Xem mẫu

  1. ĐÀO TẠO, DẠY NGHỀ DU LỊCH: TƯ DUY TOÀN CẦU VÀ HÀNH ĐỘNG ĐỊA PHƯƠNG Nguyễn Văn Lưu(*) TRAINING, TOURISM VOCATIONAL TRAINING: THINK GLOBALLY AND THINK LOCALLY Abstract This paper refers only to training, tourism vocational training, which is one of the four contents of tourism human resource development(1), under the motto "Think globally and act locally". Training, tourism vocational training in Vietnam should think globally in order to find international factors, and to determine clearly goals , methods, technologies, scale, quality and training structure of tourism vocational training; and should act locally in a view to surmount challenges, grasp opportunities, overcome weaknesses and promote strengths; should exploit efficiently human resources for training, vocational training; and should make a difference, have enough strength to fulfill the mission and achieve the objectives as expected. * Những năm vừa qua, đào tạo, dạy nghề du lịch Việt Nam đã có những thành công: 1) Cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch các cấp trình độ được hình thành và mở rộng: Số lượng tăng nhanh, phủ kín hầu hết các tỉnh, thành(2); cơ cấu đa dạng về loại hình sở hữu, cấp đào tạo, dạy nghề và ngành nghề; tập trung ở các đô thị, trung tâm du lịch trọng điểm. Hầu hết các tỉnh, thành đã có trung tâm đào tạo, dạy nghề và bồi dưỡng du lịch ngắn hạn hoặc trung tâm đào tạo đa ngành nghề tham gia đào tạo, dạy nghề du lịch. 2) Năng lực đào tạo, dạy nghề và bồi dưỡng du lịch từng bước được nâng cao: Cơ sở vật chất kỹ thuật đào tạo, dạy nghề hiện đại dần; đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý đào tạo, dạy nghề tăng về số lượng và từng bước được chuẩn hóa(3); chương trình, giáo trình và tài liệu tham khảo ngày một đầy đủ(4). 3) Quy mô đào tạo, dạy nghề và bồi dưỡng hàng năm tăng dần(5); cơ cấu chuyển dịch theo hướng tích cực, đáp ứng yêu cầu xã hội. 4) Đào tạo lại, bồi dưỡng du lịch được quan tâm, có điều kiện hơn về bộ máy, nhân lực và kinh phí. Đào tạo tại chỗ, truyền nghề và bồi dưỡng nhân lực của doanh nghiệp được đầu tư thoả đáng hơn và phát huy tác dụng. 5) Quản lý nhà nước về đào tạo, dạy nghề du lịch có tiến bộ: Hệ thống tổ chức dần được hình thành từ trung ương đến địa phương; nhân lực quản lý thực hiện được nhiệm vụ quản lý; văn bản quy phạm pháp luật bổ sung hoàn thiện dần, phổ biến, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện, tạo thuận lợi cho đào tạo, dạy nghề du lịch. 6) Liên kết, hợp tác quốc tế về đào tạo, dạy nghề du lịch đạt kết quả khích lệ, thu hút được vốn, kinh nghiệm và công nghệ. Liên kết đào tạo, dạy nghề du lịch ở trong nước khắc phục dần tính tự phát, tăng cường quan hệ Nhà nước - Nhà trường - Nhà sử dụng lao động. Tuy nhiên, đào tạo, dạy nghề du lịch vẫn còn nhiều bất cập: 1) Sự phân bố các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch còn bất hợp lý, chỉ tập trung ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nha Trang(6). 2) Năng lực đào tạo, dạy nghề còn nhiều hạn chế: Cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị thiếu, cũ kỹ, lạc hậu so với doanh nghiệp; chương trình, giáo trình đang xây dựng và hoàn thiện, chưa có chương trình đào tạo nghiên cứu sinh du lịch, có những giáo trình ở một số trường chưa đạt tiêu chuẩn; phương pháp đào tạo, dạy nghề nặng thuyết trình, độc thoại, chưa theo kịp đào tạo, dạy nghề dựa trên năng lực của khu vực và thế giới; đội ngũ nhà giáo (*) TS., Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
  2. hạn chế về số lượng, chất lượng, cơ cấu, ngoại ngữ, tin học, giáo viên cơ hữu mỏng(7), giảng viên, giáo viên chuyên ngành du lịch chiếm tỷ lệ rất thấp (khoảng 30%); doanh nghiệp chưa sử dụng tốt đội ngũ đào tạo viên du lịch để đào tạo tại chỗ 3) Quy mô đào tạo, dạy nghề du lịch mới đáp ứng được hơn 65% nhu cầu xã hội, khoảng 75% nhu cầu nhân lực trực tiếp của Ngành. 