi cùng rất nhiều khu rừng
- nguyên sinh và khu dự trữ sinh quyển cũng là tiềm năng lớn để phát triển các loại hình du lịch
sinh thái.
Là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống và có truyền thống lịch sử
văn hóa lâu đời, Việt Nam mang trong mình một nền văn hóa giàu truyền thống, phong phú và
độc đáo. Hàng nghìn di tích lịch sử, văn hóa cấp quốc gia đã được xếp hạng, hàng nghìn làng
nghề thủ công truyền thống, hàng trăm viện bảo tàng, hệ thống những lễ hội dân gian của các
vùng miền, các dân tộc diễn ra quanh năm, kho tàng văn học, nghệ thuật dân gian đặc sắc, nền
văn hóa ẩm thực phong phú,… là những điểm mạnh về văn hóa có thể được khai thác như những
thế mạnh cạnh tranh để hấp dẫn và thu hút khách du lịch bốn phương. Đặc biệt, Việt Nam có một
hệ thống những di sản thiên nhiên, văn hóa và tư liệu thế giới đã được UNESCO công nhận như
Vịnh Hạ Long, vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, quần thể di tích cố đô Huế, khu di tích
trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội, đô thị cổ Hội An, không gian văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên, Quan họ Bắc Ninh, Nhã nhạc cung đình Huế… Tất cả những di sản thế giới
này đều là thế mạnh rất lớn cho Việt Nam trong khai thác phát triển du lịch (Nguyễn Thị Vân
Hạnh, 2011).
Trên cơ sở những tiềm năng du lịch dồi dào, với quan điểm coi trọng và nhấn mạnh đầu
tư phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước, những năm qua du lịch Việt Nam đã thu được những
thành tựu rất đáng khích lệ.
Về du lịch trong nước, năm 1990, số lượng khách du lịch nội địa chỉ có 1 triệu người,
năm 2000 tăng lên 11,2 triệu người và đến năm 2013 số lượng khách du lịch trong nước đã tăng
lên con số 35 triệu lượt người. (Tổng cục Du lịch, 2009) (Võ Quế, 2014). Du lịch quốc tế là minh
chứng rõ nét hơn cả cho những thành tựu nổi bật của du lịch Việt Nam. Năm 1990, cả nước đón
250.000 khách du lịch quốc tế, năm 2000, con số này tăng lên 2.140.000 người, và đến năm
2013, số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đã đạt con số 7,5 triệu lượt người. Số lượng
các doanh nghiệp lữ hành quốc tế năm 2009 cũng đã đạt con số 758 với gần 6000 hướng dẫn
viên quốc tế được cấp thẻ (Tổng cục Du lịch, 2009; Võ Quế, 2014).
Những thành tựu của du lịch Việt Nam kể trên đã tạo ra những tác động tích cực tới sự
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Với tư cách là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn,
du lịch đã đóng góp tích cực vào việc thu hút đầu tư cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Thu nhập du lịch tăng từ 17.500 tỷ đồng năm 2000 lên trên 96.000 tỷ đồng vào năm 2010. Thu
nhập ngoại tệ từ dịch vụ du lịch năm 2008 đạt 4,02 tỷ USD, đứng thứ 5 trong các ngành kinh tế
tạo thu nhập ngoại tệ cho đất nước (Tổng cục Du lịch, 2009). Du lịch cũng góp phần tạo công ăn
việc làm cho một bộ phận lớn lao động trong nước. Theo thống kê từ ngành du lịch, tính đến
năm 2010, du lịch đã tạo ra khoảng 450.000 lao động trực tiếp và gần một triệu lao động gián
tiếp cho xã hội, nhờ đó còn góp phần tích cực vào nỗ lực xoá đói giảm nghèo. Đối với những
khía cạnh phi kinh tế khác, du lịch cũng góp phần mở rộng giao lưu văn hóa, nâng cao lòng tự
hào dân tộc và nhận thức cũng như hoạt động duy trì, bảo tồn các giá trị lịch sử, văn hóa, khôi
phục lễ hội, làng nghề truyền thống, truyền tải giá trị văn hoá đến các tầng lớp nhân dân và bạn
bè quốc tế.
