TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
ĐÁNH GIÁ LIÊN QUAN GIỮA THÂN NHIỆT CỦA BỆNH NHÂN
CHẤN THƯƠNG NẶNG VỚI MỘT SỐ CHỈ SỐ HÓA SINH MÁU
Bùi Thị Hạnh1, Nguyễn Hữu Tú2
1
Bệnh viện Việt Đức, 2Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu nhằm đánh giá mối liên quan giữa thân nhiệt của bệnh nhân chấn thương nặng khi vào
phòng mổ và một số chỉ số sinh hóa máu (pH, lactate, BE). 52 bệnh nhân chấn thương nặng, có chỉ định
phẫu thuật được đưa vào nghiên cứu. Nhiệt độ cơ thể (đo tại thực quản), pH, lactate, BE máu động mạch
được đánh giá đồng thời ngay khi vào phòng mổ. Hạ thân nhiệt được định nghĩa khi nhiệt độ thực quản <
36oC. Kết quả cho thấy 73,1% bệnh nhân chấn thương nặng có hạ thân nhiệt khi vào phòng mổ; 13,5% có
hạ thân nhiệt trung bình (32,1 - 34 oC). Thân nhiệt của bệnh nhân có mối tương quan tương đối chặt với
pH, BE và lactate máu: r = 0,64, 0,66 và - 0,65 (p < 0,01). Thân nhiệt của bệnh nhân chấn thương nặng
khi vào phòng mổ tương quan đồng biến với chỉ số pH, BE, và tương quan nghịch biến với lactate máu
động mạch.
Từ khóa: chấn thương, hạ thân nhiệt, toan chuyển hoá
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
2/3 bệnh nhân đa chấn thương có hạ thân
vong và biến chứng [1; 2]. Tại Việt Nam, chưa
nhiệt khi nhập viện. Ở những bệnh nhân chấn
có nghiên cứu nào đánh giá mối liên quan
thương nặng thường có mất máu, tụt huyết
giữa hạ thân nhiệt với các chỉ số hoá sinh
áp, thiếu oxy tổ chức, hậu quả là chuyển hóa
máu quan trọng như pH, lactate và BE. Để
yếm khí trong tế bào gây ra tình trạng toan
góp phần cho tiên lượng và định hướng điều
chuyển hóa. Các rối loạn này có thể xuất hiện
trị bệnh nhân chấn thương tốt hơn, nghiên
sớm khi chưa có biểu hiện sốc trên lâm sàng
cứu này được tiến hành nhằm: Đánh giá mối
do các cơ chế bù trừ của cơ thể và mất đi
liên quan giữa thân nhiệt khi vào phòng mổ
muộn; khi các dấu hiệu lâm sàng đã về bình
với một số chỉ số hoá sinh máu ở bệnh nhân
thường vẫn có 85% bệnh nhân còn dấu hiệu
chấn thương nặng.
giảm tưới máu tổ chức. Hai chỉ số hóa sinh
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
phản ánh mức độ toan chuyển hóa là lactate
và kiềm dư (BE) đã được chứng minh là có
giá trị trong đánh giá độ nặng, tiên lượng và
đáp ứng điều trị trên bệnh nhân chấn thương.
Hạ thân nhiệt cùng với toan chuyển hoá và rối
loạn đông máu được coi là “tam chứng chết”
ở bệnh nhân chấn thương, làm tăng tỷ lệ tử
1. Đối tượng
Nghiên cứu được tiến hành tại phòng mổ
cấp cứu bệnh viện Việt Đức từ tháng 2 9/2012. Đối tượng nghiên cứu: bệnh nhân
chấn thương có điểm tổn thương giải phẫu
ISS ≥ 16, tuổi ≥ 16, có chỉ định phẫu thuật.
Loại trừ khỏi nghiên cứu những bệnh nhân có
Địa chỉ liên hệ: Bùi Thị Hạnh, khoa Gây mê Hồi sức, bệnh
viện Việt Đức
Email: trachoma76@yahoo.com
Ngày nhận: 13/1/2013
chấn thương sọ não, bệnh nhân đã được đặt
Ngày được chấp thuận: 20/6/2013
phẫu thuật tại cơ sở y tế khác.
TCNCYH 83 (3) - 2013
ống nội khí quản và dùng an thần, truyền bicarbornat trước đó, hoặc đã được điều trị
75
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
hại hoặc có nguy cơ có hại cho bệnh nhân.
