Xem mẫu
- Để trở thành người quản lý
giỏi
kỹ năng quản lý của mình. Sau đây là những điều cần thiết để nâng cao kỹ năng quản
lý...
Kiểm kiến thức bản
tra thân
Theo các chuyên gia phân tích, trước khi khởi nghiệp, mỗi người c ần bi ết đ ược đi ểm
mạnh, điểm yếu của mình là gì. Để làm được điều này, doanh nghiệp cần xem l ại
những gì mình biết và không biết về việc quản lý. Hãy kiểm lại những kinh nghiệm
của mình và những người đi trước xem những gì là có lợi và đi ểm gì ph ải thay đ ổi.
Điều này sẽ giúp bạn tìm ra những tính cách tốt và xấu từ những ông ch ủ cũ và t ận
dụng kiến thức đó cho mình.
một người cố vấn dạn nghiệm
Tìm dày kinh
Bạn có thể tìm ngay trong chỗ làm của mình một người quản lý đã có kinh nghi ệm, có
uy tín, theo dõi học hỏi họ những thói quen, cách xử thế tốt r ồi sau đó v ận d ụng. B ạn
cũng có thể học kinh nghiệm từ những người quản lý gi ỏi ở n ơi khác ho ặc khi thân
tình hơn có thể nhờ họ cố vấn cho mình.
Học lại Tự tạo lại
– đào
Đừng bao giờ coi việc học hành của mình đã đủ mà nên thường xuyên h ọc l ại. Hi ện
- nay có nhiều tổ chức cung cấp các khóa phát tri ển kỹ năng quản lý và cũng có nhi ều
hội thảo xoay quanh vấn đề này, bạn đừng bỏ lỡ những c ơ hội để có th ể h ọc thêm
chúng.
Đọc sách
Ai cũng biết, sách chính là kho tàng vô tận ki ến thức của cả th ế gi ới, vì th ế bạn cũng
có thể tìm hiểu qua sách cách tổ chức quản lý, kỹ năng điêu hành... Tất nhiên ta không
nên áp dụng một cách máy móc mà cần biết sử dụng nó trong t ừng tình hu ống c ụ th ể,
việc cụ thể cụ thể.
công hay quá trình
Học lắng hiểu người
cách nghe và khác
Bí quyết để thành công trong vai trò lãnh đạo là bi ết cách giao ti ếp và đánh giá chính
xác nhân viên của mình. Đó là phần thách thức nhất trong vi ệc qu ản lý c ủa nhi ều nhà
chuyên nghiệp khi ở trong tình thế chuyển từ một người bạn sang v ị trí đi ều khi ển.
Khi thiết lập mối quan hệ với một tập thể mới, điều quan trọng là phải thẳng thắn và
trung thực. Ngoài ra, đánh giá thực tế, khả năng làm vi ệc của nhân viên và nói chuy ện
với họ về chất lượng công việc cũng cần thiết và phải làm thường (uyên, song tránh
nặng nề, quy chụp mặc dù bạn vẫn phải luôn yêu cầu họ làm tốt.
Đặ t của hết
nhân viên mình lên trên
Một người lãnh đạo tốt là người biết cách đào tạo, hỗ trợ và khích lệ nhân viên mình.
Nếu bạn không dành thời gian hỗ trợ nhân viên và bảo đảm đáp ứng nhu c ầu h ợp lý
của họ thì họ khó có thể ủng hộ lần làm tốt mọi việc.
Pich Moore, một chuyên gia cao cấp tại Hi ệp hội Qu ản lý AAMI ở M ỹ, đã nói: "Nhà
quản lý hiệu quả nhất là người tiết được tài năng của từng đối tượng và dành thời gian
để tìm hiểu nhân viên của mình".
dân thường).
Văn hóa Việt Nam
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Văn hóa Việt Nam: Là Văn hóa 54 Dân tộc Việt nam hay nói riêng là văn hóa của dân
tộc Kinh đại đa số đã có nguồn gốc tại miền bắc Việt Nam, là một trong những nền
văn hóa lâu đời nhất ở trong khu vực Thái Bình Dương. Mặc dù như vậy, nhưng qua
ảnh hưởng lớn của Trung Hoa, văn hóa Việt Nam đã lập ra rất nhiều đặc điểm khá
giống với những dân tộc của các nước Đông Á, và khác những nước ở khu Thái Bình
Dương (như là Campuchia, Lào và Thái Lan) những nơi vốn đã chịu một phần lớn ảnh
hưởng của văn hóa Ấn Độ.
Mặc dù ảnh hưởng Trung Hoa được coi là ảnh hưởng lớn nhất c ủa văn hóa ngo ại lai
trên nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, dân tộc Kinh vẫn giữ gìn được rất nhiều nét văn
hóa riêng của mình, mà cho tới ngày hôm nay những phong tục riêng đó vẫn quan trọng
vô cùng trong đời sống của người Việt.
- Có nhiều nhà viết sử cho rằng là trước khi chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa,
Văn hóa Đông Sơn có gốc ở miền bắc Việt Nam (mà cũng đã phát triển mạnh ở những
nước khác ở khu Thái Bình Dương) là phần đầu của lịch sử Việt Nam.
Có thể nói chung văn hóa của Việt Nam là một pha trộn đặc biệt giữa nhiều những
văn hóa cổ xưa cùng với văn hóa bản xứ của người Bách Việt. Ngoài ảnh hưởng lớn
nhất của Trung Hoa, văn hóa của người Việt còn chịu sự ảnh h ưởng c ủa văn hóa
phương Tây và có các văn hóa riêng biệt của một bộ phận 53 dân tộc thi ểu số tại Việt
Nam .
Mục lục
[ẩn]
1 Đất nước
1.1 Tổ chức cộng đồng
1.2 Văn hóa ứng xử với môi trường tự
nhiên
1.3 Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
2 Xã hội
3 Trong quá khứ
4 Sinh hoạt hiện đại
4.1 Ẩm thực
4.2 Trang phục
5 Tôn giáo
6 Ngày lễ
7 Truyền thông
8 Văn hóa vùng lãnh thổ
8.1 Vùng đồng bằng Bắc Bộ
8.2 Vùng Việt Bắc
8.3 Vùng Tây Bắc và miền núi Thanh
Nghệ
8.4 Vùng Bắc Trung Bộ
8.5 Vùng Nam Trung Bộ
8.6 Vùng Trường Sơn - Tây Nguyên
8.7 Vùng Nam Bộ
9 Xem thêm
10 Liên kết ngoài
[sửa] Đất nước
- Chùa Thiên Mụ ở Huế, Việt Nam
Văn hóa Việt Nam Chủng Bách Việt đã ít nhiều thay đổi Cách du canh du cư của nền
Văn Hóa "Mông Cổ "Quan Tàu phương Bắc, Nay Chủng Bách Việt còn tồn tại ở Đảo
Đài Loan
Chủng Việt đổi ngay sang phụ hệ, vào lúc chia tay. Bằng cách cho con tr ường, mang
hai giòng máu Thái-Việt, lên ngôi vua xưng là Hùng Vương và truyền lại 18 đời theo
lối thế tập của Phụ hệ ( con mang họ của người cha ). Thờ cúng ông bà : Cửu Huyền
Thất Tổ
Có lẽ dưới sức ép phải minh chứng với người nghe kể chuyện là đám con theo Cha
cũng tiến lên phụ hệ một lượt với các quan thầy Bắc phương, từ thời nhà Hạ bên Tàu.