4) Nhu cầu đào tạo lại, dạy nghề lại và bồi dưỡng du lịch rất lớn, nhưng đáp ứng được ở mức thấp. 5) Chất lượng đào tạo mới và dạy nghề chính quy chưa đảm bảo; chất lượng đào tạo lại, bồi dưỡng hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu ngày càng cao của ngành Du lịch trong tiến trình hội nhập quốc tế do thiếu giảng viên, giáo viên và tài liệu học tập. Lao động phổ thông tuyển vào làm việc ở khách sạn, nhà hàng không được quan tâm đào tạo tại chỗ. 6) Bộ máy quản lý nhà nước về đào tạo, dạy nghề du lịch chưa đủ mạnh, thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, chưa tương xứng nhiệm vụ. Nhiều địa phương, cả ở trọng điểm du lịch, chưa có bộ phận chuyên trách đào tạo, dạy nghề du lịch. Tổ chức quản lý đào tạo, dạy nghề du lịch phân tán, thiếu sự phối hợp dẫn đến chồng chéo, bỏ sót, buông lỏng, làm giảm hiệu lực và hiệu quả quản lý. 7) Chưa có chính sách định hướng dài hạn, thiếu giải pháp điều chỉnh bất hợp lý cơ cấu đào tạo, dạy nghề du lịch; chưa quan tâm và tập trung tăng đào tạo nghề dài hạn; chưa có chính sách gắn kết cơ sở nghiên cứu, đào tạo, dạy nghề du lịch với cơ sở sử dụng nhân lực du lịch; Chưa có cơ chế huy động sự tham gia của doanh nghiệp vào đào tạo, dạy nghề du lịch. 8) Chất lượng đào tạo, dạy nghề du lịch ở vùng sâu, vùng xa thấp so với ở đô thị, đồng bằng, nhưng chưa có biện pháp giải quyết; thiếu cơ chế tạo cạnh tranh, nên ít có động lực thúc đẩy nâng cao chất lượng đào tạo, dạy nghề du lịch; chưa kiểm soát được chất lượng đào tạo, dạy nghề. 9) Danh mục ngành, nghề đào tạo, dạy nghề lạc hậu, ít so với yêu cầu sử dụng, chậm sửa đổi, bổ sung, chưa tính hết yêu cầu phát triển của thị trường và chưa tiếp cận được xu thế đào tạo, dạy nghề du lịch mới, nên thiếu nhiều nghề, nhất là những nghề mới. 10) Liên kết quốc tế đào tạo, dạy nghề du lịch chưa đạt hiệu quả mong muốn, mới tập trung khai thác vốn tài trợ, chưa chú trọng khai thác công nghệ, kinh nghiệm và chất xám; số lượng cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch liên kết quốc tế rất ít; liên kết đào tạo, dạy nghề du lịch theo nhu cầu xã hội trong nước chưa tốt; liên kết giữa Nhà nước - Nhà trường - Nhà sử dụng lao động tuy khắc phục được một số hạn chế, nhưng vẫn còn rời rạc, chưa bài bản; liên kết giữa các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch với nhau chưa hiệu quả; thông tin định hướng đào tạo, dạy nghề chưa thường xuyên, cung không gặp cầu. 11) Mới chỉ đào tạo, dạy nghề trong các trường, ít chú trọng tới đào tạo cộng đồng dân cư, người lao động ở các ngành liên quan du lịch. Những hạn chế yếu kém nêu trên chủ yếu là đến nay vẫn thiếu tư duy toàn cầu và ít hành động địa phương về đào tạo, dạy nghề du lịch để định hướng đúng, có hệ thống và đáp ứng yêu cầu đặt ra. Tại sao đào tạo, dạy nghề du lịch phải đòi hỏi tư duy toàn cầu và hành động địa phương? Đây là câu hỏi đặt ra thì dễ, nói thì đơn giản nhưng hiểu và trả lời được, làm được mới là khó. Đào tạo, dạy nghề du lịch phải tư duy toàn cầu vì: Du lịch, tự thân nó đã mang tính khu vực và toàn cầu ở cả hai góc độ: Tiêu dùng và sản xuất du lịch. Dưới góc độ tiêu dùng du lịch, khách du lịch không chỉ đi du lịch nội địa mà còn vượt biên giới quốc gia, để tìm hiểu văn hoá và thiên nhiên của vùng đất khác. Dòng khách du lịch quốc tế không bị giới hạn bởi biên giới lãnh thổ họ sinh sống hàng ngày mà vươn rộng ra thế giới, lan toả khắp các châu lục. Năm 2010, trung bình mỗi ngày có trên 2,58 triệu lượt người đi du lịch qua biên giới quốc gia, thì năm 2013 con số này là 2,98 triệu. Nhu cầu du lịch từ chỗ là nhu cầu cao cấp đã trở thành nhu cầu bình thường của các tầng lớp dân cư trong xã hội thậm chí đã trở thành nhu cầu thiết yếu trong cuối tuần, những ngày nghỉ lễ, để lập lại cân bằng sinh thái của nhịp sống đã bị phá vỡ. Để đáp ứng những nhu cầu đó, ngành Du lịch được hình thành thành và phát triển. Đây là ngành kinh tế tổng hợp, mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng
  3. và xã hội hóa cao. Xu hướng rất rõ là du lịch các nước khai thác, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, đặc thù từng vùng và kết hợp với tổ chức phục vụ theo phong cách dân tộc, thể hiện hành động địa phương. Trong khi đó, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ngày càng được hiện đại hoá, quy trình công nghệ tạo sản phẩm du lịch được quốc tế hoá dần, chứa đựng tư duy toàn cầu. Những hãng lữ hành liên quốc gia có tiềm lực và kinh nghiệm, những hiệp hội lữ hành khu vực, những chuỗi khách sạn lớn với hàng trăm khách sạn rải khắp thế giới xuất hiện. Hệ thống đặt buồng khách sạn, bán vé và giữ chỗ máy bay được được điện tử hóa, hàng không giá