2. Phương pháp
Nghiên cứu tiến cứu mô tả, có phân tích.
Tất cả các bệnh nhân nghiên cứu khi vào
Xét nghiệm một số chỉ số sinh hóa máu là chỉ
định bắt buộc trong quá trình gây mê hồi sức
phòng mổ được thăm khám lâm sàng và đánh
bệnh nhân nặng. Nghiên cứu đã được thông
qua hội đồng khoa học Đại học Y Hà Nội và
giá theo mẫu phiếu nghiên cứu bao gồm: đặc
điểm dịch tễ, một số chỉ số hóa sinh máu (pH,
hội đồng y đức bệnh viện Việt Đức.
lactat, BE), diễn biến của gây mê hồi sức,
phẫu thuật và điều trị sửa chữa các rối loạn
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
chỉ số hóa sinh máu.
Đo nhiệt độ thực quản (1/3 trên thực quản)
ngay khi tiếp nhận bệnh nhân bằng dây đo
Tuổi trung bình trong nghiên cứu: 34,2 ±
14,8 tuổi (16 - 75), trong đó nam chiếm 80,8%
nhiệt độ liên tục: đo khoảng cách từ mũi tới
ngang sụn nhẫn và đánh dấu khoảng cách
và nữ 19,2%. Đa số bệnh nhân có tổn thương
sau đó đặt dây đo nhiệt độ qua đường mũi
cho tới vị trí đánh dấu. Nhiệt độ hiển thị liên
Thân nhiệt của bệnh nhân khi vào phòng
tục trên máy và được theo dõi trong suốt
cuộc mổ.
trên hai vùng cơ thể chiếm 61,5%.
mổ: Nhiệt độ trung bình là 35,5 ± 1,7oC (32,8 38,3), trong đó 73,1% bệnh nhân có hạ thân
nhiệt từ nhẹ đến trung bình. Tỷ lệ tử vong
3. Xử lý số liệu
tăng theo mức độ hạ thân nhiệt; 71,4% ở
Số liệu nghiên cứu được xử lý bằng phần
nhóm hạ thân nhiệt trung bình so với 25,8% ở
mềm SPSS 16.0. Sử dụng các test: t - stu-
nhóm hạ thân nhiệt nhẹ và 7,1% nhóm không
dent, test χ2 so sánh các giá trị trung bình
hạ thân nhiệt (p < 0,01).
hoặc các tỷ lệ. Xác định liên quan của thân
nhiệt với một số chỉ số sinh hóa máu bằng hệ
số tương quan r, p < 0,05 được coi là khác
biệt có ý nghĩa thống kê.
2. Mối tương quan của một số chỉ số
sinh hóa với thân nhiệt
2.1. Tương quan giữa thân nhiệt của
bệnh nhân và pH máu
4. Đạo đức trong nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm mục đích giúp phát hiện,
dự phòng và điều trị các rối loạn do hạ thân
nhiệt gây ra, không sử dụng các can thiệp có
pH máu trung bình của bệnh nhân là 7,33
± 0,12, trong đó 50% bệnh nhân có toan máu
khi vào phòng mổ.
Bảng 1. Đặc điểm thân nhiệt và tỷ lệ tử vong theo pH máu
Nhiệt độ
(oc)
Bệnh nhân hạ
thân nhiệt (%)
36,02 ± 1,05
57,7
11,5
Nhẹ - vừa (pH 7,21 - 7,35)
35,28 ± 0,98
*
82,4
35,3*
Nặng (pH ≤ 7,20)
34,60 ± 0,87**
100**
55,6**
Mức toan máu
Thông số
Không toan (pH > 7,35)
76
Tử vong
(%)
TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Tỷ lệ tử vong và tỷ lệ hạ thân nhiệt tăng lên theo mức độ giảm pH máu; *p < 0,01 so với nhóm
không toan máu, **p < 0,01 so với cả 2 nhóm còn lại.
Biểu đồ 1. Tương quan giữa thân nhiệt và pH máu
Thân nhiệt vào phòng mổ có tương quan tuyến tính đồng biến tương đối chặt với pH máu
r = 0,64, p < 0,01.