Mặc dù có những điểm sáng như vậy trong bức tranh phát triển của ngành du lịch Việt
Nam, có thể nói, ngành du lịch nước ta hiện nay vẫn phát triển chưa xứng tầm, khai thác tiềm
năng chưa hiệu quả, chủ yếu chú trọng phát triển về số lượng, không hướng đến nâng cao chất
lượng, và do vậy, bên cạnh những đóng góp to lớn đối với sự phát triển văn hóa - kinh tế - xã hội
của đất nước, ngành du lịch Việt Nam vẫn tồn tại nhiều hạn chế và có những tác động trái chiều
nhất định đối với tiến trình phát triển chung.
- Riêng đối với du lịch vì người nghèo, cách tiếp cận này chưa được phổ biến và áp dụng
một cách rộng rãi, chính thức trong các chương trình, dự án phát triển du lịch tại Việt Nam. Mặc
dù ở một góc độ nào đó, quan điểm phát triển du lịch có hướng tới nhóm nghèo hay các nhóm
yếu thế khác trong cộng đồng cũng đã được đề cập và lồng ghép vào nhiều chương trình, dự án
phát triển du lịch ở nước ta trong những năm gần đây (đôi khi, đôi nơi, người ta hay nhầm lẫn du
lịch nghèo với du lịch cộng đồng, trên thực tế, du lịch cộng đồng cũng có thể đem lại những lợi
ích cho người nghèo, tuy nhiên, điều đó chỉ là một phần (đôi khi phụ) của các dự án, hoạt động
du lịch cộng đồng chứ không phải mục đích tối thượng như trong bản thân du lịch vì người
nghèo).
Những chương trình, dự án đã được triển khai và đem lại hiệu quả trong những năm gần
đây chủ yếu được khởi xướng, tài trợ và hỗ trợ thực hiện bởi các tổ chức phi chính phủ, trong đó
đáng chú ý nhất là SNV – Tổ chức phát triển Hà Lan đã thực hiện tài trợ và hợp tác triển khai
nhiều dự án phát triển du lịch nghèo trên khắp các tỉnh thành thuộc 3 miền Việt Nam như Lào
Cai, Thái Nguyên, Huế, Quảng Nam, Quảng Trị, An Giang, Tiền Giang.
4. Phát triển du lịch vì người nghèo ở Việt Nam: Vấn đề bảo tồn văn hóa
Du lịch, với tư cách là một bộ phận của hệ thống xã hội nói chung, chịu sự quy định của
xã hội nhưng cũng có những tác động độc lập nhất định tới xã hội. Những tác động này có thể
trên nhiều phương diện như xã hội, văn hóa, kinh tế, môi trường, công nghệ…và theo nhiều
chiều cạnh như thuận chiều, trái chiều và phức hợp.
Sự tác động tích cực của du lịch nghèo tới người nghèo (và cộng đồng nói chung) có thể
thể hiện ở các phương diện như tạo thêm công ăn việc làm, gia tăng thu nhập, nâng cao chất
lượng cuộc sống, thêm các cơ hội phát triển, cơ hội được học hành, đào tạo nâng cao kỹ năng,
gia tăng tài chính cộng đồng, cải thiện cơ sở hạ tầng xã hội, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa,
tăng cường quyền lực xã hội cho cộng đồng hay cải thiện môi trường tự nhiên.