[1] = Mẹ Thái + Cha Việt (? ? ? ? ? ? ? ? ? ? ? ? ? ? ? ? ? ? ? ? ? ? )
Sau nầy Cấm Cha Việt + mẹ Chiêm,có lẻ người Việt lấy vợ Chiêm quá nhiều,ở Đàng
trong.Đã Hợp nhất nên nền Văn hóa/ [2], thành Văn hóa Trung Ấn kể từ Hải Vân đến
Mủi Cà Mau,ảnh hưởng của người vợ Chiêm phải nói là đáng kể, người ta phải cấm
quần không đáy.. Đặc biệt là văn hóa Miền Bắc Việt Nam rất đa dạng. Nó được đúc
kết qua hàng ngàn năm lịch sử. Các phong tục như tục nhuộm răng, ăn trầu, các lễ hội
như: lễ hội Chùa Hương, giỗ tổ Hùng Vương, hội Lim, hội xuống đồng của người
Tày. Ở các dân tộc miền núi có ngày hội tình yêu, đ ến m ỗi d ịp Xuân v ề nh ững đôi trai
gái tập trung lại họ chơi các trò chơi như ném Còn, hát Đối...
[sửa] Tổ chức cộng đồng
Cộng đồng người Việt được tổ chức theo các đơn vị cơ bản là làng. Làng là một tổ
chức khá khép kín. Làng thường có đình làng là nơi thờ cúng các vị thành hoàng và h ội
họp dân làng, nơi tổ chức các lễ hội quan trọng. Làng được bao bọc bởi lũy tre và có
cổng, trong làng còn có cây đa, có thể có chùa. Những người đứng đầu làng được mọi
người tôn kính, thường là những người già cả, người có ti ền đ ược g ọi là các tr ưởng
làng. Làng thường có những luật lệ riêng, được gọi là các Hương Ước của làng. Làng
biểu hiện tất cả những nét tốt đẹp cũng như những hiện t ượng tiêu c ực c ủa văn hóa
Việt Nam thời phong kiến.
- Đơn vị xã hội nhỏ hơn làng là các gia đình. Khác với người phương Tây, gia đình ở
Việt Nam được hiểu là một gia đình lớn, gồm có nhiều thế hệ có quan hệ máu m ủ
ruột thịt cùng chung sống. Gia đình được tổ chức theo thứ bậc chặt chẽ, người dưới
phải có hiếu và kính trọng người trên, người trên có nghĩa vụ phải chăm lo dạy dỗ con
cháu nên người.
[sửa] Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
Vì nền tảng văn hóa là nền sản xuất nông nghiệp nên người Việt có quan niệm ứng
xử hài hòa với thiên nhiên. Kinh thành Huế được xây dựng theo quan niệm hòa hợp
với cảnh quan xung quanh.
Người Việt có hiểu biết lớn về thiên nhiên, đặc biệt là về điều kiện tự nhiên thích
hợp cho nông nghiệp. Người Việt có nhiều kinh nghiệm trong việc chống chọi với
thiên nhiên để phát triển nông nghiệp.
Trong quan niệm về kiến trúc, xây nhà, dựng cửa: người Việt biết chọn hướng nhà,
chọn đất, tránh hướng gió độc, đón lấy hướng mặt trời mọc, hay xây dựng nhà cửa
gần sông suối để tiện nước sinh hoạt, trồng trọt.("nhất cận thị, nhị cận giang"), xây
mặt nhà ra hướng biển để tưởng nhớ tổ tiên nằm lại ngoài biển khơi, khi có các trận
Bảo biển đi qua, họ không có ngày về . Một điểm đăc biệt trong ki ến trúc nhà c ửa là
các kiến trúc đều thuận theo thuật phong thủy. Đó là sự hài hòa gi ữa th ế đất, th ế núi,
nguồn nước... Điều này thể hiện rất rõ trong kiến trúc thành quách như thành Thăng
Long, thành nhà Hồ, kinh thành Huế... hay trong thuyết tam tài của người dân: "thiên -
địa - nhân".
[sửa] Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
Người Việt Nam ngay từ nhỏ đã được dạy dỗ theo các chuẩn mực đạo đức của dân
tộc và của đạo Khổng, trong đó chú trọng việc tu thân dưỡng tính, lấy chữ Nhân làm
trọng, kính trên nhường dưới, luôn rèn luyện để có thể c ống hiến th ật nhi ều cho đất
nước và chăm lo cho gia đình.
Người Việt Nam trước kia có tinh thần "tôn sư trọng đạo", nhưng ngày nay Tây học
có tính cách chọn lựa hơn, xem cha mẹ là những người có công sinh thành ra mình, còn
thầy cô có công dạy văn hóa, nghề nghiệp ... mình nên người: Mùng m ột Tết cha,
mùng hai Tết chú, mồng ba Tết thầy. Những nghề nghiệp được tôn phong bằng chữ
"sư" (thầy) là những nghề nghiệp được mọi người tôn kính như: võ sư, th ầy
thuốc...Việt Nam có Ngày nhà giáo Việt Nam 20/11 [[3]].
Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ là 9 chữ c ơ bản, gói gọn t ư t ưởng, h ọc thuy ết
của Nho giáo, một hệ thống đạo đức, tri ết lý và tôn giáo do Kh ổng T ử phát tri ển đ ể
xây dựng một xã hội thịnh trị. Khổng Tử là một nhà t ư t ưởng, nhà tri ết h ọc xã h ội n ổi
tiếng người Trung Quốc, các bài giảng và triết lý của ông có ảnh h ưởng r ộng l ớn trên
cuộc sống và tư tưởng Đông Á (như Việt Nam, Nhật Bản...)