2.2. Tương quan giữa thân nhiệt của bệnh nhân và lactate máu
Nồng độ lactate máu trung bình là 7,5 ± 5,2 mmol/l (0,7 - 20,1). Tỷ lệ bệnh nhân có lactate
máu > 4 mmol/l chiếm 59,6%; chỉ có 13,5% bệnh nhân có lactate máu bình thường.
Bảng 2. Đặc điểm thân nhiệt và tỷ lệ tử vong theo lactate máu
Lactate (mmol/l)
Thông số
Nhiệt độ (oc)
Bệnh nhân
hạ thân nhiệt (%)
Tử vong
(%)
0 - 2 (bình thường)
36,4 ± 0,6
42,9
14,3
2.1 - 4 (toan nhẹ)
36,2 ± 0,8
64,3*
0
> 4 (toan nặng)
35,0 ± 1,1**
83,9**
41,9**
Nhiệt độ trung bình ở nhóm lactate máu > 4 mmol/l thấp hơn có ý nghĩa so với 2 nhóm còn lại.
Tỷ lệ bệnh nhân có hạ thân nhiệt khi vào phòng mổ tăng lên theo mức độ tăng lactate máu. Ở
nhóm lactate máu > 4 mmol/l, tỷ lệ tử vong là 41,9%, *p < 0,01 so với nhóm lactate máu bình
thường, **p < 0,01 so với 2 nhóm còn lại.
Thân nhiệt có mối tương quan tuyến tính nghịch biến chặt với nồng độ lactate máu (r = - 0,65,
p < 0,01) (biểu đồ 2).
2.3. Tương quan giữa thân nhiệt của bệnh nhân và BE máu
BE máu trung bình là - 5,4 ± 7,4; 40,4% bệnh nhân có BE máu < - 6.
Ở nhóm có BE máu < - 6: nhiệt độ trung bình giảm, tỷ lệ bệnh nhân có hạ thân nhiệt và tỷ lệ tử
vong tăng lên một cách đáng kể, *p < 0,01 so với 2 nhóm còn lại (bảng 3).
TCNCYH 83 (3) - 2013
77
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Biểu đồ 2. Tương quan giữa thân nhiệt và lactat máu
Bảng 3. Đặc điểm thân nhiệt và tỷ lệ tử vong theo BE máu
Thông số
BE máu
Nhiệt độ
(oc)
Bệnh nhân
hạ thân nhiệt (%)
Tử vong (%)
≥ -2
36,2 ± 0,8
52,4
9,5
-2.1 → -6
35,6 ± 0,9
80
10
< -6
34,8 ± 1,1*
90,5*
52,4*
Biểu đồ 3. Mối tương quan giữa thân nhiệt và BE máu
Thân nhiệt của bệnh nhân khi vào phòng mổ có mối tương quan đồng biến chặt với BE máu
r = 0,66, p < 0,01.
IV. BÀN LUẬN
Nhiệt độ trung bình của bệnh nhân khi vào
theo mức độ hạ thân nhiệt; 71,4% ở nhóm hạ
phòng mổ trong nghiên cứu này là 35,5 ± 1,7
thân nhiệt trung bình so với 25,8% ở nhóm hạ
thân nhiệt nhẹ và 7,1% nhóm không hạ thân
(32,8 – 38,3oC). 73,1% bệnh nhân có hạ thân
nhiệt khi vào phòng mổ. Tỷ lệ tử vong tăng
nhiệt. Kết quả nghiên cứu của Jurkovich và
cộng sự cũng cho thấy tỷ lệ tử vong tăng theo
78
TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
mức độ hạ thân nhiệt là 40% với bệnh nhân
o
Các nghiên cứu cũng đưa ra kết luận lactate
có thân nhiệt < 34 C và 69% với thân nhiệt
< 33oC, 100% với thân nhiệt < 32oC [1]. Các
máu có liên quan trực tiếp với tỷ lệ tử vong, là
một chỉ số tốt tiên lượng tử vong và đánh giá
nghiên cứu cũng đưa ra kết luận hạ thân nhiệt
ở bệnh nhân chấn thương làm tăng tỷ lệ tử
đáp ứng điều trị ở bệnh nhân chấn thương
nặng [6].
vong, tăng thời gian điều trị ICU và thời gian
nằm viện [2; 4].
Kết quả cho thấy nhiệt độ trung bình của
nhóm bệnh nhân có lactat máu > 4mmol/l
pH máu trung bình trong nghiên cứu của
thấp hơn có ý nghĩa so với 2 nhóm còn lại
chúng tôi là: 7,33 ± 0,12, trong đó 50% bệnh
nhân có toan máu khi vào phòng mổ. Tỷ lệ tử
(p < 0,01). Do chấn thương càng nặng, mất
máu càng nhiều, thiếu oxy nặng dẫn đến
vong tăng lên theo mức độ toan máu, 55,6% ở
nhóm toan máu nặng so với 35,3% ở nhóm
tăng chuyển hóa yếm khí, hậu quả làm tăng
lactate máu. Hơn nữa, bệnh nhân chấn
toan máu vừa và nhẹ. Nghiên cứu của các tác
giả Cerovic, Abramson, Husain cho thấy tỷ lệ
thương càng nặng thì hạ thân nhiệt xảy ra
sớm và nhiều. Tình trạng toan chuyển hóa sẽ
tử vong ở bệnh nhân chấn thương tăng khi có
càng làm nặng thêm tình trạng hạ thân nhiệt
toan chuyển hóa và hạ thân nhiệt. Các nghiên
cứu cũng đưa ra kết luận pH là yếu tố để theo
và ngược lại. Khi xem xét mối tương quan
giữa thân nhiệt và lactate máu chúng tôi
dõi điều trị và tiên lượng tử vong ở bệnh nhân
chấn thương [5; 7].
nhận thấy thân nhiệt khi vào phòng mổ có
mối tương quan tuyến tính chặt với nồng độ
Tỷ lệ bệnh nhân có hạ thân nhiệt cũng tăng
theo mức độ toan máu, 100% bệnh nhân toan
lactate máu (r = - 0,65, p < 0,01).
Để đánh giá độ nặng của toan chuyển hóa
nặng có hạ thân nhiệt khi vào phòng mổ (32,8
ngoài pH và lactate máu chỉ số kiềm dư (BE)
o
- 35,5 C). Kết quả nghiên cứu này cho thấy
pH máu có mối tương quan tuyến tính với
cũng thường được sử dụng trong lâm sàng.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, BE dao động
nhiệt độ cơ thể khi vào phòng mổ (r = 0,64,
p < 0,01).
từ - 20,6 đến 6,9. Trong đó có 40,9% bệnh
nhân có BE < - 6, đây là mốc tiên lượng nguy
Lactate máu là sản phẩm chuyển hóa yếm
khí của tế bào, tăng cao trong trường hợp
hiểm ở bệnh nhân chấn thương [3]. Các
nghiên cứu của các tác giả nước ngoài cũng
giảm tưới máu, thiếu oxy. Vì vậy, được dùng
cho thấy những bệnh nhân chấn thương có
để đánh giá mức độ toan chuyển hóa [5].
Trong nghiên cứu này lactate máu trung
BE < - 6 tỷ lệ tử vong, thời gian nằm viện và
các biến chứng cao hơn một cách có ý nghĩa
bình là 7,5 ± 5,2 mmol/l, trong đó bệnh nhân có
lactat máu > 4 chiếm tỷ lệ cao (59,6%) và tử
so với nhóm bệnh nhân có BE > - 6 [8; 9]. Vũ
Thị Thu Giang nghiên cứu về chỉ số kiềm dư
vong ở nhóm này là 41,9%. Abramson và cộng
sự nghiên cứu trên những bệnh nhân chấn
trong tiên lượng bệnh nhân chấn thương đã
đưa ra kết luận BE là yếu tố có giá trị trong
thương nặng thấy thời gian lactate máu về bình
tiên lượng bệnh nhân chấn thương: bệnh
thường là một yếu tố tiên lượng quan trọng.
Những bệnh nhân có lactate về bình thường
nhân được coi là tiên lượng tốt khi BE trước
mổ > - 6, và được coi là nặng, có nguy cơ tử
trong 24 giờ đều sống sót trong khi ở nhóm
lactate máu được kiểm soát sau 24 - 48 giờ và
vong khi BE trước mổ ≤ - 6 [3].
Tỷ lệ tử vong tăng theo độ giảm của BE máu,
sau 48 giờ tỷ lệ tử vong là 25% và 86% [5].
52,4% tử vong ở nhóm bệnh nhân có BE < - 6
TCNCYH 83 (3) - 2013
79
nguon tai.lieu . vn