rẻ ra đời mở ra khả năng cho nhiều người đi du lịch bằng máy bay. Bên cạnh đó, việc khắc phục sự cố môi trường, rủi ro, khủng hoảng du lịch phải liên kết các nhóm nước, toàn khu vực mới đủ sức mạnh và tiềm lực giải quyết được. Đào tạo, dạy nghề du lịch cũng vậy, không thể “mạnh ai nấy làm”, mà cần hợp tác quốc tế, với mục tiêu chung, chiến lược chung, chất lượng chung theo tiêu chuẩn dựa trên năng lực thực hiện. Nhờ giao lưu, hợp tác, liên kết, các nước có thể học hỏi thêm kinh nghiệm, được hỗ trợ vốn, nhân lực, kỹ thuật, công nghệ. Như vậy muốn đào tạo, dạy nghề du lịch đáp ứng nhu cầu xã hội phải tư duy toàn cầu và cần được trang bị tư duy toàn cầu. Chỉ có tư duy toàn cầu mới thấy được các yếu tố quốc tế tác động và xác định đúng, rõ được mục tiêu, phương thức, công nghệ, quy mô, chất lượng và cơ cấu đào tạo, dạy nghề. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ và sâu rộng hơn đã và sẽ làm cho nền kinh tế tri thức phát triển theo chiều sâu; hệ thống thống tin liên lạc cá nhân được coi là mục tiêu cao nhất trong thông tin liên lạc lý tưởng của nhân loại, internet được thay thế bằng evernet. Khoảng cách không gian và thời gian được rút ngắn, phương pháp tổ chức công việc được thay đổi, tốc độ chuyển giao từ nơi nghiên cứu ra thực tế, rút ngắn, ảnh hưởng sâu sắc đến phương thức sản xuất và sinh hoạt của loài người, làm biến đổi nhanh chóng đời sống vật chất và tinh thần của xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, mở ra triển vọng mới cho các bên tham gia vào việc phân công lao động toàn cầu. Hoạt động du lịch không nằm ngoài những tác động đó và vì thế đào tạo, dạy nghề lực du lịch cũng bị các yếu tố này chi phối. Giao lưu và hội nhập quốc tế đang diễn ra thuận lợi và nhanh chóng, nhưng cũng là cuộc đấu tranh gay gắt để bảo tồn tính đa dạng và bản sắc văn hóa dân tộc. Quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế tạo ra những biến đổi lớn về diện mạo, đặc điểm, loại hình du lịch; sự bùng nổ các phương tiện và công nghệ truyền thông, công nghệ giải trí cũng tạo nên những tác động cả tích cực và tiêu cực đến đời sống xã hội và công chúng, kéo theo sự tác động vào đào tạo, dạy nghề du lịch. Toàn cầu hoá ngày càng rộng và sâu làm cho hoạt động du lịch kết các quốc gia thành chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu. Các nước đều muốn và buộc phải tham gia sâu vào quá trình phân công lao động quốc tế trong du lịch để tránh tụt hậu và được hưởng lợi nhiều hơn kết quả toàn cầu hoá, nếu có nguồn nhân lực được đào tạo, dạy nghề du lịch tốt, có đủ năng lực thực hiện công việc. Đây là yếu tố quyết định, buộc phải tư duy theo hướng này, vì tự thân du lịch đã mang tính quốc tế ngay từ khi mới hình thành, nên nguồn nhân lực du lịch cũng phải “quốc tế hoá”, đào tạo, dạy nghề du lịch cũng vì thế không thể chỉ triển khai ở bình diện quốc gia. Việc hình thành các khối, các tổ chức hợp tác đa phương, song phương liên quan đến du lịch như UNESCO, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Tổ chức Du lịch Thế giới của Liên hợp quốc (UNWTO) thúc đẩy sự di chuyển lao động quốc tế mạnh hơn, nhân lực trình độ cao từ các nước phát triển vào các nước đang phát triển để chiếm giữ những vị trí then chốt về khoa học - công nghệ, quản lý, kinh doanh. Các nước đang phát triển phải phát triển nguồn nhân lực du lịch để chủ động tiếp cận tri thức, tiếp nhận chuyển giao công nghệ để nắm bắt và tiến tới làm chủ kiến thức và công nghệ, cạnh tranh thắng lợi ngay tại thị trường du lịch trong nước và cũng dần vươn lên xuất khẩu lao động du lịch ra nước ngoài. Hợp tác và liên kết trong ASEAN, đặc biệt là việc nhất thể hoá, hình thành Cộng đồng Kinh tế