Ý thứ 2 trong câu hỏi của bạn có phần đúng và có phần ch ưa đúng. Đúng là Nho giáo
do Khổng Tử sáng lập và truyền bá, đối tượng nghiên c ứu và ph ục v ụ là nh ững ng ười
"quân tử" được coi là tầng lớp trên, tầng lớp thống trị xã hội. Học thuyết c ủa ông
nhằm đặt ra những quy tắc đạo đức để phục vụ vi ệc cai tr ị đ ất n ước và th ực t ế là nó
đã phát huy tác dụng trong suốt hàng nghìn năm lịch sử.
Tuy nhiên, tư tưởng của Khổng Tử cũng có nhiều giá trị mang tính ch ất chân lý, có tác
dụng đến tận ngày nay. Trong đó có 9 chữ bạn đã nêu trên. Vi ệc m ột s ố cán b ộ ngày
nay mải "bình thiên hạ" mà quên mất "tề gia" cũng là bởi h ọ ch ưa "tu thân" nh ưng đã
được xếp vào những vị trí quan trọng, dễ sa ngã. Điều đó cũng cho th ấy c ơ ch ế phát
- hiện, đào tạo, rèn luyện, bổ nhiệm và kiểm tra cán bộ của chúng ta cũng còn nhi ều
điều bất cập. Hy vọng rằng trong tương lai gần, điều đó sẽ được thay đổi.
"Tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ" theo tôi được hiểu là phải tu thân tr ước đã theo
tam cương "trung hiếu nghĩa(nghĩa ở đây là nghĩa vợ chồng)" , ngũ thường "nhân ,
nghĩa , lễ , trí , tín ", sau đó thì yên bề gia thất 1 là có thêm người phụng dưỡng cha m ẹ
nối
, có con dõi
Tức là làm những việc nhỏ trước rồi sau mới đến và mới làm thành công được những
việc lớn như "trị quốc hạ"
, bình thiên
Bình thiên hạ tôi nghĩ phải là những ng anh hùng , nh ững vi ệc l ớn lao VD H ạng Võ ,
Lưu Bị hay Chu Nguyên Chương người đã sáng lập ra đời Minh
Còn việc những lãnh đạo , quan chức chỉ là việc nhỏ tôi thấy ko th ật đúng v ới ý nghĩa
trị quốc bình thiên hạ chỉ thích hợp với các vua chúa hay người anh hùng d ựng n ước ,
quốc
khai mà thôi .
Việc họ phạm luật theo tôi là do từ việc nhỏ nhất đó là "tu thân" , "trung" với nhân dân
, đất nước thì ko làm như thế , "hiếu" với bố mẹ thì càng ko th ể làm th ế , b ố m ẹ s ẽ
như thế nào với điều tiếng của xã hội , khi thấy đứa con c ủa mình làm đi ều sai trái ,
vướng vào tù
Đề tài : Hãy vận dụng những kiến thức của môn học “ Phát tri ển khả năng lãnh đ ạo “
để bình luận câu nói :
Người lãnh đạo phải biết : tu thân , tề gia , trị quốc , bình thiên h ạ và ứng d ụng vào
thực tiễn .
Nhiều người cho rằng, những nhà lãnh đạo giỏi chuyên môn chưa hẳn đã lãnh đ ạo t ốt.
Bởi muốn trở thành một người lãnh đạo giỏi, doanh nhân cần phải có những phẩm
chất tốt , biết tự nâng cao năng lực, cũng như câu nói m ột người lãnh đạo c ần ph ải
biết tu thân , tề gia , trị quốc , bình thiên hạ.
Theo học thuyết Nho giáo thì để tổ chức xã hội có hiệu qu ả, đi ều quan tr ọng nh ất là
phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử .
Quân = kẻ làm vua, quân tử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội
Phân biệt với "tiểu nhân", những người thấp kém về điạ vị xã hội
Sau "quân tử" còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người cao th ượng, ph ẩm ch ất t ốt
đẹp, phân biệt với "tiểu nhân" là những người thiếu đạo đức ho ặc đ ạo đ ức ch ưa hoàn
thiện. Điều này có thể được lí giải bởi đối tượng mà Nho giáo h ướng đ ến tr ước tiên
là những người cầm quyền. Để trở thành người quân tử, con người ta tr ước hết ph ải
"tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân t ử phải có b ổn ph ận
phải "hành đạo"
Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung c ả vũ trụ được c ấu thành t ừ các
nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận hành chung c ủa vũ tr ụ, v ấn
đề là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo đức do Nho gia đ ề xướng (ho ặc nh ư h ọ t ự
nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có
Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời.
Tu thân
- Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức... để làm chuẩn
mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và T ứ đ ức
là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được
tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được an bình.
Tam cương: tam là ba, cương là giềng mối. Tam cương là ba m ối quan hệ: quân th ần
(vua tôi), phụ tử (cha con), phu phụ (vợ chồng).
trong xã hội phong kiến, những mối quan hệ này được các vua chúa lập ra trên những
nguyên tắc“chết người”
Quân thần: ("Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung" nghĩa là: dù vua có b ảo b ề tôi
chết đi nữa thì bề tôi cũng phải tuân lệnh, nếu bề tôi không tuân lệnh thì b ề tôi không
trung với vua)Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt luôn luôn công minh, tôi trung
thành một dạ.
Phụ tử: ("phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu nghĩa là: cha khi ến con chết, con
không chết thì con không có hiếu)")
Phu phụ: ("phu xướng phụ tùy" nghĩa là: chồng nói ra, vợ phải theo)
Ngũ thường: ngũ là năm, thường là hằng có. Ngũ thường là năm đi ều ph ải h ằng có
trong khi ở đời, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
Tam tòng: tam là ba; tòng là theo. Tam tòng là ba đi ều người ph ụ n ữ ph ải theo, g ồm:
"tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"
Tại gia tòng phụ: người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha,
Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng,
Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con"
Tứ đức: tứ là bốn; đức là tính tốt. Tứ đức là bốn tính n ết tốt người ph ụ n ữ ph ải có, là:
công - dung - ngôn - hạnh.
Công: khéo léo trong việc làm.
Dung: hòa nhã trong sắc diện.
Ngôn: mềm mại trong lời nói.
Hạnh: nhu mì trong tính nết.
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
Đạt đạo. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người quân t ử
phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo
cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung), t ương đ ương v ới
"quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ
luân[1]. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung dung". Tuy nhiên, đ ến Hán nho ngũ
luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam
cương hay còn gọi là Tam tòng.
Đạt đức. Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng T ử nói: "Đ ức c ủa
người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo bu ồn, ng ười trí không
nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về sau, M ạnh T ử thay "dũng"
- bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân, nghĩa, l ễ, trí". Hán nho thêm
một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đ ức này còn
gọi là ngũ thường.
