Xem mẫu

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ ĐÁP ỨNG MIỄN DỊCH SAU TIÊM PHÒNG VẮCXIN  
VIÊM GAN B Ở TRẺ CÓ MẸ MANG HBSAG 
Phí Đức Long*, Nguyễn Thị Vinh Hà**, Nguyễn Văn Bàng*** 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá khả năng đáp ứng miễn dịch sau tiêm phòng vắcxin viêm gan B theo lịch 0 – 1 – 2 ‐ 11 
tháng ở trẻ có mẹ mang kháng nguyên HBsAg và bước đầu tìm hiểu mối liên quan mức độ đáp ứng miễn dịch 
của trẻ với một số dấu ấn virút viêm gan B. 
Đối tượng, phương pháp: Nghiên cứu tiến hành trên 246 bà mẹ mang kháng nguyên HbsAg (+) sinh con 
tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện E, nhà hộ sinh quận Hai Bà Trưng Hà Nội và tại 
bệnh viện Phụ sản Thái Bình từ 12‐2006 đến 12‐2009. Máu mẹ và máu cuống rốn con được xét nghiệm các dấu 
ấn  của  virút  viêm  gan  B.  Trẻ  được  phân  ngẫu  nhiên  vào  hai  nhóm:  107  trẻ  sơ  sinh  được  tiêm  mũi  vắcxin 
Engerix B mũi đầu tiên trước 12 giờ, 139 trẻ sơ sinh được tiêm mũi vắcxin đầu tiên cho trẻ sau 12 giờ nhưng 
trước 24giờ. Các mũi vắcxin còn lại được tiêm lúc 1‐2‐11 tháng với liều 10μg/0,5ml. Đánh giá hiệu quả tiêm 
phòng bằng cách xác định hiệu giá kháng thể (anti HBs) và các maker viêm gan B khi trẻ 12 tháng tuổi. 
Kết  quả  nghiên  cứu: 6,9% trẻ vẫn có HBsAg(+) lúc 12 tháng tuổi, 5,7% trẻ đáp có ứng miễn dịch dưới 
ngưỡng bảo vệ (10 IU/L) was 
detected  in  215/246  (87.4%).  There  was  no  significant  difference  of  HBsAg  positivity  between  children  who 
received the first dose of vaccine within 12 hours and those who received it between 12 and 24 hours. Risk for 
hepatitis B infection at 12 month of age among infants whose mother was HBeAg positive is 12 times higher than 
those whose mother was HBeAg negative. Risk for hepatitis B infection at 12 month of age among infants with 
HBsAg positivity in cord blood sample is 14,5 times higher than those whose cord blood HBsAg was negative. 
Risk for hepatitis B infection at 12 month of age among infants with HBeAg positivity in cord blood is 7.9 times 
higher than those with HBeAg negativity in cord blood. 
Conclusion: The rate of HBsAg positivity in vaccinated children at 12 months was 6.9% with 87,4% of 
infants having protective levels of anti‐HBs antibodies. Factors associated with hepatitis B infection in infants at 
12 months were mother with HBeAg positivity, HBsAg and HBeAg positivity in cord blood. 
Keywords: hepatitis B virus, transmission, HBV vaccine, immunological response to vaccination 
Đến năm 1996 đã có hơn 100 nước đã đưa chủng 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
ngừa viêm gan B vào chương trình tiêm  chủng 
Viêm  gan  B  do  virút  (Hepatitis  B  virus  – 
mở rộng của quốc gia. Ở Việt Nam chủng ngừa 
HBV) là một bệnh có tính lây truyền cao và đang 
viêm  gan  B  được  đưa  vào  chương  trình  tiêm 
là  bệnh  phổ  biến  trên  toàn  cầu.  Hiện  nay  trên 
chủng mở rộng từ năm 1997. Tiêm phòng vắcxin 
toàn  thế  giới  có  khoảng  hơn  350  triệu  người 
viêm  gan  B,  sử  dụng  huyết  thanh  kháng  viêm 
mang HBV mạn tính. Đa số các trường hợp này 
gan B (HBIg) hoặc phối hợp tiêm phòng vắcxin 
là  do  lây  truyền  từ  các  bà  mẹ  mang  HBV  mạn 
và  HBIg  là  các  biện  pháp  hiệu  quả  trong  việc 
tính sang con, có thể trong tử cung hoặc do tiếp 
phòng tránh lây truyền viêm gan B từ mẹ sang 
xúc với dịch, máu lúc sinh. Mỗi năm có khoảng 
con.  Ở  Việt  Nam  đã  có  một  số  nghiên  cứu  về 
2  triệu  người  tử  vong  do  hậu  quả  của  nhiễm 
đáp ứng miễn dịch sau tiêm phòng vắcxin viêm 
HBV. Châu Á và Tây Thái Bình Dương là vùng 
gan  B  ở  trẻ  em(4,2,8,6).  Tuy  vậy  chưa  có  nhiều 
lưu hành cao của bệnh, chiếm khoảng 70‐75% số 
nghiên cứu tập trung vào đối tượng con của các 
nhiễm siêu vi B mạn tính trên toàn thế giới. Việt 
bà mẹ mang kháng nguyên HBsAg. Thực tế đòi 
Nam nằm trong vùng dịch tễ của bệnh, tỷ lệ mắc 
hỏi  có  những  chứng  cớ  khoa  học  để  nâng  cao 
từ  15‐20%  dân  số,  ước  tính  khoảng  6‐10  triệu 
hiệu  quả  phòng  bệnh  viêm  gan  B  ở  nước  ta. 
người nhiễm HBV. Tiêm phòng phổ cập cho trẻ 
Chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu “Đánh giá 
em  là  chiến  lược  kiểm  soát  căn  bản  tình  trạng 
đáp ứng miễn dịch sau tiêm phòng vắcxin viêm gan B 
nhiễm HBV trên toàn thế giới. Năm 1991 các tổ 
ở  trẻ  có  mẹ  mang  kháng  nguyên  HBsAg”  với  các 
chức  cố  vấn  toàn  cầu  về  chương  trình  tiêm 
mục tiêu: (1) Đánh giá khả năng đáp ứng miễn dịch 
chủng  mở  rộng  của  Tổ  chức  Y  tế  Thế  giới 
sau tiêm phòng vắcxin viêm gan B theo lịch 0 – 1 – 2 
(WHO) đã kêu gọi các nước có tỷ lệ nhiễm HBV 
– 11 tháng ở trẻ có mẹ mang kháng nguyên HBsAg 
trên  8%  nên  đưa  vắc  xin  ngừa  viêm  gan  B  vào 
và (2) Bước đầu tìm hiểu mối liên quan mức độ đáp 
chương  trình  tiêm  chủng  cho  tất  cả  trẻ  sơ  sinh. 