Mặt khác, du lịch nghèo và du lịch nói chung cũng không thể tránh khỏi một số tác động
tiêu cực như làm mất đi tính bản địa của các loại hình văn hóa sơ khai, tác động đến đời sống văn
hóa của người dân nghèo, gây nên tình trạng bất bình đẳng về thu nhập, xáo trộn cấu trúc và sinh
hoạt hộ gia đình, ô nhiễm môi trường, gia tăng tệ nạn xã hội,…
Tổ chức Lao động quốc tế ILO xác định 3 loại tác động tới người nghèo, bao gồm: (1)
thêm thu nhập; (2) Phát triển kinh tế địa phương và sinh kế của người dân; và (3) tác động tới
môi trường tự nhiên và văn hóa (ILO, 2012). Mặc dù khi đề cập đến du lịch vì người nghèo,
quan điểm chủ yếu mang tính phổ biến là sự tác động tích cực về mặt kinh tế, lao động, việc làm
đối với nhóm yếu thế này (chiếm 2/3 tác động cơ bản). Tuy nhiên, ở đây, chúng tôi muốn có một
cách tiếp cận khác và chủ yếu nhấn mạnh đến khía cạnh sự tác động trái chiều của du lịch nói
chung và du lịch vì người nghèo nói riêng tới văn hóa.
Ảnh hưởng của du lịch lên phong tục tập quán và nghệ thuật là một chủ đề nhận được
nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy, nhìn một
cách tổng thể, các phong tục tập quán và nghệ thuật thường bị thương mại hóa để phục vụ cho
các hoạt động du lịch. Trong khi thực tế này được chấp nhận rộng rãi thì những tranh luận về quá
trình này vẫn luôn diễn ra. Việc chuyển đổi các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật thành các sản
phẩm kinh tế bản thân nó không đòi hỏi phải làm biến dạng, thay đổi các sản phẩm này, mà trên
thực tế chúng có thể tác động tới mối quan tâm và sở thích của các du khách. Tuy vậy, trong hầu
hết các trường hợp, các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật và phong tục tập quán đã thay đổi vì chúng
được định hướng tới cộng đồng bên ngoài vốn không cùng chia sẻ nền tảng văn hóa, ngôn ngữ
và hệ giá trị truyền thống (Nguyễn Thị Vân Hạnh, 2011).
- Trong khi du lịch có thể đem lại những tác động tích cực về mặt văn hóa như làm tăng
các giá trị văn hóa tại điểm đến, khôi phục các giá trị văn hóa truyền thống bị lãng quên, cải
thiện bảo tồn các điểm di sản văn hóa hay tăng cường bán các sản phẩm thủ công, tăng niềm tự
hào và niềm tin cho người dân địa phương thì nó cũng có thể có những tác động trái chiều tới
lĩnh vực này như làm xói mòn văn hóa địa phương, làm suy giảm các giá trị văn hóa, mất văn
hóa hay suy thoái các khu vực văn hóa (ILO, 2012)
Những tác động tiêu cực đối với văn hóa của du lịch có thể thể hiện ở chỗ du lịch làm
thương mại hóa, thay đổi hoặc thậm chí hủy hoại các phong tục, tập quán, giá trị văn hóa. Đơn
cử trường hợp chợ tình Sapa. Đây là nét văn hóa truyền thống đặc sắc của người Dao, người H’
Mông ở vùng núi phía bắc Việt Nam. Chợ tình là nơi gặp gỡ, giao lưu, trò chuyện, trao đổi tình
cảm, là một sinh hoạt văn hóa nhân văn độc đáo rất có ý nghĩa tinh thần trong đời sống của
người dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, từ khi Sapa trở thành điểm du lịch hấp dẫn và chợ tình thành
một trong những tiêu điểm của các tour du lịch Sapa, nó đã không còn giữ được ý nghĩa nguyên
sơ và những nét trong sáng vốn có. Chợ tình đã bị thương mại hóa, yếu tố “tình” đã ít đi và yếu
tố “chợ” đã ngày một đậm thêm. Các đôi trai gái đến chợ không phải để hò hẹn, giao lưu mà để
bán hàng và để biểu diễn có thu tiền.