Biết thi, thư, lễ, nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đ ức", ng ười quân t ử còn
phải biết "thi, thư, lễ, nhạc". Tức là người quân tử còn phải có một v ốn văn hóa toàn
diện.
Hành đạo
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính tr ị. N ội
dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị quốc, thiên h ạ bình ".
Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đ ến l ớn - tr ị qu ốc, và đ ạt đ ến
mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim ch ỉ nam cho m ọi hành đ ộng
của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm:
Nhân trị. Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình ng ười, là yêu ng ười và coi
người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Kh ổng T ử nói: "K ỷ
sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không mu ốn thì đ ừng làm cho ng ười khác"
(sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đ ức, Kh ổng T ử nói:
"Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nh ạc mà làm gì?"
(sách Luận ngữ).
Chính danh. Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên c ủa nó, m ỗi ng ười ph ải
làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận
tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công: "Quân
quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách
Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách c ủa Nho giáo, chúng đ ược
tóm gọn lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên h ạ. Và đ ến l ượt mình,
chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, th ư, l ễ, nh ạc.
Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có
quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đ ức thì đ ược g ọi là ti ểu
nhân.
Đa số những người thích tự khẳng định mình ngày nay, đ ều ch ỉ mu ốn Tr ị Qu ốc và
Bình Thiên Hạ chứ há có mấy ai nghĩ tới việc Tu Thân và Tề Gia là phải làm tr ước
hết.
Ngay cả ở đạo Vợ Chồng, người đàn ông cũng chỉ muốn Tề Gia chứ ít ai nghĩ rằng
mình cần phải Tu Thân.
Cái đạo làm người Quân tử cốt lõi ở chữ Tu Thân, xong rồi m ới t ới hành đ ạo. Đ ạo
không chỉ có nghĩa là đạo lý luân thường, mà Đạo còn nói v ề những gì h ợp v ới l ẽ t ự
nhiên, hợp với quan niệm xã hội, và với quan hệ con người.
Dân ta thường nói một cặp Tu Thân Tích Đức (hay là Tu Nhân Tích Đ ức), thi ệt ra
không cần phải cố tình tích đức bằng cách làm từ thi ện, giúp đ ỡ tr ẻ em nghèo hay
đóng góp các quỹ bão lụt, bởi chỉ cần Tu cái Thân thôi thì tự nhiên tích được Đức.
Tu Thân với Khổng Tử có nghĩa là phải sống Chính Danh và ph ải đ ặt ch ữ Nhân (Nhân
Trị) lên đầu mọi việc mình làm.
Chính Danh nghĩa là làm việc gì cũng phải đường đường chính chính. M ỗi s ự v ật ph ải
được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng bổn phận, chức ph ận c ủa mình.
Danh không chính ắt Ngôn không thuận, Ngôn không thuận ắt Việc bất thành.
- Nhân có nghĩa là tình người, Nhân trị là đối xử v ới người như đ ối x ử v ới b ản thân
mình, thương người như thể thương thân,…. Khổng viết Kỷ sở bất dục, vật thi ư
nhân tức điều gì mình không thích thì đừng làm cho người, là c ốt lõi c ủa vi ệc Tu thân
của người quân tử.
Tu thân là như vậy, sống phải nhân hậu, phải đàng hoàng thì tự nhiên đức nó t ới, ch ứ
không cần phải tích, phải trữ làm gì.
Câu nói từ hai ngàn năm trước của Khổng Tử để lại cho tới ngày nay mà cái đi ều đ ơn
giản nhất là Tu Thân còn hiếm thấy người làm cho trọn vẹn.
tề gia
1. Xếp đặt việc gia đình cho ổn thỏa (cũ).
Câu trả lời hay nhất - Do người đặt câu hỏi bình
chọn
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị. Nội
dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị quốc, thiên hạ bình ".
Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến
mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động
của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm:
Nhân trị. Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi
người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: "Kỷ
sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác"
Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có
nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?"
Chính danh. Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải
làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận
tất việc không thành". Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công: "Quân quân, thần thần,
phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" .
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng được
tóm gọn lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và đến lượt mình,
chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ, nhạc.
Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có
quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là tiểu
nhân (như dân thường).
(Các) nguồn
http://vi.wikipedia.org
- Sửa cách đây 2 tháng
•
Báo cáo vi phạm
•
Đánh giá của người hỏi:
Ý kiến của người đặt câu hỏi:
1 = Tử tể, nhưng không tuyệt vời.
Không phải câu trả lời chính xác? Hãy thử Yahoo!
Tìm kiếm
Tìm trên Yahoo! Tìm kiếm
Tìm kiếm liên quan:
http nhac so .net .vn
•
http vungtrom com
•
http facebook
•
http vietnamnet
•
http nghenhac
•
http trochoiviet
•
Hiện không có bình luận về câu hỏi này.
* Bạn phải vào Hỏi & Đáp mới có thể bình luận. Đăng nhập hoặc Đăng ký.
Trả lời khác (1)
by The Hong
•
Thành viên từ:
́
27 thang 6 năm 2009
Tổng số điểm:
12,802 (Cấp bậc 6)
Thêm địa chỉ liên lạc
o
Chặn
o
Đó là thứ tự những việc làm của người quân tử
- tu thân là rèn luyện bản thân.
- Tề gia là quản lý gia đình hoàn hảo.
- trị quốc: là quản lý một quốc gia.
- Bình thiên hạ là làm cho thế giới thái bình.
- Doanh nhân là "trụ cột" trong gia đình?
Gửi email Bản in
Hương Nguyễn 02:50' PM - Thứ tư, 04/06/2008
- Bài tham khảo
1. Làm "sếp" ở nhà
(Phong Cach) - Một số phụ nữ quên cởi
chiếc áo công sở khi về đến nhà. Do quen
điều khiển nhân viên, họ vô tình đẩy chồng
con vào thế nhẫn nhịn, né tránh, sợ hãi…
Ngày càng có nhiều phụ nữ giữ vai trò lãnh đạo
trong các công ty. Tuy nhiên, một số phụ nữ tài
giỏi này không có được gia đình hạnh phúc.
Giữa họ với chồng, con thường có một khoảng
cách vô hình như… sếp với nhân viên.
Lý do? Bài liên quan:
Tuyệt chiêu “Móng tay nhọn” khi vợ ngoại tình?!