  4. ASEAN vào cuối năm 2015, giữa ASEAN với các đối tác ngày chặt chẽ và toàn diện; mối quan hệ Á - Âu ngày càng phát triển và sự hợp tác giữa hai khối sẽ đảm bảo cho sự ổn định, an ninh và phát triển kinh tế. Châu Á - Thái Bình Dương vẫn là khu vực có du lịch phát triển năng động, đang trong quá trình đàm phán TPP, có vai trò ngày càng lớn. Để đáp ứng yêu cầu đàm phán, hoạch định chính sách chung đến việc tổ chức thực hiện các cam kết, hạn chế những rủi ro, bất lợi và thu lợi nhiều hơn từ các quá trình hợp tác quốc tế về du lịch, đòi hỏi Việt Nam phải có nhân lực du lịch chất lượng cao. Trong bối cảnh đó, đào tạo, dạy nghề du lịch nhằm đảm bảo mục tiêu quốc gia về hội nhập quốc tế về du lịch thể hiện ở chỗ: Đào tạo dựa trên năng lực (gồm kiến thức chung và trình độ nghiệp vụ; kỹ năng; và thái độ nghề nghiệp) được thừa nhận rộng rãi trong khu vực; nhân lực du lịch nhờ thế có thể di chuyển và tìm được việc làm trong khu vực; ngành Du lịch quốc gia có thể vươn tới tham gia chủ động vào quá trình phân công lao động quốc tế trong du lịch, đảm bảo có vị trí xứng đáng trong chuỗi cung cấp dịch vụ du lịch có chất lượng của khu vực và thế giới. Để đạt được yêu cầu trên, đào tạo, dạy nghề du lịch Việt Nam cần phấn đấu đạt chuẩn năng lực từng nghề của khu vực và thế giới. Các ngành, nghề du lịch biến đổi liên tục, nghề cũ nhanh chóng mất đi, nhiều nghề mới xuất hiện, đòi hỏi năng lực của nhân lực du lịch phải không ngừng nâng lên và thường xuyên thay đổi để phù hợp và kịp bắt nhịp với những cái mới do tiến bộ khoa học - công nghệ đem lại. Học tập suốt đời là yêu cầu bắt buộc đối với nhân lực du lịch. Do đó, phải nhận thức được vai trò, vị trí hàng đầu của giáo dục, đào tạo, dạy nghề và khoa học, công nghệ; đẩy mạnh đổi mới giáo dục, đào tạo, dạy nghề và khoa học công nghệ, ứng dụng tốt vào thực tiễn để có thể đáp ứng năng động hơn, hiệu quả hơn và trực tiếp hơn nhu cầu đào tạo, dạy nghề du lịch. Những giá trị du lịch mới được thiết lập trên cơ sở giá trị văn hoá dân tộc độc đáo, nguyên bản, giá trị tự nhiên nguyên sơ, giá trị sáng tạo và công nghệ cao, hiện đại là những xu hướng lựa chọn trong nhu cầu du lịch. Cạnh tranh và phát triển du lịch sẽ chủ yếu dựa trên tính độc đáo và sáng tạo của sản phẩm, dịch vụ, giá trị độc đáo của bản sắc văn hóa và chất lượng môi trường. Những yêu cầu này tác động trực tiếp đến đào tạo, dạy nghề du lịch, đặc biệt là sự phát triển thái độ, trách nhiệm, kỹ năng và kiến thức sâu, rộng của nhân lực du lịch trong hoạt động nghề nghiệp. Bên cạnh các yếu tố nêu trên, những nhân tố mang tính chuyên ngành tác động trực tiếp, toàn diện và sâu sắc đến đào tạo, dạy nghề du lịch, nổi bật là: 1) Các yếu tố liên quan đến khách du lịch: Số lượng; cơ cấu và tần suất khách đến, khách đi; thời vụ du lịch; 2) Các yếu tố trên thị trường lao động du lịch: Các yếu tố ảnh hưởng đến tiền công, tiền lương; xu hướng cạnh tranh lao động du lịch, sự thay thế giữa các loại lao động khác nhau (lao động lành nghề, bán lành nghề và lao động phổ thông); 3) Các yếu tố của bản thân nguồn nhân lực du lịch: Xu hướng phân cực của nhân lực du lịch (nhân lực bậc cao ngày càng chuyên sâu và chiếm tỷ trọng nhỏ, nhân lực kỹ năng bậc thấp và lao động kỹ năng sơ cấp, qua truyền nghề tăng cả số tuyệt đối và tỷ trọng); xu hướng di chuyển và chuyển dịch cơ cấu nhân lực tăng nhanh; 4) Xu hướng tăng đầu tư vào đào tạo, dạy nghề du lịch; xu hướng thích ứng nhanh của hệ thống đào tạo, dạy nghề du lịch… 5) Xu hướng phát triển du lịch trên toàn cầu. Nhưng tại sao đào tạo, dạy nghề du lịch cần hành động địa phương? Đào tạo, dạy nghề du lịch mặc dù phải tư duy toàn cầu, nhưng cần hành động địa phương là vì: Điều kiện khí hậu, tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn, chủ trương, chính sách, kinh tế, xã hội, truyền thống, quan niệm, bản sắc văn hoá ở mỗi địa phương, mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ rất khác nhau. Một biện pháp đào tạo, dạy nghề du lịch áp dụng ở Châu Âu, Châu Mỹ rất hay nhưng có thể không kết quả, hoặc không “dùng” được ở Châu Á. Do đó, mỗi vùng, mỗi nước, từng điểm đến du lịch, từng địa phương phải có hành động của riêng mình, phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển của đất nước và con người “bản địa”. Mặt khác, chỉ có các chủ thể phát triển du lịch tại địa phương mới biết rõ nguồn lực có thể khai thác được cho đào tạo, dạy nghề du lịch của mình là gì; phải đối mặt với những thách thức gì, có cơ hội gì, những
