Xem mẫu

  1. Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Đức Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Đức bao gồm các nữ cầu thủ bóng đá do huấn luyện viên quốc gia lựa chọn. Đội đại diện cho Liên đoàn bóng đá Đức trên bình diện quốc tế trong các trận thi đấu giao hữu quốc tế cũng như trong các Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu của UEFA và Giải vô địch bóng đá nữ thế giới do FIFA tổ chức. Đội bóng đá nữ quốc gia Đức là một trong các đội tuyển bóng đá nữ quốc gia có nhiều thành tích nhất trên thế giới. Đội đã 2 lần đoạt Giải vô địch bóng đá nữ thế giới và 6 lần đoạt Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu. Đội đã liên tục đoạt giải vô địch bóng đá nữ châu Âu trong 4 lần tổ chức gần đây nhất. Nước Đức vì thế là quốc gia đầu tiên và cho đến nay là quốc gia duy nhất đồng thời đoạt giải vô địch bóng đá thế giới và châu Âu ở cả nam lẫn nữ. Birgit Prinz là nữ cầu thủ giữ kỷ lục thi đấu trong đội tuyển quốc gia và đồng thời cũng là vua phá lưới của năm 2003 trong Giải vô địch bóng đá nữ thế giới. Nữ huấn luyện viên trưởng từ năm 2005 là Silvia Neid, kế nhiệm Tina Theune-Mayer là người đã 9 năm liền giữ chức vụ này. Mục lục 1 Lịch sử  1.1 Tiền sử o 1.2 1982-1987: Những năm đầu khó khăn o
  2. 1.3 1988-1993: Các thành tích đầu tiên o 1.4 1994-2001: Chiến thắng liên tục tại châu Âu, thất vọng trong Giải vô o địch bóng đá thế giới và Thế vận hội 1.5 2002-2005: Vô địch thế giới o 1.6 2005-đến nay:Xây dựng mới, bảo vệ thành công chức vô địch o 2 Đội bóng  2.1 Đội hình hiện tại o 2.2 Các cựu nữ cầu thủ nổi tiếng o 3 Các nữ cầu thủ giữ kỷ lục  3.1 Tham gia thi đấu nhiều nhất o 3.2 Ghi bàn thắng nhiều nhất o 4 Huấn luyện viên  5 Trang phục  6 Sân thi đấu  7 Các trận thi đấu quốc tế  7.1 Thi đấu năm 2007 o 7.2 Thống kê các trận thi đấu quốc tế o 8 Chú thích 
  3. 9 Liên kết ngoài  Lịch sử Tiền sử Trong đại hội năm 1955 Liên đoàn bóng đá Đức (DFB) đã quyết định cấm thi đấu bóng đá nữ với lý do "...hình thức thi đấu thể thao này về bản chất không phù hợp cho phụ nữ", "...có hại cho tinh thần lẫn thể xác", và "...việc phơi bày cơ thể sẽ làm tổn thương đến đức hạnh...". Mãi đến đại hội liên đoàn vào ngày 30 tháng 10 năm 1970 tại Lübeck- Travemünde việc cấm đoán này mới được bãi bỏ, ngoài ra, đại hội cũng quyết định khuyến khích bóng đá nữ. Trong khi các liên đoàn bóng đá quốc gia khác đã thành lập đội tuyển nữ quốc gia trong những năm của thập niên 1970, liên đoàn bóng đá Đức cả một thời gian dài đã không hề đả động đến việc này. Năm 1980, khi tháp tùng đội tuyển nam thiếu niên B của Eintracht Frankfurt thi đấu tại Đài Loan, thành viên của giới lãnh đạo DFB là Horst R. Schmidt đã nhận được giấy mời tham dự giải vô địch thế giới bóng đá nữ không chính thức. Schmidt lặng lẽ nhận giấy mời mà không hề nói rằng vào thời điểm đấy Liên đoàn bóng đá Đức vẫn chưa có một đội tuyển bóng đá nữ quốc gia. Để không mất mặt, Liên đoàn bóng đá Đức đã gửi đội bóng đá nữ đương kim vô địch quốc gia vào thời điểm đấy là SSG 09 Bergisch Gladbach sang châu Á tham dự, là đội đã đoạt chức vô địch giải này. Sau đấy DFB đã thành lập đội bóng đá nữ quốc gia vào năm 1982. Chủ tịch Liên đoàn bóng đá Đức Hermann Neuberger giao nhiệm vụ xây dựng đội tuyển cho Gero Bisanz, vào thời điểm đấy là người đào tạo huấn luyện viên tại trường Đại học Thể thao Köln. 1982-1987: Những năm đầu khó khăn Trận thi đấu giao hữu đầu tiên được tổ chức vào ngày 10 tháng 11 năm 1982, đối thủ theo truyền thống là Thụy Sĩ, cũng là đối thủ của đội bóng đá nam trong trận thi đấu giao hữu đầu tiên. Đội tuyển bóng đá nữ Đức bao gồm chủ yếu là các nữ cầu thủ của SSG 09 Bergisch Gladbach. Bàn thắng đầu tiên do Doris Kresimon ghi vào phút thứ 25. Nữ cầu thủ Silvia Neid, lúc đấy mới 18 tuổi, được thay vào trong hiệp hai và đã ghi thêm 2 bàn