[23/12/2010]
Thay vì làm vợ đảm, mẹ hiền, họ lại trình diễn Doanh nhân và tình phí
[27/11/2010]
kiểu chỉ tay năm ngón ngay trong gia đình với “Ăn miếng trả miếng” với chồng
chồng con bởi họ đã quen với cung cách chỉ đạo [25/11/2010]
Thanh Lam: Dạy con bằng những lỗi lầm
cấp dưới khi ở công ty. Chị Huỳnh Thị Phương [09/11/2010]
Tây bé
Trang, 38 tuổi, Phó giám đốc công ty TNHH [25/10/2010]
Xả hơi lộn
kiến trúc Sao Mai, nổi tiếng là một phụ nữ tháo [07/10/2010]
Vợ chồng đến lớp để khỏi ly hôn
vát. Cấp dưới của chị đa số là đàn ông và rất [27/09/2010]
thông minh. Vậy mà họ lại luôn kinh nể chị, vì Khi anh là doanh nhân
[04/08/2010]
chị là người có tài, biết ứng xử và rạch ròi trong xem hết...
công việc. Bài mới:
Ngoại tình đổ lỗi cho gen?
[12/01/2011 09:31' AM]
Chuyện công ty thì suôn sẻ vậy, nhưng ở nhà Nghệ thuật “bật” chồng
thì khác. Gần một năm nay, chị và ông xã sống [11/01/2011 10:30' AM]
Nàng yêu bạn hay tiền của bạn?
trong tình trạng tạm ly thân chỉ vì giữa họ có [10/01/2011 11:31' AM]
Câu chuyện cuộc sống Sắm ôtô đưa con đi học dịp giá rét
những mâu thuẫn tự ái không dễ giải quyết, [06/01/2011 03:27' PM]
Quyết chiến với osin để giành chồng
đặc biệt là trong lần chị thăng chức mới đây. [03/01/2011 08:06' AM]
Làm "vợ bé" của đại gia
Anh Sơn, chồng chị, chỉ là kỹ thuật viên ở một [02/01/2011 08:25' AM]
công ty môi trường. Kể từ khi chị lên chức Làm chồng thời @
[01/01/2011 10:22' AM]
trưởng phòng rồi phó giám đốc chỉ trong vòng 3
năm, anh đã cảm thấy vợ mình ngày càng khó Bài đã đăng:
Sức khỏe – “tài sản quý giá” của doanh nhân
gần. [03/06/2008]
Ngày Tết với những “nguy cơ” bia, rượu
[03/06/2008]
Dạy trẻ mầm non(0 6 tuổi ) phát triển trí thông minh sáng tạo
Không phân biệt được đâu là công sở, đâu là [02/06/2008]
nhà Sức sống cho làn da bị stress
[02/06/2008]
Để tình yêu luôn mãnh liệt và thật nồng nàn
[02/06/2008]
Trước đây, thấy vợ quá bận rộn, Sơn tự Doanh nhân với nhu cầu làm đẹp
[02/06/2008]
nguyện vào bếp lo cơm nước, làm việc nhà, Tâm sự của những nữ doanh nhân
đưa đón con để đỡ đần vợ. Nhưng dần dần, [02/06/2008]
trong cảm nhận của mọi người, giọng điệu,
cách nói năng của chị ngày càng nặng mùi… thị
- 3. Biết tận dụng hậu phương
Con cái, gia đình, bạn bè.. đều là những hậu ph ương quan trọng c ủa b ạn, ví d ụ, cha m ẹ s ẵn
sàng trông con hộ bạn khi bạn có công việc phải đi công tác xa. B ạn bè s ẽ cho b ạn nhi ều l ời
khuyên có giá trị, còn bạn, bạn sẽ không phủ nhận được rằng bạn s ẽ chuyên tâm, chăm ch ủ
vào kin2. Các nhà lãnh đạo phải sẵn sàng tìm chỗ đứng dựa trên tầm nhìn và giá trị của họ.
Nhà lãnh đạo phải sẵn sàng thừa nhận rằng họ cần sự hỗ trợ mạnh mẽ từ những người hướng dẫn, cố vấn... những người có thể giúp họ làm tốt công việc mà đòi
hỏi phải nâng tầm suy nghĩ và gạt bớt cái tôi.
Họ phải sẵn sàng khám phá ra những giá trị của mình và cách họ có thể làm cho công ty đi đúng tầm nhìn đã đặt ra. Vị trí của nhà lãnh đạo phải "gắn chặt" với
mặt đất và vững chắc, để người đó không bị "lơ lửng trên không" trong thời kỳ khó khăn cũng như khi phải đối mặt với các vụ tranh cãi. Nhà lãnh đạo phải tìm được
và tin tưởng vị trí của mình, không chỉ vì danh tiếng, mà vì nó được định hướng bằng hệ thống giá trị đích thực, không bao giờ thay đổi.
3. Nhà lãnh đạo phải sẵn sàng gắn kết với 4 lĩnh vực của một con người: thể chất, tình cảm, trí tuệ và tâm hồn.
Những thứ này phải "đồng dạng" với môi trường của nhà lãnh đạo. Các nhà lãnh đạo phải sẵn sàng gắn kết, khỏe về thể chất, cân bằng về tình cảm, vững chắc về
trí tuệ và tập trung vào tâm hồn. Có một cuộc sống khỏe mạnh là một đòi hỏi với nhiều nhà lãnh đạo nếu người đó muốn làm cho người khác tin tưởng. Không thể
không nghĩ đến Tiger Woods khi nghĩ về các nhà lãnh đạo thực sự gắn kết. Ông là minh chứng về một nhà lãnh đạo với cơ thể khỏe mạnh, tư duy sắc bén, cảm
xúc ổn định và sự hiện diện tinh thần đầy cảm hứng. Ông được các thanh niên trẻ học theo và làm theo.
Ngoài ra, nhà lãnh đạo phải sẵn sàng tạo ra một môi trường lành mạnh cùng với việc có được một cuộc sống khỏe mạnh. Những con người và mạng lưới xung
quanh nhà lãnh đạo phải có nền tảng vững chắc, và các hoạt động mà nhà lãnh đạo lựa chọn phải tạo ra những thay đổi tích cực.
Nếu môi trường đó không đồng dạng với các mục tiêu mà một nhà lãnh đạo đang tìm kiếm, nguồn lực, năng lượng và hiệu quả của nhà lãnh đạo sẽ bị lãng phí, trở
h doanh khi
nên bế tắc và mọi người sẽ không sẵn sàng đi theo. Họ sẽ tìm đến những nhà lãnh đạo vững chắc hơn để có được định hướng và hy vọng.
có một gia đình hạnh phúc chứ?
Các gợi ý :
Một số kỹ năng cơ bản của lãnh đạo cao cấp
1.