  5. điểm yếu gì và thế mạnh gì trong đào tạo, dạy nghề du lịch. Các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch cũng phải có hành động riêng, “hành động địa phương” trong hoạt động của mình để hoàn thành sứ mệnh, đạt mục tiêu đặt ra và để phân biệt với đối thủ cạnh tranh, thay đổi theo hành vi, tập quán của cư dân địa phương, giành được học viên. Hoạt động đào tạo, dạy nghề du lịch phải hoạch định trên cơ sở điều kiện của đất nước, nổi bật là: Nước ta phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại(11). Khi kinh tế càng phát triển, mức thu nhập ngày càng cao, nhu cầu được đào tạo nghề nghiệp cũng ngày một cao hơn, sự xuất hiện của những ngành nghề mới, nhu cầu đào tạo, dạy nghề về du lịch cũng sẽ tăng lên. Nước ta là thành viên chính thức của WTO nên sẽ có rất nhiều tập đoàn kinh tế lớn, công ty xuyên quốc gia đầu tư vào du lịch; đồng thời, Việt Nam cũng sẽ đầu tư du lịch ra nước ngoài. Sự thúc bách cần thiết phải tham gia các định chế/tổ chức quốc tế và cùng cộng đồng quốc tế giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu và khu vực trong đó có những vấn đề trong lĩnh vực du lịch. Nhu cầu nhân lực du lịch sẽ trở nên rất lớn, sự di chuyển lao động du lịch từ nước ngoài vào nước ta và từ nước ta ra nước ngoài ngày một tăng, cạnh tranh trên thị trường lao động du lịch gay gắt hơn. Điều đó đòi hỏi phải nhanh chóng tạo được nguồn nhân lực du lịch đáp ứng nhu cầu lao động đa dạng, trong đó có một bộ phận nhân lực chất lượng cao để đảm trách được những vị trí quan trọng trong các doanh nghiệp du lịch có vốn đầu tư nước ngoài, cạnh tranh thắng lợi với nhân lực du lịch là người nước ngoài tại Việt Nam và đi làm việc tại các cơ sở du lịch Việt Nam ở nước ngoài, của các nước và quốc tế. Những thành tựu đạt được trong đổi mới đất nước tạo ra những tiền đề mới, rất quan trọng cho đào tạo, dạy nghề du lịch. Giáo dục, đào tạo, dạy nghề du lịch là yếu tố cấu thành quan trọng của phát triển nguồn nhân lực du lịch; ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng, chất lượng và cơ cấu nhân lực du lịch. Việt Nam đang ở trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” nên có lực lượng lao động rất đông đảo, tỷ lệ dân số hàng năm bước vào độ tuổi lao động cao. Song, thời kỳ “dân số vàng” cũng tạo ra sức ép lớn về giải quyết việc làm do quy mô nhân lực lớn, trong đó số người chưa qua đào tạo còn nhiều(12). Theo dự báo, từ nửa sau thập kỷ 2020, dân số Việt Nam sẽ bước vào thời kỳ “già hoá dân số”, tỷ lệ người già tăng nhanh. Nếu không có chính sách đào tạo, dạy nghề hợp lý để toàn dụng lao động với chất lượng ngày càng cao, tình trạng “già hóa” khi chưa kịp già sẽ trở thành một vấn đề lớn. Đào tạo, dạy nghề du lịch tạo ra “nguồn”, “đầu vào” cho phát triển nguồn nhân lực đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và hợp lý về cơ cấu, hoàn thành nhiệm vụ phát triển du lịch góp phần tích cực trong công cuộc xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới. Trên cơ sở nêu trên, đào tạo, dạy nghề du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 cần: 1) Nâng trình độ đào tạo, dạy nghề du lịch lên ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới để biến nhân lực thành lợi thế quốc gia và năng lực cạnh tranh du lịch; gắn kết với thị trường lao động du lịch quốc tế. 2) Hình thành nhân lực du lịch đủ số lượng; chất lượng đa tầng, đa cấp, có năng lực nhanh chóng thích ứng nhu cầu phát triển du lịch trong nước theo hướng hiện đại và tình hình thế giới không ngừng thay đổi; cơ cấu ngành nghề đa dạng và cân đối, hợp lý, hài hoà theo vùng, miền, dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch gắn với phát triển kinh tế, xã hội và đặc điểm mỗi vùng, miền. 3) Thực hiện công bằng xã hội trong đào tạo, dạy nghề du lịch thông qua sự kết hợp hài hoà giữa đảm bảo phúc lợi xã hội với sử dụng những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường và hiệu quả kinh tế - xã hội, đảm bảo bình đẳng về cơ hội đào tạo, dạy nghề du lịch cho mọi người trong xã hội. Quy mô, chất lượng đào tạo, dạy nghề du lịch phải do yêu cầu phát triển du lịch quyết định, không áp đặt cứng nhắc. Coi trọng đào tạo, dạy nghề, quan tâm hơn đến truyền nghề tại chỗ và ưu tiên nhân lực khoa học-công nghệ, nhân lực lãnh đạo, quản lý nhà nước và kinh doanh, nhân lực trình độ cao trực tiếp sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, nhân lực các vùng lạc hậu, kém phát triển, dân tộc thiểu số. 4) Đào tạo, dạy nghề du lịch là trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó ngành Du lịch là nòng cốt; kết hợp hài hoà với việc sử dụng cơ chế, công cụ của kinh tế thị trường trong đào tạo, dạy nghề du lịch.