  4. thắng, góp phần mang lại chiến thắng 5:1 cho đội nữ Đức. Neid trở thành huấn luyện viên đội tuyển từ năm 1996 và từ 2005 là huấn luyện viên trưởng của Đội bóng đá nữ quốc gia Đức. Nước Đức không tham dự Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu đầu tiên. Bisanz mong muốn rút ngắn khoảng cách so với các đội bóng Bắc Âu và Ý bằng các luyện tập cơ bản và đào tạo mầm non. Từ năm 1985 ông đã trẻ hóa đội tuyển, việc mà ban đầu đã làm cho đội thất bại tại vòng loại Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 1987. Đội tuyển quốc gia đầu tiên: Marion Isbert (36' Claudia Reichler); Gaby Dlugi-Winterberg (52' Christel Klinzmann); Petra Landers; Monika Degwitz; Brigitte Klinz; Rike Koekoek (41' Silvia Neid); Anne Trabant; Bettina Krug (47' Birgit Offermann); Birgit Bormann; Doris Kresimon; Ingrid Gebauer (47' Petra Bartelmann) Bàn thắng: Neid (2), Bormann, Gebauer, Kresimon[1] 1988-1993: Các thành tích đầu tiên Năm 1989 là năm mang lại các thành quả đầu tiên cho đội tuyển. Đội lần đầu tiên đã vượt qua được vòng loại vào thi đấu Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu. Giải năm 1989 đ ược tổ chức ngay tại Đức. Trận bán kết gặp đội tuyển Ý là trận thi đấu quốc tế đầu tiên của đội bóng đá nữ quốc gia được truyền hình trực tiếp. Nữ anh hùng của trận này là thủ môn Marion Isbert, phá được 3 quả luân lưu 11 m và tự sút thành công một quả 11 m. Trận chung kết Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 1989 giữa đội bóng nữ Đức và Na Uy diễn ra vào ngày 2 tháng 7 năm 1989 tại Osnabrück trước 23.000 khán giả, cho đến nay vẫn là kỷ lục về số lượng khán giả cho một trận thi đấu trên sân nhà của Đội bóng đá nữ quốc gia Đức. Đội bóng của DFB đã chiến thắng với tỷ số 4:1, đánh dấu bước đột phá cho nền bóng đá nữ của Đức. Silvia Neid đóng vai trò đạo diễn khu trung tuyến, ngôi sao Doris
  5. Fitschen nổi bật ở hàng hậu vệ và Heidi Mohr thuộc vào trong số những tiền đạo xuất sắc nhất trên thế giới tại thời điểm đấy. Đội hình vô địch châu Âu 1989: Marion Isbert – Frauke Kuhlmann – Jutta Nardenbach – Sissy Raith – Andrea Haberlaß (Roswitha Bindl) – Doris Fitschen (Angelika Fehrmann) – Silvia Neid – Petra Damm – Martina Voss – Heidi Mohr – Ursula Lohn Bàn thắng: Lohn (2), Fehrmann, Mohr [2] Đội bóng đã bảo vệ thành công danh hiệu này 2 năm sau đấy. Đội đã chiến thắng tất cả 11 trận trong vòng loại. Lại gặp Ý trong trận bán kết, đội bóng đá nữ lần này đã chiến thắng rõ rệt với tỷ số 3:0 để vào chung kết gặp Na Uy tại thành phố Đan Mạch Allborg. Hai bàn thắng của Heidi Mohr và Silvia Neid trong hiệp phụ đầu tiên đã mang về chiến thắng cho đội bóng Đức với tỉ số chung cuộc là 3:1. Đội hình vô địch châu Âu 1991: Marion Isbert – Doris Fitschen – Jutta Nardenbach – Frauke Kuhlmann – Britta Unsleber (Gudrun Gottschlich) – Silvia Neid – Petra Damm – Sissy Raith (Andrea Hengst) – Martina Voss (Katja Bornschein) – Heidi Mohr – Bettina Wiegmann Bàn thắng: Mohr (2), Neid[3] Tháng 11 cùng năm Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Đức đã đến Cộng hòa Nhân dân Trung hoa tham dự Giải vô địch bóng đá nữ thế giới được tổ chức lần đầu tiên. Tuy chiến thắng các đội bóng nữ của Ý, Đài Loan, Nigeria, Đan Mạch nhưng đội bóng đã thất bại trong trận gặp đội bóng USA cũng như trong trận tranh hạng ba với đội bóng Thụy Điển.