Tầm quan trọng của các kỹ năng
-
Lãnh đạo chính bản than mình là lãnh đạo khó nhất
-
Gia đình là hậu phương vững chắc của người lãnh đạo
-
Quản trị doanh nghiệp một cách có hiệu quả nhất
-
Mở rộng hoạt động kinh doanh sx phát triển kinh tế đối ngoại
-
Thực trang đội ngũ lãnh đạo VN
2.
Một số giải pháp hoàn thiện các kỹ năng lãnh đạo
3.
Vận dụng tư tưởng tu thân của nho giáo trong giáo dục đạo đức cho cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay
Tác giả : Nguyễn Thị Loan
File đính kèm: Không có
Trong lịch sử dân tộc ta, có nhiều vị vua, nhiều nhà chính trị, quân sự, ngoại giao lỗi lạc đã vận dụng đạo đức Nho giáo vào công cuộc chấn hưng đất nước
theo hướng tích cực như: Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Phan Bội Châu… nhưng người tiếp thu, vận dụng Nho
giáo một cách nhuần nhuyễn nhất, thành công nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Rất nhiều khái niệm đạo đức quen thuộc của Nho giáo đã được Người sử dụng nhưng
với mục đích mới, nội dung mới. Với hoàn cảnh lịch sử mới, những nhân tố tiến bộ, hợp lý trong đạo đức Nho giáo đã được Người sử dụng để xây dựng một nền đạo
đức mới, vượt xa đạo đức cũ. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới
đất, đầu ngẩng lên trời. Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền
- lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện, làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước, cho dân” (1)
Có thể nói đây là một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức. Theo gương Hồ Chí Minh, chúng ta đấu tranh chống chủ nghĩa giáo điều theo kiểu Nho giáo, kế
thừa và phát triển mặt tiến bộ của nó. Một trong những mặt tiến bộ trong đạo đức Nho giáo được thể hiện khá rõ ở tư tưởng “tu thân”.
Tu thân là một biện pháp tu dưỡng đạo đức của Nho giáo có nhiều giá trị mà ngày nay ta có thể vận dụng. Tu thân tức là tự sửa mình, rèn luyện mình theo “lễ”
và cũng là thái độ ứng xử theo đạo cương thường. Theo ngôn ngữ hiện đại thì tu thân là mình tự tách ra làm hai, mình vừa là chủ thể vừa là đối tượng nhận thức.
Đó là quá trình tự khám phá, tự điều chỉnh hành vi của mình, tự nhận thức lại mình. Muốn sửa mình thành người có đức hạnh thì trước hết cần giữ cái tâm cho
chính, cái ý cho thành rồi mới hiểu về các sự vật. Giữ cái tâm của mình cho chính tức là không nên tức giận, sợ hãi, hoặc vui say quá đà. Vì sự ưu toan sẽ làm cho
cái tâm con người thiên lệch, không hiểu rõ đúng, sai, ngay thẳng.
Giữ cái ý của mình cho thành tức là không lừa dối mình, đối với việc gì cũng thành thực. Tâm đã chính, ý đã thành, thì tự nhiên cái lương tri, lương năng của mình,
tức là cái minh đức của mình thành mẫn tuệ, điều gì cũng hiểu một cách sâu xa, làm điều gì, đối phó với bất cứ tình huống nào cũng hòa hợp với đạo lý.
Từ quan điểm tu thân, chúng ta có thể khai thác những kinh nghiệm giáo dục đạo đức của Nho giáo để rèn luyện, bồi dưỡng đạo đức cách mạng, động viên
tinh thần học tập của cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay, cụ thể là:
Thứ nhất, muốn giáo dục đạo đức có hiệu quả, trước hết người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải là tấm gương cho quần chúng noi theo.
Trước kia, Khổng Tử đòi hỏi người thầy phải là tấm gương để học trò noi theo, người cầm quyền phải thanh liêm thì mới chỉ đạo và cảm hóa được dân chúng.
Ngày nay, trong quá trình đổi mới, thực hiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, người lãnh đạo, quản lý phải có phẩm chất trong sạch, là
tấm gương cho quần chúng noi theo. Tấm gương đạo đức của cán bộ lãnh đạo là giá trị đạo đức được truyền từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Quần chúng học tập, tu dưỡng, phấn đấu làm theo lời nói và việc làm của người cán bộ, đảng viên, vì họ là cầu nối giữa Đảng và quần chúng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh thường dạy cán bộ, đảng viên: “Trước mặt quần chúng không phải ta cứ viết lên trên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ quý mến. Quần chúng chỉ
quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” (2)
Thứ hai, người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải không ngừng tự rèn luyện, tự tu dưỡng đạo đức.
Để nêu gương cho nhân dân, Khổng Tử yêu cầu người cầm quyền phải tu thân. Ngày nay để hoàn thành nhiệm vụ của mình, người cán bộ lãnh đạo, quản lý
phải không ngừng tu dưỡng đạo đức cá nhân, tự rèn luyện, tự đánh giá, tự điều chỉnh mình theo các giá trị đạo đức. Thực tế chứng minh rằng, sự tác động có mục
đích của giáo dục chỉ bắt đầu phát huy tác dụng khi có sự hưởng ứng của đối tượng một cách tự giác.
Khổng Tử khuyên mọi người muốn thực hiện lý tưởng của mình phải thường xuyên tu dưỡng và học tập. Ông thường nhấn mạnh việc học tập, học để hiểu biết,
học để giúp đời. Ông rèn luyện mình phải học, học không biết chán, dạy không biết mỏi. Lời nói ấy, tấm gương ấy đã cổ vũ chúng ta trong thời đại cách mạng khoa
học và công nghệ hôm nay là phải thường xuyên nâng cao trí tuệ của mình. Muốn dân tộc phát triển thịnh vượng thì mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải ham mê
học tập và ứng dụng những điều đã học theo tấm gương của Khổng Tử. Không chỉ tu dưỡng đạo đức trong học tập, trau dồi đạo đức cách mạng mà còn phải tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức trong tất cả các lĩnh vực.
Ngày nay, trước những hiện tượng suy thoái đạo đức của cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng, chúng ta cần phát huy hơn nữa tư tưởng tu thân của Nho
giáo để giáo dục, xây dựng đạo đức cách mạng ./.