  6. Tất cả nỗ lực cố gắng để đến năm 2020 đạt được mục tiêu đã đề ra trong Quy hoạch phát triển nhân lực du lịch đến năm 2020(13), cơ bản giải quyết đủ số lượng, đảm bảo chất lượng và hợp lý về cơ cấu trình độ, ngành nghề và vùng miền, đáp ứng nhu cầu nhân lực du lịch trong nước và tham gia xuất khẩu lao động du lịch; phấn đấu đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và một số mặt tiếp cận trình độ các nước tiến tiến trên thế giới; khẳng định nhân lực là yếu tố quyết định sự phát triển bền vững ngành Du lịch, góp phần đưa Việt Nam trở thành một trung tâm du lịch hàng đầu trong khu vực. Hành động địa phương trong đào tạo, dạy nghề du lịch Việt Nam bao gồm: 1) Tăng cường quản lý nhà nước về đào tạo, dạy nghề du lịch: Hành động này để định hướng đúng, tăng cường năng lực hoạch định chính sách, hình thành khung pháp lý và cơ chế cho đào tạo, dạy nghề du lịch, đảm bảo sự liên kết chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước, cơ sở đào tạo, dạy nghề và doanh nghiệp trong đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân lực ngành Du lịch; quan tâm hơn đến nhu cầu đào tạo du lịch của nhân lực du lịch gián tiếp và của cộng đồng. Muốn như vậy phải: a) Thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực du lịch đến năm 2020; b) Xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách và quy chế quản lý đào tạo, dạy nghề du lịch; c) Nâng cao năng lực cán bộ quản lý du lịch; d) Phát triển đội ngũ cán bộ chuyên trách về đào tạo, dạy nghề du lịch; đ) Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch toàn quốc trong đào tạo, dạy nghề du lịch; e) Tăng cường kiểm tra, thanh tra hoạt động đào tạo, dạy nghề lực du lịch theo nhu cầu xã hội. 2) Xây dựng tiêu chuẩn (tập trung vào tiêu chuẩn nghề) và thực hiện chuẩn hóa một bước nhân lực du lịch, phù hợp với các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế tạo điều kiện cho hội nhập quốc tế về lao động trong du lịch. Hành động này nhằm hình thành được tiêu chuẩn quốc gia về nhân lực ngành Du lịch làm cơ sở để các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch xây dựng chương trình đào tạo, dạy nghề theo chuẩn và các doanh nghiệp tuyển chọn, sử dụng và đãi ngộ nhân lực du lịch thống nhất toàn quốc và đảm bảo hội nhập quốc tế thành công. Muốn thế phải: a) Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đối với các chức danh và cấp, bậc ngành nghề du lịch; b) Mở rộng phạm vi hoạt động của Hội đồng VTCB; c) Hội nhập dần tiêu chuẩn nghề trong khu vực. 3) Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch. Hành động để nâng cao năng lực đào tạo, dạy nghề du lịch cho mạng lưới cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch trong toàn quốc đáp ứng nhu cầu xã hội. Muốn vậy phải: a) Cơ cấu lại mạng lưới cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch; b) Chú trọng đầu tư cho các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch trực thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch; c) Quan tâm các cơ sở đào tạo, dạy nghề khác có đào tạo du lịch; d) Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch. 4) Xây dựng, công bố và thực hiện chuẩn trường: Mục đích của hành động này là chuẩn hóa mọi mặt các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch, để thực hiện được quy mô, chất lượng và cơ cấu đào tạo, dạy nghề du lịch theo nhu cầu xã hội. Muốn đạt được mục đích này cần: a) Xây dựng chuẩn trường; b) Phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên và đào tạo viên; c) Đổi mới chương trình đào tạo, dạy nghề du lịch; d) Tăng cường quản trị cơ sở đào tạo. 5) Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến vào công tác nghiên cứu, thống kê phục vụ đào tạo, dạy nghề du lịch. Đây là hành động để từng bước hiện đại hóa đào tạo, dạy nghề du lịch, thông qua các giải pháp: a) Tăng cường thống kê và nghiên cứu khoa học đào tạo, dạy nghề du lịch; b) Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị ứng dụng, khai thác hiệu quả công nghệ thông tin để thúc đẩy đào tạo, dạy nghề du lịch; c) Thiết lập và vận hành cơ sở dữ liệu về nhân lực ngành Du lịch. 6) Tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực (tài chính, công nghệ, công sức và kinh nghiệm) trong và ngoài nước cho đào tạo, dạy nghề du lịch. Hành động này để huy động và sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực trong và ngoài nước cho đào tạo, dạy nghề