  6. Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 1993 là mang lại nhiều thất vọng. Đội đã thất bại trước đội bóng Ý trong trận bán kết ở loạt đá luân lưu và cũng thất bại trong trận tranh hạng ba khi gặp đội Đan Mạch. Bisanz đã đưa Steffi Jones, Maren Meinert, Birgit Prinz và Silke Rottenberg là các nữ cầu thủ trẻ có nhiều tài năng vào đội hình, tạo nền tảng cho các thành công sau này. 1994-2001: Chiến thắng liên tục tại châu Âu, thất vọng trong Giải vô địch bóng đá thế giới và Thế vận hội Năm 1995 đội lại vào vòng chung kết của Giải bóng đá vô địch châu Âu, thắng trong tất cả các trận thi đấu ở vòng loại và mãi cho đến trận bán kết gặp đội tuyển Anh đội vẫn chưa thua một bàn. Trận chung kết diễn ra vào ngày 26 tháng 3 năm 1995 trên Sân vận động Fritz Walter tại thành phố Kaiserslautern. Đội tuyển Đức đã chiến thắng đội tuyển Thụy Điển với kết quả sít sao 3:2. Đội hình vô địch châu Âu 1995: Manuela Goller – Ursula Lohn – Anouschka Bernhard - Birgitt Austermühl – Bettina Wiegmann – Maren Meinert – Silvia Neid – Martina Voss (Pia Wunderlich) – Dagmar Pohlmann – Heidi Mohr – Patricia Grigoli-Brocker (Birgit Prinz) Bàn thắng: Meinert, Prinz, Wiegmann[4] Giải vô địch thế giới lần thứ hai được tổ chức trong mùa hè 1995 tại Thụy Điển. Tuy vào được vòng chung kết nhưng ước mơ vô địch thế giới đã không thành, đội tuyển Na Uy đã thắng trận chung kết với tỉ số 2:0. Một năm sau đấy, tại Atlanta, bóng đá nữ lần đầu tiên được tổ chức thi đấu trong Thế vận hội. Bettina Wiegmann đã ghi bàn thắng Thế vận hội đầu tiên trong trận khai mạc gặp Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Nhật. Thế nhưng đội tuyển Đức không qua được vòng đầu. Gero Bisanz xin từ chức sau giải này. Dưới sự lãnh đạo của ông, Đội tuyển bóng đá
  7. nữ của Đức đã trở thành một trong những đội nữ mạnh nhất. Tina Theune-Meyer, từ 1983 là phụ tá huấn luyện viên, trở thành người kế nhiệm. Theune-Meyer trẻ hóa đội ngũ, Silvia Neid chấm dứt sự nghiệp đá bóng, các cầu thủ trẻ như Ariane Hingst, Kerstin Stegemann hay Sandra Smisek bắt đầu nổi tiếng. Cuộc thử thách đầu tiên cho đội bóng là Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 1977 tại Na Uy. Nhờ vào chiến thắng 2:0 trong trận gặp đội nữ Đan Mạch, đội đ ã lọt vào vào bán kết và tại đây, đội đã thắng dội tuyển bóng đá nữ quốc gia Thụy Điển với tỉ số 1:0. Trong trận chung kết, đội bóng của huấn luyện viên Theune-Meyer lại gặp đội bóng nữ Ý. Nhờ vào các bàn thắng của Sandra Minnert và Birgit Prinz, đội tuyển nữ của Đức đã đoạt giải vô địch châu Âu lần thứ tư. Đội hình vô địch châu Âu 1997: Silke Rottenberg – Steffi Jones – Kerstin Stegemann – Doris Fitschen – Sandra Minnert – Ariane Hingst – Maren Meinert (Claudia Klein) – Bettina Wiegmann – Pia Wunderlich – Birgit Prinz (Sandra Smisek) – Monika Meyer (Claudia Müller) Bàn thắng: Minnert, Prinz [5] Đội tuyển bóng đá nữ của Đức chỉ qua được vòng loại của Giải vô địch bóng đá nữ thế giới lần thứ ba tại Hoa Kỳ một cách rất chật vật. Ngay trận đầu tiên đội đã hòa đội tuyển Ý một cách không may mắn. Sau đấy là chiến thắng đội tuyển Mexico với tỉ số 6:0. Inka Grings đã ghi được 3 bàn thắng, kỷ lục thi đấu giải vô địch thế giới cho đội Đức. Trong trận thi đấu cuối cùng của bảng, đội đã hòa Brasil với tỉ số 3:3. Bàn gỡ hòa của Brasil được ghi vào phút cuối cùng của trận đấu, đội tuyển Đức vì thế đánh mất vị trí đầu bảng, phải gặp đội chủ nhà trong trận tứ kết. Mặt dù dẫn tỉ số trước 2 lần nhưng đội đã đánh mất tinh thần và cuối cùng đã thua với tỉ số 2:3. Liên đoàn bóng đá Đức kỷ niệm 100 năm ngày thành lập trong năm kế tiếp sau đó. Để chuẩn bị cho Thế vận hội mùa hè 2000 Liên đoàn đã tổ chức cuộc thi đấu với các đội
  8. tuyển quốc gia của Hoa Kỳ, Na Uy và Trung Quốc. Đội tuyển Đức đã về chót sau khi thua cả ba trận. Tuy vậy, đội đã thi đấu tốt hơn trong Thế vận hội mùa hè. Đội bị loại trong trận bán kết do bàn đá vào lưới nhà của Tina Wunderlich. Đội đoạt huy chương đồng sau khi chiến thắng đội Brasil với tỉ số 2:0 trong trận tranh hạng ba. Đây là huy chương Thế vận hội đầu tiên cho Liên đoàn bóng đá Đức. Năm 2001 đội bóng nữ Đức tiếp tục vượt qua được vòng loại của Giải vô địch bóng đá châu Âu. Sau chiến thắng 1:0 trong trận bán kết gặp Na Uy, đội bóng đá Đức lại gặp đội tuyển Thụy Điển trong trận chung kết trên Sân vận động Donau tại Ulm. Claudia Müller đã ghi bàn thắng vàng ở phút thứ 98, mang lại chiến thắng lần thứ 5 cho đội tuyển. Đội hình vô địch châu Âu 2001: Silke Rottenberg – Kerstin Stegemann – Steffi Jones – Doris Fitschen – Ariane Hingst – Pia Wunderlich – Bettina Wiegmann – Renate Lingor – Birgit Prinz – Maren Meinert – Sandra Smisek (Claudia Müller) Bàn thắng: Müller [6] 2002-2005: Vô địch thế giới Đội tuyển của Theune Meyer vượt qua được vòng loại của Giải vô địch bóng đá nữ thế giới năm 2003 được tổ chức ở Hoa Kỳ mà không để mất một điểm nào. Sau vòng thi đấu bảng với các chiến thắng rõ rệt, đội tuyển Đức đã chiến thắng đội tuyển Nga trong trận tứ kết với tỉ số 7:1. Gặp đội chủ nhà trong trận bán kết, đội tuyển Đức đã chiến thắng với tỉ số 3:0 nhờ vào các bàn thắng của Maren Meinert và Birgit Prinz trong những phút thi đấu cuối cùng. Trận này được nhiều chuyên gia cho là trận thi đấu bóng đá nữ hay nhất từ trước đến nay.[7]. Đội tuyển gặp Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Thụy Điển trong trận chung kết. Thụy Điển mở tỉ số trước ở phút thứ 41 do lỗi của hàng hậu vệ Đức. Ngay sau khi bắt đầu hiệp 2, Maren Meinert đã gỡ hòa cho đội tuyển Đức. Nia Künzer đội đầu ghi bàn trong hiệp phụ và Đức đoạt chức vô địch thế giới nhờ vào quy định bàn thắng vàng.