572

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 
ứng miễn dịch của trẻ với một số dấu ấn virút viêm 
gan B ở mẹ. 

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu  
Gồm  246  sản  phụ  có  HBsAg(+)  trước  sinh, 
thường trú tại thành phố Hà Nội và thành phố 
Thái Bình đến sinh con tại bệnh viện Phụ sản Hà 
Nội,  bệnh  viện  Bạch  Mai,  Bệnh  viện  E,  Nhà  hộ 
sinh  quận  Hai  Bà  Trưng  Hà  Nội  và  bệnh  viện 
Phụ sản Thái Bình từ 12‐2006 đến 12‐2009 và con 
của các sản phụ này. Sản phụ có bệnh gan mật, 
không xét nghiệm  HBsAg  trước  sinh  và  những 
trẻ  sơ  sinh 
Tổng
tháng
IU/L
≤ 100 IU/ L 100 IU/L
n
17

%
6,9

n
14

%
5,7

n
%
n
122 49,6 93

%
n
%
37,8 246 100

Sau  tiêm  phòng  6,9%  trẻ  vẫn  có  HbsAg  (+), 
5,7% trẻ không có đáp ứng miễn dịch bảo vệ dù 
HbsAg  (‐).  Tỷ  lệ  trẻ  tiêm  chủng  thất  bại  trong 
nghiên cứu này [bao gồm số trẻ có HBsAg(+) và 
trẻ  có  HBsAg(‐)  nhưng  nồng  độ  kháng  thể 
nguon tai.lieu . vn