  7. du lịch. Tập trung vào: a) Rà soát, sửa đổi và bổ sung chính sách, cơ chế xã hội hóa đào tạo, dạy nghề du lịch; b) Khuyến khích các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, dạy nghề du lịch lập cơ sở sản xuất, cơ sở dịch vụ; c) Phát huy vai trò và nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo, dạy nghề du lịch; d) Huy động chất xám cho đào tạo, dạy nghề du lịch; đ) Tạo điều kiện để các thành phần trong xã hội tham gia đào tạo, dạy nghề du lịch; e) Tăng cường thu hút vốn, công nghệ tiên tiến ngoài nước phục vụ đào tạo, dạy nghề du lịch; g) Thành lập hội, hiệp hội, hội đồng, câu lạc bộ liên quan đến đào tạo, dạy nghề du lịch. 7) Tạo môi trường thuận lợi cho đào tạo, dạy nghề du lịch. Hành động này để tạo môi trường thuận lợi hơn cho đào tạo, dạy nghề du lịch, với các giải pháp: a) Tuyên truyền ngâng cao nhận thức; b) Nâng cao hình ảnh nghề nghiệp du lịch; c) Mở rộng và tăng cường liên kết đào tạo, dạy nghề. Chú thích: (1) Phát triển nguồn nhân lực du lịch là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm tăng quy mô; hoàn thiện và nâng cao chất lượng; và điều chỉnh cơ cấu nguồn nhân lực du lịch phù hợp với yêu cầu phát triển du lịch từng giai đoạn. Nội dung phát triển nguồn nhân lực du lịch bao hàm: 1) Quá trình giáo dục, đào tạo, dạy nghề và bồi dưỡng nhân lực về kiến thức chung liên quan đến nghề nghiệp, kiến thức nghề nghiệp, kỹ năng nghề nghiệp, văn hóa, thái độ và sức khỏe nghề nghiệp du lịch; 2) Tuyển dụng nhân lực du lịch cho các vị trí làm việc ở tất cả các nhóm nhân lực quản lý nhà nước về du lịch, nhân lực sự nghiệp du lịch, nhân lực quản trị kinh doanh và nhân lực tác nghiệp; 3) Bố trí và sử dụng nhân lực du lịch với các chức danh phù hợp, vị trí cần thiết cho hoạt động du lịch; và 4) Đãi ngộ, trả lương, bảo hiểm xã hội đối với nhân lực du lịch. (2) Theo thống kê chưa đầy đủ của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch thì cả nước hiện có 284 cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch, gồm 62 trường đại học; 80 trường cao đẳng; 117 trung cấp; 02 công ty đào tạo và 23 trung tâm, lớp đào tạo nghề. 10 tỉnh chưa có cơ sở đào tạo du lịch là Lai Châu, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Nam, Ninh Thuận, Bình Phước, Tây Ninh, Sóc Trăng. (3) Đội ngũ nhà giáo trong du lịch gồm giảng viên, giáo viên, đào tạo viên. Hiện cả nước có khoảng 5.000 người tham gia đào tạo, dạy nghề du lịch, trong đó có 2.000 giáo viên, giảng viên du lịch, 540 cán bộ quản lý, phục vụ đào tạo các cấp và 2.579 đào tạo viên du lịch. (4) Đến cuối năm 2013, có 128 chương trình đào tạo du lịch được các cơ sở đào tạo và dạy nghề tổ chức thực hiện. Tất cả các học phần/môn học/mô đun được tổ chức triển khai áp dụng tại các cơ sở đào tạo và dạy nghề du lịch đều có giáo trình và bài giảng theo 5 loại hình nêu trên. Khoảng gần 1.000 giáo trình, bài giảng được biên soạn, trong đó có 471 giáo trình của các cơ sở đào tạo và dạy nghề du lịch thuộc bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch. (5) Năm 2013 cả nước tuyển sinh khoảng 25.000 học sinh, sinh viên du lịch (tăng 66,7% so với năm 2005 (15.000 học sinh, sinh viên) và tăng 13,6% so với năm 2010 (22.000 học sinh, sinh viên); trong đó có 4.870 sinh viên (2.270 sinh viên đại học, cao đẳng chuyên nghiệp và 2.600 sinh viên cao đẳng nghề du lịch); 20.130 học sinh (gồm 11.495 học sinh trung học chuyên nghiệp và 8.635 học sinh trung cấp nghề du lịch); sơ cấp nghề và đào tạo du lịch dưới 3 tháng chưa có số liệu thống kê đầy đủ, ước khoảng 8.000 học viên. Số lượng học sinh, sinh viên tốt nghiệp hàng năm khoảng 22.500. (6) Hà Nội có 15 trường đại học, 18 trường cao đẳng, 27 trường trung cấp, 10 trung cấp nghề, 1 trung tâm dạy nghề và 01 chi nhánh đào tạo nghề; TP. Hồ Chí Minh có 16 trường đại học, 12 cao đẳng, 22 trường trung cấp và 6 trung tâm dạy nghề; Đà Nẵng có 5 trường đại học, 7 trường cao đẳng chuyên nghiệp, 2 trường cao đẳng nghề, 5 trường trung cấp chuyên, 1 trung