Mặc dù tác động tiêu cực đối với văn hóa là một trong những hệ quả không mong muốn
của hoạt động du lịch nói chung, nhưng đối với du lịch vì người nghèo, sự tác động này càng cần
phải được lưu ý hơn, bởi lẽ trong tiếp cận phát triển du lịch vì người nghèo, người ta chủ yếu
nhấn mạnh và tập trung tới yếu tố kinh tế mà đôi khi xem nhẹ hay lãng quên các tác động văn
hóa của nó. Bên cạnh đó, nhóm nghèo thường là tập hợp của những người không chỉ thiếu thốn
về kinh tế mà còn hạn chế về nhiều mặt, trong đó có giáo dục nên ở một khía cạnh nào đó, nhận
thức của họ về các vấn đề phát triển bền vững hay bảo tồn các giá trị truyền thống còn đơn giản,
thiếu hụt và do những nhu cầu cấp bách của đời sống vật chất nên khi được trao cơ hội, họ dễ
chạy theo xu hướng kiếm tiền, tối đa hóa lợi nhuận mà ít quan tâm đến những khía cạnh khác,
trong đó có văn hóa, hoặc trong nhiều trường hợp, cũng do hạn chế nhận thức, họ có thể từ bỏ
những giá trị văn hóa truyền thống và bắt chước cách ứng xử của nhóm du khách, chạy theo
những giá trị ngoại lai. Nhiều tài liệu đã ghi nhận những thiệt hại về mặt xã hội do du lịch gây ra,
đặc biệt là những thay đổi tiêu cực tại địa phương về tôn giáo, trang phục, các chuẩn mực hành
vi, phong tục truyền thống,… Những thay đổi này thường được coi là hậu quả của một tác nhân
hành động, tức là khi cộng đồng địa phương bắt chước những hành vi và các đặc điểm phi bản
địa khác. Việc kiểm soát những thay đổi này là một công việc khó khăn bởi chúng không xảy ra
một cách đột biến mà diễn tiến trong một quá trình lâu dài, và thông thường chỉ có thể nhận ra
một thay đổi như vậy khi nó đã trở thành thói quen (Jenkin, 1997). Không những thế, hiện nay,
khái niệm “nghèo” không còn được hiểu đơn giản là sự thiếu hụt các điều kiện kinh tế, vật chất
để đảm bảo cuộc sống mà khái niệm “nghèo đa chiều” đã cho thấy nhiều khía cạnh khác nhau
mà nhóm xã hội yếu thế này cần được quan tâm, hỗ trợ, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Ngoài ra,
người nghèo – những chủ thể trực tiếp tham gia vào quá trình cung cấp các dịch vụ du lịch vì
người nghèo lại luôn ở một cực rất khác biệt với du khách về nhiều mặt, sự tiếp xúc qua lại giữa
hai nhóm đối tượng này luôn tiềm tàng nhiều khả năng tạo ra căng thẳng, xung đột do sự khác
biệt văn hóa, sốc văn hóa hay sự chênh lệch giàu nghèo quá lớn.
Chính vì lẽ đó, trong tiếp cận và triển khai phát triển du lịch vì người nghèo, bên cạnh
mục tiêu đem lại những lợi ích kinh tế giúp người nghèo thoát nghèo, cải thiện cuộc sống vật
chất, cũng cần chú trọng khía cạnh văn hóa để gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
trong cộng đồng, giúp người nghèo nhận thức rõ hơn cũng như tham gia trực tiếp vào quá trình
bảo tồn và phát huy những giá trị này.
- Ngành công nghiệp du lịch đang ngày càng mang tính quốc tế hóa. Cấu trúc của ngành
công nghiệp du lịch ở cấp độ toàn cầu có tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới cấu trúc này ở cấp độ
quốc gia hay địa phương. Du lịch vì người nghèo (cũng như du lịch nói chung) có các tác động
tích cực nhưng cũng không thể tránh khỏi các tác động tiêu cực. Cách tiếp cận này cũng còn
nhiều điểm mới mẻ và việc thực hiện trong thực tiễn cũng còn nhiều trở ngại. Du lịch là một tác
nhân thay đổi, cũng như nhiều tác nhân khác nó cũng có tính hai mặt khá rõ rệt. Vấn đề là làm
thế nào để phát huy tối đa mặt tích cực và giảm tối thiểu mặt tiêu cực. Điều may mắn là cùng với
việc du lịch đã phát triển đến phạm vi toàn cầu, chúng ta đã tích luỹ được nhiều thông tin, kinh
nghiệm cũng như sự quan tâm chung về tác động tiêu cực của phát triển du lịch đối với xã hội.