Giá trị và hạn chế của tư tưởng "tu, tề, trị, bình" trong Nho giáo
ThS. Trần Thị Thuý Ngọc
Triết
học là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất về thế giới về vũ
trụ, về con người, về vị trí, vai trò con người trong thế giới đó. Trong đó, triết
học phương Đông đóng một vai trò không nhỏ vào hình thành nên diện mạo tri
thức triết học chung của thế giới, với những thành tựu và giá trị mang tính
chất nhân loại tiến bộ đi cùng cả những hạn chế do điều kiện, hoàn cảnh và
thời điểm mà nó được sản sinh. Tại đây, tác giả xin lựa chọn một tư tưởng
của một hệ thống triết học phương Đông – Nho giáo là “tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ” để nỗ lực làm rõ những giá trị và hạn chế của tư tưởng
này nhằm chứng mình cho nhận định trên.
giáo là sản phẩm tư tưởng ra đời trong một thời đoạn chuyển mình
Nho
dữ dội của lịch sử Trung Quốc – thời Xuân Thu – thời kì đánh dấu sự suy sụp
của chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến đặc thù phương Đông
đang trên đà được định hình. Định chế Tông pháp – quản lí đất đai theo kiểu
huyết thống của nhà Tây Chu (với nền chính trị thần quyền – nhận mệnh trời
cai quản dân – để nhất luật vương hữu hoá toàn bộ của cải đất đai, chia đất
đai cho con em cai quản và nhận cống nạp từ các nước chư hầu) dần bị thay
thế bằng chế độ tư hữu ruộng đất đang lấn lướt (thể hiện bằng những cuộc
chiến tranh tương tàn giữa các liệt quốc vốn là anh em họ hàng với nhau để
- tranh giành, cướp bóc đất đai của nhau) với giai đoạn Xuân Thu là bước dạo
đầu. Vấn đề mà thời đại đặt ra chính là, tiếp tục duy trì những điển chương
chế độ nhà Chu vốn rực rỡ một thời nhưng với quan hệ xã hội là quý tộc chủ
nô cai quản đất nước bằng quan hệ huyết thống hay là phá bỏ nó để thiết lập
một trật tự hoàn toàn mới cho tương ứng với một lực lượng sản xuất đang
lớn mạnh? Nho giáo chính là sự đáp ứng cho khuynh hướng đầu tiên đó.
Tưtưởng “tu, tề, trị, bình” mà chúng ta nói tới nằm trong Đại học – cuốn
sách được chính các nhà Nho đánh giá là chứa học vấn sâu rộng về chính trị, là
cuốn tất yếu phải đọc để thi cử, làm quan, vi chính, và tư tưởng này cũng
chính là tư tưởng triết học về chính trị xã hội mang đầy đủ đặc thù của Nho
giáo nói riêng và định hướng chính trị mà Nho giáo theo đuổi nói chung. Trong
bốn nội dung nói trên, “tu thân” – tu dưỡng đạo đức cá nhân được coi là trung
tâm và là gốc để tiến hành những việc rộng lớn hơn mà cuối cùng là “cai trị
cả thiên hạ” (bình thiên hạ). “Tu thân” thuộc đời sống đạo đức cá nhân, lại
chính là cái gốc để tiến vào đời sống chính trị xã hội. “Tu, tề, trị, bình” nói rõ
trật tự trước sau, quan hệ lẫn nhau giữa cá nhân với gia đình, gia đình với
quốc gia, quốc gia với thiên hạ, nó thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa chính
trị thống trị với luân lí đạo đức, và khiến Nho giáo trở thành một học thuyết
chính trị đạo đức đặc biệt của Trung Quốc.
Vậytại sao nhà Nho lại khuyến khích con người phải tu thân, và nội dung
của tu thân là gì, những ai phải tu thân và vì sao nó có vai trò quan trọng tới
nhường ấy? Khổng Tử đặc biệt coi trọng tới việc tu thân của người cầm
quyền. Ông nói: “Tu thân để an dân”, “Tu thân để lạc nghiệp”, “Tu thân để an
bách tính” (Luận ngữ. Hiến vấn). Ông cho rằng sự tu dưỡng đạo đức cá nhân
của người thống trị có thể dẫn đến lạc nghiệp, an dân, trị quốc và điều chỉnh
quan hệ nội bộ của giai cấp thống trị. Khi người cầm quyền đã có đủ đạo
đức, thì chỉ cần dùng đạo đức của mình là đã đủ cai trị xã hội, và vì thế, đối
với ông hình pháp là thứ thừa thãi, bất đắc dĩ mới phải dùng. Người thống trị
nếu thi hành đức chính thì thần dân trăm họ sẽ hội tụ lại, giống như các ngôi
sao khác vây quanh sao Bắc đẩu (Luận ngữ. Vi chính). Ông thậm chí còn tuyệt
đối hoá sức mạnh của đạo đức, coi đạo đức của kẻ cầm quyền có thể cảm
hoá đạo đức của dân chúng như gió thổi thì cỏ phải rạp xuống.
đây là đòi hỏi tu thân với tầng lớp thống trị, ông còn chỉ ra tác dụng
Trên
tu thân đối với tất cả các tầng lớp khác trong xã hội khi quy ra mối quan hệ
trực tiếp giữa gia đình với đất nước: ông khẳng định, chưa từng có kẻ nào
biết hiếu đễ (yêu kính cha mẹ, anh em, người trên trong gia đình) mà lại thích
làm loạn (xã hội) cả (Luận ngữ. Học nhi). Mệnh đề này có thể thuyên thích
thành: một đứa con hiếu, một người em ngoan trong gia đình chắc chắn sẽ là
- một công dân tốt cho xã hội. Chỗ khác, ông khẳng định “Hiếu, từ thì trung
vậy”(Luận ngữ. Vi chính). Câu này có thể hiểu hai nghĩa: người dân có hiếu,
có từ thì mới có thể trung với vua; còn kẻ cai trị có hiếu có từ thì mới được
dân chúng trung thành với mình. Người cai trị nêu gương cảm hoá thì dân
chúng tự khắc làm điều thiện. Khổng Tử khuyên dân chúng tuân thủ theo hiếu
đễ, mục đích để “Gần thì phụng sự cha mẹ, xa thì phụng sự vua”. Do có mối
liên hệ trực tiếp giữa hiếu đễ với trung quân, hiếu đễ với nền nhân chính nên
Khổng Tử khẳng định “Hiếu đễ là gốc của điều Nhân vậy” (Luận ngữ. Học
nhi). Như vậy, đòi hỏi phải tu thân đầu tiên chính là phải biết Hiếu, đễ, phải
tự sửa mình trong chính những mối quan hệ thân gần với mình nhất, đó là
quan hệ gia đình.