  8. cấp nghề, 2 trung tâm dạy nghề; Nha Trang (Khánh Hòa) có 2 trường đại học, 4 trường cao đẳng, 2 trường cao đẳng nghề, 3 trường trung cấp chuyên nghiệp và 1 trường trung cấp nghề). (7) Các trường công lập và đào tạo chuyên về du lịch hầu hết có tỷ lệ giáo viên cơ hữu cao, còn các trường ngoài công lập, trường mới thành lập và trường mở thêm chuyên ngành Du lịch tỷ lệ giáo viên cơ hữu thấp (thường dưới 50%). (8) Theo VTCB thì mới có 28% số đào tạo viên được EU đào tạo tức là khoảng 700 đào tạo viên trong số 2.500 đào tạo viên du lịch, được thực hiện đào tạo tại chỗ trong doanh nghiệp). (9) Dự báo Thế kỷ 21, Nhà xuất bản Thống kê, năm 1998. (10) 1) Xu hướng hình thành nền kinh tế thị trường du lịch toàn cầu; 2) Xu hướng cạnh tranh trong hợp tác phát triển du lịch ngày một gia tăng; 3) Xu hướng quy mô du lịch toàn cầu liên tục tăng; 4) Dòng khách du lịch thay đổi hướng: Chuyển dịch sang khu vực Đông Á - Thái Bình Dương. Du lịch các nước Đông Nam Á giữ vị trí quan trọng trong khu vực; 5) Xu hướng thay đổi cơ cấu nguồn khách du lịch: Thành phần du khách thay đổi; người già đi du lịch nhiều; người độc thân đi du lịch tăng; khách du lịch công vụ là nữ ngày càng tăng; 6) Xu hướng thay đổi nhu cầu của khách du lịch: Chọn loại hình du lịch, cơ sở lưu trú và dịch vụ thân thiện môi trường; chương trình du lịch kết hợp giữa các loại hình du lịch; đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng phục vụ, mức độ tinh tế, trình độ phục vụ; đòi hỏi thông tin nhiều, nhanh và đúng; đi du lịch nhiều lần trong năm, thời gian nghỉ ngắn, tới các điểm du lịch không quá xa; mong đáp ứng nhu cầu cá nhân ở mức cao và tìm các điểm đến an toàn và thiên nhiên nguyên sơ. (11) Mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2020 là tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khoảng trên 8,0%/năm; đến năm 2010 đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển (GDP bình quân đầu người khoảng hơn 1.100 USD); cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh, tiến bộ với tỷ trọng khu vực phi nông nghiệp chiếm trên 90% tổng GDP; đến năm 2020, phấn đấu Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá với GDP bình quân đầu người hơn 2.900 USD (Tính theo giá sức mua tương đương thì vào khoảng 15.000-16.000 USD). (12) Số nhân lực chung chưa qua đào tạo, dạy nghề hiện còn rất lớn (khoảng 31,8 triệu người) cùng với số thanh niên bước vào tuổi lao động hàng năm trung bình vào khoảng 1,5 - 1,6 triệu người sẽ tiếp tục tạo nên những sức ép rất lớn về đào tạo nghề nghiệp và tạo việc làm cho người lao động. (13) Phấn đấu năm 2015 toàn Ngành có 3.900 người có trình độ trên đại học; 99.550 người có trình độ đại học và cao đẳng; 98.000 người có trình độ trung cấp; 150.450 người đạt trình độ sơ cấp; và 348.100 người được đào tạo truyền nghề. Phấn đấu đào tạo lại cho 100% công chức hành chính về năng nghiệp vụ theo tiêu chuẩn và yêu cầu công vụ; bồi dưỡng, đào tạo bảo đảm có đủ số lượng giám đốc doanh nghiệp và chuyên gia quản trị doanh nghiệp du lịch có kiến thức và kỹ năng quản lý, kinh doanh đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước; tăng số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, giáo viên và đào tạo viên du lịch các cấp. Đến năm 2020 phổ cập độ ngoại ngữ và tin học tương đương bằng B Châu Âu cho toàn bộ cán bộ quản lý, quản trị cấp phòng và tương đương trở lên, những người tiếp xúc trực tiếp với người nước ngoài, đảm bảo sử dụng ngoại ngữ và tin học phục vụ được yêu cầu công việc. Cơ cấu lại phân bố vùng miền của nhân lực du lịch, số lượng nhân lực ở các vùng sâu, vùng xa và nhân lực là người dân tộc ít người. TÓM TẮT Tham luận này chỉ đề cập đến đào tạo, dạy nghề du lịch, một trong 4 nội dung của phát triển nguồn nhân lực du lịch(1), theo phương châm “Tư duy toàn cầu và hành động địa phương”. Đào tạo, dạy nghề du lịch Việt Nam phải tư duy toàn cầu mới thấy được các yếu tố quốc tế
  9. tác động và xác định đúng, rõ mục tiêu, phương thức, công nghệ, quy mô, chất lượng và cơ cấu đào tạo, dạy nghề du lịch; phải hành động địa phương để vượt qua thách thức, nắm được cơ hội, khắc phục điểm yếu và phát huy thế mạnh; khai thác hiệu quả nguồn lực cho đào tạo, dạy nghề du lịch; tạo khác biệt, đủ sức hoàn thành sứ mệnh và đạt mục tiêu đặt ra.
nguon tai.lieu . vn