Xem mẫu
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG, 1992), TBMMN
bao gồm chảy máu não (CMN) và nhồi máu não (NMN), chảy máu não thất
là một thể của chảy máu não, CMN chỉ chiếm 1015% tổng số trường hợp
TBMMN (Rhart, 1994). Tuy chỉ chiếm số ít nhưng có tỷ lệ tử vong và tàn
tật cao nhất trong các thể tai biến, tử vong chung của chảy máu não từ 27%
đến 64,5%. Chỉ có 38% bệnh nhân CMN sống sót sau năm đầu tiên và
thường để lại di chứng nặng nề về thần kinh như vận động, chức năng,
tinh thần [1].
Tại Mỹ, TBMMN là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ ba sau
bệnh ung thư và bệnh tim mạch. Năm 2001, TBMMN gây tử vong cho
khoản 163.000 ngưới Mỹ, ước tính cứ 15 trường hợp tử vong do các
nguyên nhân khác thì có một trường hợp tử vong do TBMMN, trong đó 40%
để lại di chứng thần kinh, chỉ 10% là phục hồi [2].
Tại Việt Nam, theo thống kê của Nguyễn Văn Đăng và cộng sự năm
1995, dựa vào một điều tra của toàn dân ở miền Bắc, thì tỷ lệ bị TBMMN
là 115,92/100.000 dân. Tỷ lệ mắc mới hàng năm 28,25/100.000 dân. Tỷ lệ
tử vong là 161/100.000 dân. Chảy máu não chiếm 50% các bệnh nhân nội
trú của TBMM [3].
Tỷ lệ chảy máu não thất so với CMN có sự khác nhau giữa các tác giả
trong và ngoài nước. Theo Findlay [4] là 30%, theo Trần Viết Lực, Lê Văn
Thính (2000) [5] là 17%. Chảy máu não thất là hiện tượng có máu trong hệ
thống não thất, bao gồm hai loại: chảy máu não thất nguyên phát và chảy
2
máu não thất thứ phát. Chảy máu não thất nguyên phát hiếm gặp chiếm tỷ
lệ khoảng 3% CMN (Darby và cộng sự 1996), nguyên nhân thường do chảy
máu từ lưới mạch của não thất. Chảy máu não thất thứ phát hay gặp hơn
do tổn thương chảy máu ở khu vực khác tràn vào trong não thất, thường
gặp trong CMN vùng nhân xám trung ương, chảy máu não lớn ở thùy não
cũng có thể phát triển và tràn vào hệ thống não thất.
Nguyên nhân chảy máu não thất thứ phát cũng như nguyên nhân chảy
máu não nói chung: Tăng huyết áp, phình động mạch não, thông động tĩnh
mạch não, dị dạng mạch não, u não...
Chảy máu não là nói chung hay chảy máu não thất nói riêng, là một tai
biến thần kinh đe dọa tính mạng bệnh nhân, vì vậy cần được chẩn đoán
nhanh chóng tức thì, áp dụng các phương pháp điều trị thích hợp kịp thời.
Ngày nay, cùng với sự tiến bộ của y học, các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh
ngày càng phát triển như: chụp cắt lớp vi tính đa dãy đầu dò (MSCT), chụp
mạch số hoá xoá nền (DSA), chụp cộng hưởng từ (CHT) thì việc chẩn
đoán và tìm nguyên nhân chảy máu não thất trở nên dễ dàng hơn. Trong đó
chụp CHT và cắt lớp vi tính (CLVT) là những phương pháp hàng đầu trong
đánh giá chảy máu não thất chính xác nhất. Tuy nhiên, chụp CHT không
phải cơ sở y tế nào cũng sẵn có và những chống chỉ định đối với bệnh
nhân khi tiến hành chụp CHT, chính vì vậy chụp CLVT vẫn là chỉ định
hàng đầu, do sự trang bị khá rộng rãi ở các cơ sở y tế và chi phí hợp lý.
Chiếc máy chụp CLVT đầu tiên ra đời năm 1971, từ đó đến nay có nhiều
thế hệ khác ra đời, từ một dãy đầu dò đến đa dãy đầu dò cùng với các phần
mềm hiện đại ra đời, cho phép cắt lớp mỏng và tái tạo trên nhiều mặt
phẳng, chụp mạch não có tiêm thuốc cản quang mạch máu qua đường tĩnh
3
mạch góp phần chẩn đoán sớm mức độ tổn thương, bước đầu tìm được
nguyên nhân chảy máu, từ đó có phương pháp điều trị kịp thời, theo dõi và
tiên lượng bệnh.
Ở Việt nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về tai biến mạch máu não
nói chung và chảy máu não nói riêng. Theo Lê Đức Hinh (1993 – 1994) trong
nghiên cứu tình hình tử vong do tai biến mạch máu não tại Bệnh viện Bạch
Mai đã thông báo tình hình tử vong do chảy máu não là 67,3%. Trần Viết Lực
(2000) “ Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, hình ảnh chụp CLVT và phương
hướng điều trị chảy máu não thất không chấn thương”. Đào Thị Hồng Hải
(2010) “ Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, hình ảnh CLVT chảy máu não thất
và một số yếu tố tiên lượng chảy máu não thất thứ phát ở bệnh nhân trên 50
tuổi”. Hiện nay chưa có nghiên cứu nào sâu về đặc điểm hình ảnh CLVT
chảy máunãothất.
Xuất phát từ thực tế nói trên chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu
đặcđiểm hìnhảnh cắt lớp vitính trongchẩnđoán chảymáu nãothất”
Nhằm các mục tiêu sau:
1. Môtả đặc điểmhìnhảnhchảymáunãothấttrên cắtlớpvitính.
2. Bước đầu mô tả một số nguyên nhân liên quan đến chảy máu não
thất.
4
5
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Tình hình tai biến mạch não Chảy máu não thất
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu [6]
Từ nhiều thập kỷ qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về các khía
cạnh khác nhau của TBMN, làm phong phú thêm kinh nghiệm lâm sàng,
chẩn đoán, theo dõi và điều trị.
* Năm 1676 Willis đã phát hiện ra đa giác Willis mở đầu cho những
nghiên cứu về TBMN.
Năm 1718 Dionis mô tả lần đầu tiên bệnh cảnh lâm sàng của chảy
máu dưới nhện.
* Năm 1740 Haller, sau đó là Riser (1936), Lazorthes (1961), Guiraud
(1974) đã nghiên cứu về giải phẫu, sinh lý của tuần hoàn não.
* Năm 1868, Charcot và Bouchart lần đầu tiên giải thích cơ chế của
CMN là do vỡ các vi phình mạch.
* Năm 1891 Serve phân chia chảy máu dưới nhện theo vùng ngập
máu.
* Năm 1960 Fisher đã mô tả NMN gây thiếu máu ở vùng giáp ranh
giữa các khu vực của các đông mạch não.
* Năm 1971 Hounsfield và Ambrose phát minh ra máy chụp CLVT tạo
một bước đột phá trong chẩn đoán y học, mang lại những kết quả to lớn
...
- tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn