Xem mẫu

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015

Nghiên cứu Y học

ĐẶC ĐIỂM TIỂU DẦM ĐƠN THUẦN NGUYÊN PHÁT Ở TRẺ EM
TỪ 6 ĐẾN 10 TUỔI TẠI QUẬN 5 - TP. HỒ CHÍ MINH
Dương Lệ Nguyệt*, Hoàng Thị Diễm Thúy**, Huỳnh Thoại Loan***, Trần Thị Mộng Hiệp****

TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm xác định tỉ lệ tiểu dầm đơn thuần nguyên phát và các yếu tố liên quan đến tiểu
dầm ở trẻ em từ 6 đến 10 tuổi tại Quận 5 - Tp. Hồ Chí Minh.
Phương pháp và đối tượng: Phương pháp nghiên cứu cắt ngang mô tả và phân tích, chọn mẫu ngẫu nhiên
theo cụm ở trẻ đang học tại các trường tiểu học ở Quận 5– Thành phố Hồ Chí Minh. Theo tổ chức Quốc tế về
Tiểu không tự chủ ở Trẻ em, tiểu dầm đơn thuần nguyên phát là tình trạng thoát nước tiểu không tự chủ khi trẻ
ngủ vào ban đêm, liên tục từ nhỏ không có khoảng thời gian ngưng, không có bất kỳ triệu chứng nào khác của
đường tiết niệu dưới và không có tiền sử rối loạn chức năng bàng quang. Tất cả các yếu tố liên quan được kiểm
định bằng phương pháp chi bình phương, đánh giá sự khác biệt bằng OR với khoảng tin cậy 95%.
Kết quả: Nghiên cứu của chúng tôi gồm 167 trẻ tiểu dầm, từ 6 đến 10 tuổi, chiếm tỉ lệ 5,7%, nam/nữ = 1,3,
giảm rõ ở trẻ ≥ 8 tuổi. Trẻ có anh chị em bị tiểu dầm mắc chứng tiểu dầm nhiều hơn so với những trẻ bình
thường. Tỉ lệ trẻ thừa cân, béo phì tăng cao ở nhóm có tiểu dầm (42,0%). Tỉ lệ trẻ tiểu dầm có tiền căn viêm
amiđan, viêm họng, nhiễm trùng tiểu và suyễn lần lượt là 19,2; 23,9; 4,2 và 4,8%. Tỉ lệ trẻ tiểu dầm có ngáy, táo
bón và thói quen uống nước trước ngủ lần lượt là 28,1; 19,8; và 67,1%. Hơn 50% phụ huynh cho rằng “tiểu dầm
là một vấn đề quan trọng cần phải điều trị”. Tiểu dầm ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của trẻ và tỉ lệ trẻ cảm thấy
xấu hổ vì bị tiểu dầm chiếm tỉ lệ cao (59,3%).
Kết luận: Tỉ lệ tiểu dầm ở trẻ 6-10 tuổi là 5,7%, nam nhiều hơn nữ, giảm dần theo tuổi, có yếu tố gia đình.
Tiểu dầm ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của trẻ và phần lớn phụ huynh quan tâm đến vấn đề này.
Từ khóa: béo phì, tâm lý, thói quen, tiểu dầm

ABSTRACT
CHARACTERISTICS OF PRIMARY NOCTURNAL ENURESIS AMONG CHILDREN
AGED 6 TO 10 AT DISTRICT 5 – HO CHI MINH CITY
Duong Le Nguyet, Hoang Thi Diem Thuy, Huynh Thoai Loan, Tran Thi Mong Hiep
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 4 - 2015: 435 - 440
Objectives: The research to identify the rate of primary nocturnal enuresis and its related factors in children
aged 6 to 10 at district 5 Ho Chi Minh City
Sample and designs: descriptive and analysis cross-sectional, random cluster sampling among elementary
pupils in district 5 – Ho Chi Minh City. The International Children’s Continence Society (ICCS): primary
nocturnal enuresis is discrete episodes of urinary incontinence during sleep in children ≥5 years of age, who have
never achieved a satisfactory period of nighttime dryness, without any other lower urinary tract symptoms and
without a history of bladder dysfunction. All confounds were tested by chi-square test, evaluate differences by OR
with 95% CI.

* Trung tâm Y tế Quận 5
** Khoa Thận-Nội Tiết Bệnh Viện Nhi Đồng 2
*** Khoa Thận-Nội Tiết Bệnh Viện Nhi Đồng 1 **** Bộ Môn Nhi Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: Bs. Dương Lệ Nguyệt
ĐT: 0903355016
Email: lenguyet114@yahoo.com

435

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015

Results: the research included 167 bedwetting children, aged 6 to 10, and occupied the proportion of 5.7%,
boys/girls = 1.3, strongly declined among those older than 8 years old. Children who had enuresis siblings had a
higher rate of bedwetting. Rate of obesity and overweight was augmented (42.0%). Rate of enuresis children
whom had clinical history with tonsillitis, sore throat, UTI and asthma are 19.2; 23.9; 4.2 and 4.8%, respectively.
This rate among children with snore, constipation and those who drank before bedtime are 28.1; 19.8 and 67.1%,
respectively. More than 50% of parents indicated that enuresis was a severe problem that had to be treated.
Bedwetting strongly affected children psychology and the rate of children who felt ashamed for having child
bedwetting was high (59.3%)
Conclusion: Rate of primary nocturnal enuresis in children aged 6 to 10 is 5.7%, boys were more than girls,
decreased with age, related to genetic factors. Enuresis had a strong effect on children psychology, also on parents
who cared about the issue.
Keywords: obesity, psychology, habit, nocturnal enuresis

MỞ ĐẦU:

PHƯƠNGPHÁP-ĐỐI TƯỢNGNGHIÊNCỨU

Tiểu dầm đơn thuần nguyên phát là vấn đề
thường gặp ở trẻ em, tuy không trực tiếp gây tử
vong nhưng ảnh hưởng lớn đến tình trạng tâm
sinh lý của trẻ và gia đình. Theo kết quả nghiên
cứu trước đây của các tác giả nước ngoài cho
thấy tần suất của bệnh tiểu dầm thay đổi từ 714% theo các báo cáo ở Nhật, Hàn Quốc, Thổ
Nhĩ Kỳ và Anh(3,4,14,19) và Đài Loan(4) (2001) là 8%.
Tại Việt Nam theo tác giả Chu Văn Điểu (5) điều
tra tại xã Hà Hồi, huyện Thường Tín - Hà Tây
năm 2000 thì tần suất trẻ bị tiểu dầm ở lứa tuổi 5
- 14 là 5,01%. Cùng với tỉ lệ tiểu dầm này là các
hậu quả về tâm lý đối với trẻ cũng không nhỏ,
theo Sanborn, Kimberly M (7) cho thấy gần ½ số
trẻ (44,1%) cảm thấy nhút nhát, xấu hổ và do dự
để qua đêm xa nhà, trẻ xấu hổ vì bị tiểu dầm
chiếm đến 80%(2) hay khoảng 2/3 số trẻ tiểu dầm
(16). Tại Việt Nam sự quan tâm đối với vấn đề này
vẫn còn hạn chế, phụ huynh đưa trẻ đến khám
khi đã ở mức độ tiểu dầm nặng (trên 3 đêm/
tuần) chiếm tỉ lệ 83,7%(8), điều này cho thấy mặc
dù phụ huynh có quan tâm nhưng chưa thấy
được mức độ ảnh hưởng về tâm lý đối với trẻ.
Hiện nay, tại Việt Nam nói chung và Thành phố
Hồ Chí Minh nói riêng chưa có một nghiên cứu
tổng quan nào về tỉ lệ tiểu dầm và những yếu tố
liên quan đến tiểu dầm ở trẻ em, do đó đây là
lĩnh vực cần được nghiên cứu. Chính vì những
lý do đó nên chúng tôi quyết định thực hiện
nghiên cứu này.

Chúng tôi thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô
tả và phân tích, chọn mẫu ngẫu nhiên theo cụm,
trẻ đang học tại các trường tiểu học ở Quận 5–
Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 9/2013 đến
tháng 5/2014 (4 trường). Các số liệu thu thập dựa
trên bảng câu hỏi khảo sát cha, mẹ hoặc người
thân của trẻ bao gồm: tuổi, giới tính, cân nặng,
chiều cao, học lực, tiền căn gia đình có anh chị
em bị tiểu dầm, tiền căn các bệnh lý: viêm
amiđan, viêm họng, nhiễm trùng tiểu và suyễn;
thói quen của trẻ: ngáy, táo bón và thói quen
uống nước trước ngủ, sự quan tâm của gia đình
và sự hòa nhập xã hội của trẻ.