ba mệnh đề còn lại, “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, ta có thể nhận
Trong
thấy mối liên hệ trực tiếp giữa gia đình với xã hội. Gia đình là chỗ dựa cơ
bản nhất cho một quốc gia, hay ngược lại, đất nước chẳng qua chỉ là một gia
đình mở rộng, trong đó, ông vua chính là người cha lớn nhất với con cái là tất
cả dân chúng. Cho nên lời khẳng định “Hiếu từ thì trung” còn có một khía
cạnh nữa để phân tích, đó là phẩm chất trung với vua, chẳng qua là cách gọi
khác đi của chữ hiếu, biết hiếu với cha mẹ thì chắc chắn sẽ hiếu với vua hay
trung với vua, vì vua là nguồn sống cho cả xã hội, là người đẻ ra dân chúng
(vua là con trời, là cha của loài người; vì dưới gầm trời này không đâu không
là đất của vua, ăn nhành cây, động ngọn cỏ, săn thú rừng đều là động vào tài
sản của vua cả, phải nhớ ơn vua đã nuôi sống mình như nhớ ơn sinh thành
dưỡng dục của cha mẹ).
của gia đình liên kết với quân quyền có tính chính trị tạo thành
Tông pháp
một thể không phân tách, quan hệ vua tôi không tách rời quan hệ cha con, anh
em. Học thuyết này đã dựa vào quan hệ huyết thống tông tộc để sắp đặt, điều
chỉnh quan hệ đẳng cấp có tính xã hội. Do vậy mà quan hệ vua tôi có tính xã
hội hàm chứa cả quan hệ cha con có tính gia đình. Quan hệ đẳng cấp có tính
cưỡng bức được thiết lập trên quan hệ thân tộc có tính tình cảm, chủ động.
quan niệm các mối quan hệ theo lối này của Nho gia đã biến tất
Cách
cả các mối quan hệ xã hội trở thành những quan hệ họ hàng, trong đó người
với người đối xử với nhau có tiêu chuẩn đầu tiên là phải hoà mục, thân ái như
tình máu mủ. Và chính vì thế mà có thể hi sinh nhiều chuẩn mực xã hội minh
bạch, rõ ràng khác để đổi lấy sự “dĩ hoà vi quý”. Có thể khẳng định, Nho giáo
đã cung cấp cho chế độ chính trị nô lệ nhà Tây Chu một cơ sở lí luận tương
đối hoàn bị, và gây dựng nên một mô hình xã hội lí tưởng – xã hội đại đồng –
xã hội dưới sự dẫn dắt của nền chính trị đạo đức và ai ai cũng lấy tu thân làm
gốc.
- những phân tích trên, ta có thể nhận ra, Nho giáo đã nhận ra một điểm
Qua
tựa không bao giờ có thể thể thay đổi của con người, đó là tình cảm huyết
thống và dùng ngay nó để làm nền móng xây dựng một mô hình xã hội duy trì
bằng đạo đức huyết thống trên đó, hay nói một cách thô thiển, là ông đã gia cố
về mặt lí luận cho cái ngôi nhà Tông pháp dột nát của Tây Chu. Đó là điểm tài
tình của Khổng Tử và những người kế tục ông xét về mặt ý thức hệ.
nếu xét ở góc độ giá trị, tư tưởng triết học Nho giáo nguyên thuỷ
Song,
không phải không có những giá trị nhân bản sâu sắc. Khẳng định bước khởi
đầu của xã hội người được xác lập nên từ gia đình, khẳng định nhân tính của
con người lí tưởng phải được thể hiện ngay trong những việc cá nhân bình
thường nhất: anh không thể là một nhân cách hoàn chỉnh nếu anh không phải
là đứa con hiếu, người em ngoan của gia đình; anh cũng không thể là người
công dân tốt cho xã hội nếu anh không biết tử tế ngay với những người thân
gần nhất xung quanh mình trong gia đình v.v là những điểm sáng tư tưởng
luôn luôn chứa những triết lí xã hội và nhân văn sâu sắc.
Nhưngnếu như thổi phồng những tình cảm huyết thống đó lên trở thành
những phẩm chất đạo đức xã hội như Khổng Tử đã làm, thì bản thân những
đạo đức gia đình đó đã không đủ để bao quát hết mọi lĩnh vực mà phẩm chất
xã hội cần, sẽ nảy sinh những bất cập như một phần hạn chế ta đã bàn ở
phía trên. Nhìn ngay trong xã hội Việt Nam, các quan hệ công việc dường như
đều phải nhìn qua lăng kính kiểu quan hệ họ hàng: gặp ai dù quen biết hay
không, chúng ta đều dùng các thứ bậc theo kiểu họ hàng để xưng hô (anh, chị,
cô, chú, bác v.v.) để thiết lập tình thân; “nhất thân nhì quen” vẫn là thông lệ
phổ biến ngầm khi cần phải tính toán bất cứ việc gì dù là chung hay riêng tư;
“câu chuyện làm quà” là bước dạo đầu thuận lợi bên cạnh những rạch ròi
công việc khô khan v.v. gây ảnh hưởng rất nhiều tới tiến độ và hiệu quả công
việc. Có thể kể ra nhiều điều tai hại khác nữa đối với sự phát triển xã hội mà
Nho giáo (đương nhiên không thể quy hết lỗi về cho Nho giáo, nó là bất cập
của chính môi trường xã hội đã sinh ra và nuôi dưỡng Nho giáo, xã hội Đông
Á) tuyên truyền và lưu giữ.
Một
vấn đề cần rút ra về mặt phương pháp luận là: nếu ta thừa nhận Nho
giáo coi trọng gia đình và các mối quan hệ gia đình là hợp lí, thì chỉ nên giới
hạn nó trong phạm vi gia đình là bước khởi đầu cho xã hội, nó sẽ làm nên giá
trị của Nho giáo, còn nếu tuyệt đối hoá gia đình và nhìn xã hội giống như một
gia đình kiểu Nho giáo, thì nó cũng sẽ chính là hạn chế của Nho giáo. Còn làm
sao để thay đổi tính chất cái xã hội đã bị Nho giáo ăn sâu bám rễ và chứa đầy
hạn chế bất cập cho sự đổi mới tiến bộ xã hội, thì không chỉ phê phán Nho
giáo là đủ, mà phải triệt tiêu tận gốc cái mầm mống thị tộc huyết thống vẫn
- đang được bảo lưu dai dẳng trong lòng xã hội hiện đại, mà chính vì có nó,
Nho giáo mới tồn tại được lâu dài đến vậy, nhưng để làm được việc đó, lại
là cả một câu chuyện dài.
(Báo cáo trong Hội thảo Đạo đức học được Khoa Triết học, ĐH KHXHNV tổ
chức tháng 11 năm 2009)
nguon tai.lieu . vn