  9. Liên đoàn bóng đá Đức là liên đoàn đầu tiên và cho đến nay (2007) là liên đoàn duy nhất đã đoạt giải vô địch bóng đá thế giới ở cả nam lẫn nữ. Chiến thắng này là một đột phá cho nền bóng đá nữ ở Đức. Hằng ngàn người hâm mộ đã nhiệt liệt đón chào khi đội tuyển vô địch thế giới về đến quê hương. Đội hình vô địch thế giới 2003: Silke Rottenberg – Kerstin Stegemann, Ariane Hingst, Sandra Minnert, Stefanie Gottschlich – Kerstin Garefrekes (phút 76 Martina Müller), Bettina Wiegmann, Renate Lingor, Pia Wunderlich (phút 88 Nia Künzer) – Maren Meinert, Birgit Prinz Bàn thắng: Künzer, Meinert [8] Trận thi đấu đầu tiên sau giải vô địch thế giới là trận gặp Bồ Đào Nha trong vòng loại Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu. Tỉ số 13:0 cho đến nay là chiến thắng cao nhất của đội tuyển Liên đoàn bóng đá Đức. Trong năm kế tiếp đội đến Athena tham dự Thế vận hội. Trận đầu tiên (gặp Trung Quốc) đã mang lại chiến thắng 8:0. Birgit Prinz ghi 4 b àn thắng trong trận này. Trận tứ kết gặp Nigeria là một trận thắng cực nhọc. Nhờ vào bàn thắng của Steffi Jones và Conny Pohlers mà đội Đức đã lật ngược được tình thế. Đội bóng Hoa Kỳ đã phục thù cho Giải vô địch thế giới năm trước đấy khi gặp đội tuyển Đức trong trận bán kết. Kristine Lilly mở tỉ số trước cho đội tuyển Hoa Kỳ, tuy Isabell Bachor đã gỡ hòa ngay trong những phút cuối cùng của hiệp 2 nhưng cuối cùng đội Hoa Kỳ đã ghi bàn thắng trong hiệp phụ. Đội tuyển Đức nhận huy chương đồng thứ nhì sau khi chiến thắng đội Thụy Điển trong trận tranh giải hạng ba. 2005-đến nay:Xây dựng mới, bảo vệ thành công chức vô địch Giải vô địch bóng đá châu Âu 2005 được tổ chức tại Anh quốc. Sau chiến thắng đầu tiên đầy khó nhọc 1:0 trong trận gặp Na Uy, đội tuyển Đức đ ã chiến thắng các đội Ý và Pháp đầy thuyết phục. Đối thủ của trận bán kết là Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Phần Lan. Đội bóng Bắc Âu đã bị bất ngờ trước các bàn thắng nhanh chóng của Inka Grings (2 b àn)
  10. và Conny Pholers. Sau bàn gỡ của đối phương, Birgit Prinz đã ghi bàn mang lại quyết định cho trận đấu. Na Uy là đối thủ trong trận chung kết. Đội tuyển Đức dẫn trước với hai bàn thắng của Inka Grings và Renate Lingor. Dany Mellgren rút ngắn khoảng cách tỉ số ngay trước khi nghỉ giữa trận. Birgit Prinz đ ã ghi bàn thắng quyết định cho đội tuyển Đức. Sau giải vô địch này Tina Theune-Meyer đã giao lại chức vụ huấn luyện viên cho người phụ tá là Silvia Neid. Đội hình vô địch châu Âu 2005: Silke Rottenberg – Kerstin Garefrekes; Ariane Hingst; Steffi Jones; Sandra Minnert – Britta Carlson (Sarah Günther); Inka Grings (Sandra Smisek); Renate Lingor; Conny Pohlers – Anja Mittag (Petra Wimbersky); Birgit Prinz Bàn thắng: Grings, Lingor, Prinz[9] Với Silvia Neid là huấn luyện viên trưởng, đội tuyển Đức lần đầu tiên đoạt Cúp Algarve năm 2006. Đội tuyển một lần nữa được trẻ hóa, các nữ cầu thủ mới như Annike Krahn hay Célia Okoyino da Mbabi trở thành những cầu thủ dẫn đầu mặc dầu vẫn còn trong độ tuổi rất trẻ. Đội bóng đá nữ của Silvia đã thắng tất cả 8 trận trong vòng loại của Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2007 được tổ chức tại Trung Quốc. Lần đầu tiên, đội tuyển Đức đã nhận được một khoản tiền thưởng từ Liên đoàn bóng đá Đức khi qua được vòng loại của một giải vô địch lớn. Đội tuyển đã nhận được tổng cộng 200.000 Euro. Một cảnh trong trận thi đấu Đức-Séc tại Gera vào ngày 2 tháng 8 năm 2007