Qua những kinh nghiệm đã thu thập được, chúng ta nhận thấy những vấn đề liên quan đến du
lịch trong xã hội hiện nay không còn là chuyện mới mẻ hoặc chỉ liên quan đến một quốc gia duy
nhất. Điều tương đối mới là thế giới hiện ngày càng quan tâm đến một thực tế rằng, nếu chúng ta
không có những hành động thích hợp, những vấn đề này sẽ trở nên trầm trọng hơn và tiếp tục
phá hoại hình ảnh của du lịch như một nhân tố tích cực đối với sự phát triển (Jenkin, 1997).
Tài liệu tham khảo
1. Caroline Ashley, Dilys Roe, Harold Goodwin (2001), Pro-poor tourism strategies: Making
tourism work for the poor, Pro-poor Tourism Report No 1, International Institute for
Environment and Development, UK.
2. Nguyễn Thị Vân Hạnh (2011), Xã hội học Du lịch: Lịch sử phát triển và các chủ đề nghiên
cứu cơ bản, Tạp chí Xã hội học, số 3, tr.91-101
3. Nguyễn Thị Vân Hạnh (2013), Du lịch vì người nghèo và triển vọng hợp tác phát triển giữa
các nước tiểu vùng sông Mê Công, Tạp chí Đối ngoại, số 5, tr.41-46
4. Jenkin (1997), Tác động xã hội của du lịch, Báo cáo đề dẫn tại Hội nghị quốc tế các nhà
quản lý du lịch thế giới, Manila, Philippines
5. Jahid Anwar (2012), Poverty Allaviation through Sustatinable Tourism: A Critical Analysis
of Pro-poor Tourism and Implications for Sustainability in Bangladesh, Master thesis of
International Coorporation Policy, Ritsumeikan Asian Pacific University, Japan
6. Võ Quế (2014), Giải pháp phát triển du lịch Việt Nam trong nền kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế, http://www.itdr.org.vn/nghiencuu-traodoi/834-giai-phap-phat-trien-du-lich-
viet-nam-trong-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xhcn-va-hoi-nhap-quoc-te.html
7. Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch (2013), Giới thiệu sáng kiến “Du lịch bền vững – Xóa
đói giảm nghèo” của tổ chức Du Lịch Thế giới, http://www.itdr.org.vn/kinh-nghiem-
ptdl/kinh-nghiem-quoc-te.html
8. Tổ chức Lao động Quốc tế ILO (2012), Bộ công cụ hướng dẫn giảm nghèo thông qua du
lịch, Hà Nội
9. Tổng cục Du lịch (2009), Một số thành tựu trong quá trình phát triển của ngành du lịch Việt
Nam, website Tổng cục Du lịch, http://www.vietnamtourism.gov.vn/
TÓM TẮT
Ngành công nghiệp du lịch được xem là một trong những ngành công nghiệp lớn nhất thế giới,
tạo ra rất nhiều cơ hội, thách thức, tác động thuận chiều và trái chiều cũng như các trách nhiệm
- xã hội. Trong khi tồn tại quan điểm du lịch là ngành công nghiệp của người giàu, phục vụ cho
người giàu (hoặc chí ít là người không nghèo), hiện nay đã xuất hiện khá phổ biến thuật ngữ “du
lịch vì người nghèo” như một khái niệm đối nghịch với quan điểm trên. Phát triển du lịch gắn
với xóa đói giảm nghèo đang là mục tiêu của nhiều quốc gia nghèo và quốc gia đang phát triển,
trong đó có Việt Nam.
nguon tai.lieu . vn