436

Theo tổ chức Quốc tế về Tiểu không tự chủ
ở Trẻ em (International Children’s Continence
Society), tiểu dầm đơn thuần nguyên phát là
tình trạng thoát nước tiểu không tự chủ khi trẻ
ngủ vào ban đêm, liên tục từ nhỏ không có
khoảng thời gian ngưng, không có bất kỳ triệu
chứng nào khác của đường tiết niệu dưới và
không có tiền sử rối loạn chức năng bàng
quang.
Các giá trị về cân nặng và chiều cao dựa trên
số liệu khám sức khỏe đầu năm (11/2013). Học
lực chia làm 4 nhóm giỏi, khá, trung bình và
kém, dựa vào kết quả xếp loại học lực của năm
học 2012-2013, riêng học sinh lớp 1 dựa vào xếp
loại học lực học kỳ 1 của năm học 2013-2014. Các
bệnh lý được dựa trên tiền sử có khám và điều
trị trước đó. Tình trạng dinh dưỡng dựa vào chỉ

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
số khối cơ thể - Body Mass Index (BMI), được
xếp loại theo phần trăm, gồm 3 giá trị: suy dinh
dưỡng, bình thường và thừa cân béo phì. Sự
quan tâm của phụ huynh đối với tình trạng tiểu
dầm gồm 3 giá trị: không quan trọng vì là
chuyện không ai biết, lớn sẽ tự hết và quan trọng
cần phải điều trị. Sự hòa nhập cộng đồng của trẻ
gồm 4 giá trị khảo sát các biến số: trẻ từ chối ngủ
chung với bạn, từ chối tham dự lớp học dã ngoại
trại hè, từ chối đi chơi với gia đình và trẻ xấu hổ
vì bị tiểu dầm.
Tất cả các biến số được thống kê bằng phần
mềm Stata 10.0, trình bày dưới dạng bảng, thống
kê mô tả bằng tần số và tỉ lệ %, yếu tố liên quan
được kiểm định bằng phương pháp chi bình
phương, đánh giá sự khác biệt bằng OR với
khoảng tin cậy 95%.

KẾT QUẢ NGHIÊNCỨU
Tỉ lệ tiểu dầm
Trong nghiên cứu chúng tôi gồm 2922 trẻ,
tiểu dầm là 167 trẻ, chiếm tỉ lệ 5,7%, nam nhiều
hơn nữ, tỉ lệ nam: nữ là 1,3:1, tiểu dầm giảm dần
theo tuổi, rõ nhất khi trẻ 8 tuổi (7 tuổi: 7,4% → 8
tuổi: 4,2%).

Các yếu tố liên quan đến tiểu dầm
Tỉ lệ trẻ tiểu dầm có anh chị em bị tiểu dầm
chiếm tỉ lệ 22,8%, thừa cân, béo phì là 42%, học
lực giỏi là 56,9%. Tỉ lệ trẻ tiểu dầm có tiền căn
viêm amiđan, viêm họng, nhiễm trùng tiểu và
suyễn lần lượt là 19,2; 23,9; 4,2 và 4,8%. Tỉ lệ trẻ
tiểu dầm có ngáy, táo bón và thói quen uống
nước trước ngủ lần lượt là 28,1; 19,8 và 67,1%.

Mức độ quan tâm của phụ huynh về tình
trạng tiểu dầm của trẻ
Đa số phụ huynh cho rằng: tiểu dầm là vấn
đề quan trọng cần điều trị, chiếm tỉ lệ 51,5%.

Sự hoà nhập xã hội của trẻ tiểu dầm
Tỉ lệ trẻ xấu hổ vì bị tiểu dầm là 59,3%.
Bảng 1: Tỉ lệ trẻ tiểu dầm
Đặc điểm
Giới
Nam
Nữ

n (%)
88 (6,6)
79 (5,0)

Giá trị p
0,054

Nghiên cứu Y học
Đặc điểm
Nhóm
≤7
tuổi
≥8

n (%)
92 (7,5)
75 (4,4)

Giá trị p
0,003

Bảng 2: Các yếu tố liên quan đến tiểu dầm
Đặc điểm
Tiền căn gia đình có anh chị em bị tiểu
dầm
Học lực
. Giỏi
Khá
Trung bình
Kém
Dinh
Thừa cân, béo phì
dưỡng
Bình thường
Suy dinh dưỡng

n (%) Giá trị p
38 (22,8)
nguon tai.lieu . vn