  11. Năm tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới khởi đầu không mấy may mắn cho đội tuyển Đức. Giải 4 đội quốc gia tại Trung Quốc chỉ mang lại 3 trận hòa Trung Quốc, Anh và Hoa kỳ. Tại Cúp Algarve vào tháng 3 đội chỉ có một trận thắng duy nhất trong trận gặp Đan Mạch nhưng lại thua 3 trận khi gặp các đội tuyển của Na Uy, Pháp và Ý, đứng hạng thứ 8. Đội tuy đã thi đấu áp đảo trong tất cả các trận nhưng lại bỏ lỡ cơ hội ghi bàn thắng rất nhiều lần. Vì kết quả của cúp này mà vào tháng 3 năm 2007 đội tuyển Đức đã phải nhường vị trí dẫn đầu trong danh sách xếp hạng của FIFA lại cho Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Hoa Kỳ sau hơn 3 năm đứng đầu bảng. Cùng với các trận thi đấu vòng loại của Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 2009, đội đã có thể tiếp tục kết nối với các thành tích trước đây: thắng Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Hà Lan với tỉ số 5:1. Trận thi đấu gặp Thụy Sĩ trong vòng loại Giải vô địch châu Âu cũng là dịp kỷ niệm 25 năm ngày thành lập đội bóng nữ, chiến thắng 7:0 trong trận này cũng là chiến thắng lần thứ 200 trong các trận thi đấu quốc tế. Trong vòng thi đấu bảng tại Giải vô địch bóng đá thế giới 2007, đội tuyển gặp các đội bóng của Argentina, Anh và Nhật. Nhờ chiến thắng đội Argentina (11:0, chiến thắng đậm nhất từ trước đến nay trong Giải vô địch bóng đá thế giới) và đội Nhật (2:0) cũng như hòa đội Anh mà đội tuyển Đức lọt vào vòng tứ kết. Đội bóng Đức thắng trận tứ kết gặp Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Triều Tiên với tỉ số 3:0. Cũng với tỉ số 3:0, đội đã thắng đội tuyển Na Uy trong trận bán kết. Đánh bại đội tuyển Brasil trong trận chung kết ngày 30 tháng 9 năm 2007 tại Thượng Hải (2:0), đội lại một lần nữa đoạt chức vô địch thế giới. Nhờ vào nữ thủ môn Nadine Angerer mà đội đạt thêm một kỷ lục mới: không một bàn thua trong suốt một giải vô địch. Đội hình vô địch thế giới 2007: Nadine Angerer – Kerstin Stegemann; Annike Krahn; Ariane Hingst; Linda Bresonik - Kerstin Garefrekes; Simone Laudehr; Renate Lingor; Melanie Behringer (Martina Müller) – Sandra Smisek (Fatmire Bajramaj); Birgit Prinz
  12. Bàn thắng: Prinz, Laudehr Đội bóng Đội hình hiện tại Thời điểm 22 tháng 9 năm 2007, đội hình thi đấu Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2007 Số trận Bàn Thi đấu Số áo Tên Ngày sinh Câu lạc bộ lần đầu thi đấu thắng Thủ môn Nadine 1. FFC Turbine 1 10/11/1978 1996 53 - Angerer Potsdam SC 07 Bad 12 Ursula Holl 26/06/1982 2007 2 - Neuenahr Silke 21 25/01/1972 1993 1.FFC Frankfurt 123 - Rottenberg Hậu vệ
  13. Saskia 3 29/09/1982 2007 1.FFC Frankfurt 6 - Bartusiak FCR 2001 15 Sonja Fuss 05/11/1978 1996 51 3 Duisburg Djurgården 17 Ariane Hingst 25/07/1979 1996 139 9 Damfotboll FCR 2001 5 Annike Krahn 01/07/1985 2005 29 1 Duisburg Sandra SC 07 Bad 13 07/04/1973 1992 144 15 Minnert Neuenahr 1. FFC Turbine 4 Babett Peter 12/05/1988 2006 13 - Potsdam Kerstin SG Wattenscheid 2 29/09/1977 1995 168 7 Stegemann 09 Tiền vệ Fatmire FCR 2001 19 01/04/1988 2005 11 1 Bajramaj Duisburg
  14. Melanie 7 18/11/1985 2005 SC Freiburg 21 8 Behringer Linda SG Essen- 6 07/12/1983 2001 34 2 Bresonik Schönebeck Kerstin 18 04/09/1979 2001 1. FFC Frankfurt 84 28 Garefrekes Simone FCR 2001 14 12/07/1986 2007 7 1 Laudehr Duisburg 10 Renate Lingor 11/10/1975 1995 1. FFC Frankfurt 135 33 Petra 20 09/11/1982 2001 1. FFC Frankfurt 66 15 Wimbersky Tiền đạo 1. FFC Turbine 11 Anja Mittag 16/05/1985 2001 41 5 Potsdam Martina 16 18/04/1980 2000 VfL Wolfsburg 61 27 Müller
  15. 9 Birgit Prinz 25/10/1977 1994 1. FFC Frankfurt 170 114 Sandra 8 03/07/1977 1995 1. FFC Frankfurt 122 31 Smisek Huấn luyện viên Huấn luyện Liên đoàn bóng Silvia Neid 02/05/1964 2005 viên trưởng đá Đức Liên đoàn bóng Ulrike Phụ tá 17/09/1965 2005 - - đá Đức Ballweg Các cựu nữ cầu thủ nổi tiếng Birgitt Austermühl Marion Isbert Jutta Nardenbach    Anouschka Bernhard Steffi Jones* Silvia Neid    Katja Bornschein Frauke Kuhlmann Sissy Raith    Petra Damm Nia Künzer* Britta Unsleber    Doris Fitschen Ursula Lohn Martina Voss    Manuela Goller Maren Meinert Elke Walther    Stefanie Gottschlich Heidi Mohr Bettina Wiegmann   
  16. Patricia Brocker Claudia Müller   Chú thích: Nữ cầu thủ có đánh dấu * là vẫn còn thi đấu Các nữ cầu thủ giữ kỷ lục Tham gia thi đấu nhiều nhất Các nữ cầu thủ dưới đây đã tham gia thi đấu quốc tế ít nhất là 100 lần:[10] Số lần Tên Thi đấu lần đầu Thi đấu lần cuối vẫn còn thi đấu 27 tháng 7 năm 1994 170 Birgit Prinz Kerstin vẫn còn thi đấu 13 tháng 4 năm 1995 168 Stegemann Bettina 1 tháng 10 năm 1989 12 tháng 10 năm 2003 154 Wiegmann Doris Fitschen 4 tháng 10 năm 1986 7 tháng 7 năm 2001 144 Sandra vẫn còn thi đấu 28 tháng 5 năm 1992 Minnert vẫn còn thi đấu Ariane Hingst 27 tháng 8 năm 1996 139
  17. vẫn còn thi đấu Renate Lingor 25 tháng 10 năm 1995 135 3 tháng 10 năm 1984 16 tháng 3 năm 2000 125 Martina Voss Silke vẫn còn thi đấu 7 tháng 4 năm 1993 123 Rottenberg vẫn còn thi đấu Sandra Smisek 13 tháng 4 năm 1995 122 3 tháng 7 năm 1993 14 tháng 3 năm 2007 Steffi Jones 111 10 tháng 11 năm 1982 25 tháng 7 năm 1996 Silvia Neid 19 tháng 5 năm 1986 29 tháng 9 năm 1996 104 Heidi Mohr Pia 7 tháng 12 năm 1993 1 tháng 3 năm 2006 102 Wunderlich Ghi bàn thắng nhiều nhất Các nữ cầu thủ sau đây đã ghi ít nhất 25 bàn thắng trong các trận thi đấu quốc tế[11] Số bàn Đá phạt Ngày ghi bàn thắng Ngày ghi bàn thắng Tên thắng 11 m đầu tiên cuối cùng
  18. vẫn còn thi đấu 27 tháng 7 năm 1994 114 1 Birgit Prinz 27 tháng 7 năm 1986 29 tháng 9 năm 1996 83 0 Heidi Mohr 14 tháng 10 năm 1990 27 tháng 9 năm 2003 51 14 Bettina Wiegmann 10 tháng 11 năm 1982 25 tháng 10 năm 1995 48 0 Silvia Neid 28 tháng 5 năm 1998 20 tháng 10 năm 2005 41 0 Inka Grings vẫn còn thi đấu 14 tháng 2 năm 1999 7 Renate Lingor 34 3 tháng 7 năm 1993 12 tháng 10 năm 2003 1 Maren Meinert vẫn còn thi đấu 13 tháng 4 năm 1995 31 0 Sandra Smisek Patricia Brocker (tên 18 tháng 4 năm 1992 28 tháng 6 năm 1996 30 0 thời con gái Grigoli) vẫn còn thi đấu 27 tháng 1 năm 2002 28 0 Kerstin Garefrekes vẫn còn thi đấu 10 tháng 5 năm 2001 27 0 Martina Müller
  19. 27 tháng 7 năm 1986 14 tháng 10 năm 1999 0 Martina Voss 25 tháng 10 năm 2001 vẫn còn thi đấu 25 0 Conny Pohlers Cho đến nay có 2 nữ cầu thủ ghi 5 bàn thắng trong một trận thi đấu quốc tế: Conny Pohlers trong trận gặp Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Bồ Đào Nha vào ngày 25 tháng 10 năm 2001 và Inka Grings cũng trong trận gặp đội tuyển Bồ Đào Nha vào ngày 7 tháng 2 năm 2004. Huấn luyện viên Gero Bisanz (1982-1996) sinh ngày 3 tháng 11 năm 1935 là huấn luyện viên đầu  tiên của Đội bóng đá nữ quốc gia Đức. Vị huấn luyện viên trưởng này đã dẫn dắt thành công đội bóng trong các Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 1989, 1991 và 1995. Năm 1993 đội về hạng 4, cho đến nay là thành tích kém nhất trong Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu. Trong các Giải vô địch bóng đá thế giới Bisanz đ ã cùng với đội tuyển đứng hạng 4 năm 1991 và hạng nhì năm 1995. Ông đã cùng Tina Theune-Meyer định hướng thành công cho việc đào tạo đội cầu thủ trẻ. Tina Theune-Meyer (1996-2005) sinh ngày 4 tháng 11 năm 1953 tiếp nhận chức  vụ huấn luyện viên trưởng sau Thế vận hội mùa hè 1996. Theune-Meyer là người phụ nữ đầu tiên có bằng huấn luyện viên bóng đá. Dưới sự lãnh đạo của bà đội tuyển Đức đã đoạt chức vô địch trong các Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 1997, 2001 và 2005. Đội đoạt huy chương đồng trong Thế vận hội 2000 và 2004. Thành công lớn nhất của bà là các chiến thắng trong Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2003 tại Hoa Kỳ. Tina Theune-Meyer là nữ huấn luyện viên đội tuyển quốc gia thành công nhất cho đến nay. Bà đã gặt hái thành quả đào tạo mầm non và đã đưa nhiều nữ tuyển thủ của đội U-19 vào đội tuyển quốc gia. Bà xin từ chức sau thành công trong Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 2005.
  20. Silvia Neid (từ 2005) sinh ngày 02 tháng 5 năm 1964, trước đó là phụ tá của Tina  Theune-Meyer và đã là huấn luyện viên của đội tuyển quốc gia U-19. Bà đã cùng đội U-19 đoạt chức vô địch thế giới năm 2005. Việc Silvia Neid kế nhiệm chức vụ huấn luyện viên không phải là đã không gây ra tranh cãi. Sau thất bại trong Cúp Algarve 2007, bà đã bị nhiều cổ động viên chỉ trích về phương pháp làm việc cũng như trong việc tuyển lựa nữ cầu thủ cho đội tuyển. Tuy vậy Neid đ ã bảo vệ thành công danh hiệu vô địch thế giới tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2007. Hợp đồng huấn luyện viên của bà với Liên đoàn bóng đá Đức được ký kết kéo dài cho đến năm 2011 ngay trong khi giải vô địch đang được tiến hành. Trợ lý huấn luyện viên là Ulrike Ballweg. Trang phục Thông thường các nữ cầu thủ mang áo trắng, quần đen và tất trắng. Màu trắng đen là màu truyền thống của nước Phổ. Áo trắng có mang vạch của adidas trên vai. Vào khoảng từ cổ đến ngang thắt lưng là một đường sọc có chiều ngang rộng thêm ra, bên phải là màu đỏ, bên trái là màu vàng. Trang phục phụ bao gồm áo đỏ cũng có 2 vạch màu như trang phục chính nhưng lại là màu trắng, quần trắng và tất đỏ. Trước đây đội tuyển có trang phục phụ bao gồm áo xanh, quần trắng và tất xanh. Từ khi đoạt Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2003 các nữ tuyển thủ quốc gia Đức mang một ngôi sao trên áo. Trước đấy đội mang 3 ngôi sao tượng trưng cho 3 lần vô địch thế giới của Đội tuyển bóng đá quốc gia Đức. Adidas là doanh nghiệp trang bị cho đội tuyển. Sân thi đấu Cũng như đội tuyển nam, đội tuyển nữ của Đức không có sân thi đấu cố định. Các trận thi đấu trên sân nhà được luân phiên tổ chức tại nhiều sân vận động khác nhau. Cho đến thời điểm 10 tháng 9 năm 2007 đội tuyển nữ của Đức đã thi đấu tại 83 thành phố Đức. Đội nam chỉ thi đấu tại 40 sân khác nhau mặc dầu đ ã thi đấu nhiều trận hơn. Phần lớn các trận thi đấu được tổ chức tại Osnabrück và Ulm. Hai thành phố này cho đến nay đã 5 lần là chủ nhà. Đội hình của DFB thi đấu 3 lần tại mỗi một thành phố Koblenz, Lüdenscheid, Rheine, Siegen và Weil am Rhein.
nguon tai.lieu . vn