Xem mẫu
- Cùng Melinh PLAZA khám phá
nghệ thuật Gốm Chu Đậu
Bấy lâu nay người ta chỉ biết đến gốm Bát Tràng, Quảng Ninh, Thổ Hà... kể cả
những nhà nghiên cứu và giảng dạy về gốm sứ. Bởi lẽ họ chưa thấy có một trung tâm
gốm nào thời Lê, nên khi thấy sản phẩm gốm hoa lam, gốm tam thái (3 màu - thực là 5
màu) thì nghĩ ngay là của Bát Tràng.
Sự thật không phải. Bởi đến nay, Bát Tràng vẫn chưa đưa ra được sưu tập gốm hoa
lam thế kỷ 14 – 15. Trong khi đó gốm hoa lam, gốm tam thái là mặt mạnh của Chu Đậu
từ thế kỷ 14, cực thịnh ở thế kỷ 15 – 16, bị lụi tàn đi ở thế kỷ 17. Điều này do nhiều
nguyên nhân: Nội chiến Lê Mạc kéo dài từ thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 17 rất khốc liệt. Nhà
Mạc thất thủ phải lên ngàn. Nơi đây là vùng chiêm trũng của huyện Nam Sách. Mãi
những năm cuối thập niên 20 thế kỷ trước Nam Sách mới có đê. Có nghĩa trước đó nước
sông vào ra tự nhiên, tránh sao khỏi hư hại đến lò nung, sản xuất gặp nhiều khó khăn.
Giặc Minh xâm lược nước ta, bắt đi nhiều nghệ nhân giỏi. Một số khác tìm đường đi làm
ăn ở Nhật, Nam, Bắc Triều Tiên. Nghệ nhân Vương Quốc Doanh đem thợ đến Bát Tràng,
góp một phần làm cho gốm sứ Bát Tràng hưng thịnh như ngày nay.
- Gốm Chu Đậu thời Mạc
Chu Đậu là vùng đất nằm ở tả ngạn sông Thái Bình – xưa là Trần triều hải khẩu
(cảng nhà Trần). Theo ngữ nghĩa thì Chu là thuyền, Đậu là bến (bến thuyền), nơi đây
thuyền bè ra vào tấp nập, thuộc tổng Thượng Triệt, huyện Thanh Lâm, Nam Sách Châu,
nay là huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
Chu Đậu cách đường 183 cao tốc 5 km, nếu đi bằng đường bộ thì rẽ phải ra quốc lộ
5 đi Hà Nội hoặc Hải Phòng hoặc rẽ trái để qua đường 18, đi Hạ Long, Cửa Ông (ra cảng
Vân Đồn), Móng Cái.
Nơi đây còn là chiến khu xưa của nhà Mạc, có đền, tượng thờ vua Lê Lợi (ông cho
nghỉ quân ở đây). Trong đền còn có tượng thờ các bà Vương Thị Ngọc Viên, Vương Thị
Ngọc Chất và Vương Thị Ngọc Đĩnh (nuôi con cho vua). Bà Viên, bà Chất là vợ vua Lê
Dụ Tông. Bà Vương là đệ nhất cung tần, được phong Chiêu Nghi Gia Kính Phi, bà Chất
- là nội thị cung tần. Ở đây còn có đền thờ 2 danh tướng Phạm Mại, Phạm Ngộ - tham tán
quân vụ của Đức Hưng Đạo Vương và có đền thờ Đặng Huyền Thông, nhà nho, người
thầy có công lớn với nghề gốm Chu Đậu.
Tạo hình hiện đại của chiếc bình rượu cổ gốm Chu Đậu
Khi nguệch ngoạc, khi trau chuốt, cầu kỳ, những nét công bút, phóng bút của người
nghệ nhân tài ba trên gốm cổ Chu Đậu từ thế kỷ 14 nay vẫn còn lưu giữ nguyên vẹn trên
những hiện vật quý giá của dòng gốm lừng danh một thời, đang nằm rải rác đây đó trong
các bộ sưu tập tư nhân, trong các bảo tàng trong nước và quốc tế.
Di tích văn hoá gốm cổ Chu Đậu được phát hiện, khôi phục, công này trước nhất do
ngài Makato Anabuki – nguyên Bí thư Đại sứ quán Nhật tại Hà Nội. Năm 1980, ông đi
công tác Thổ Nhĩ Kỳ. Khi đến thăm bảo tàng Topkapi Saray ở thủ đô Istabul, ông thấy
- trưng bày chiếc bình gốm hoa lam men trắng, hình củ tỏi, nghệ thuật vô cùng độc đáo,
hoa văn trang trí là hoa sen và dây leo. Người tạo ra là Bùi Thị Hý bút Thái Hoà bát niên
(năm 1450) - người Chu Đậu, Thanh Lâm, châu Nam Sách. Ông viết thư về Việt Nam để
nhờ các nhà khảo cổ tìm nơi sản xuất. Qua năm lần khai quật, các nhà khảo cổ hàng đầu
Việt Nam cùng ông bà Kerry Nguyễn Long (Đại học Tổng hợp Tasmania, Úc), giáo sư
tiến sĩ Peter Burns (Đại học Tổng hợp Adelaide Úc), giám đốc trung tâm gốm sứ Đông
Nam Á, các nhà khảo cổ học Đức, Ý, Pháp... đã có những cuộc hợp tác nghiên cứu, khai
quật nhiều ở Đông Nam Á. Gần đây nhất, việc trục vớt 5 con tàu cổ đắm ở vùng biển
Pandanan (Philippine), vùng biển Cù Lao Chàm (Hội An, Đà Nẵng) cho thấy nhiều hiện
vật gốm đều là gốm Chu Đậu, điều đó chứng tỏ gốm Chu Đậu đã xuất khẩu với số lượng
lớn cách đây 7, 8 thế kỷ. Các nhà nghiên cứu đã đi đến kết luận: “gốm Chu Đậu là kế
thừa gốm Vạn Yên (Hưng Đạo Kiếp Bạc) thế kỷ 13, kế thừa xuất sắc gốm Lý -Trần về
men ngọc và hoa văn nổi chìm, kiểu dáng thanh thoát. Chất lượng gốm hoa lam, chưa
một di tích gốm nào vượt được Chu Đậu”. Thời ấy, Chu Đậu đã đạt được 4 tiêu chuẩn ở
đỉnh điểm mà văn hoá gốm đòi hỏi: mỏng như giấy, trong như ngọc, trắng như ngà, kêu
như chuông.
- Dáng ấm phụng thanh thoát của gốm cổ Chu Đậu
Điểm mạnh nữa của gốm Chu Đậu là thể hiện được tâm hồn Việt và rất Việt qua hoa
văn của một dân tộc gắn bó với thiên nhiên, yêu tự do và cuộc sống thanh bình. Trên sản
phẩm ta thường thấy cỏ cây, hoa lá, chim muông, cầm thú và côn trùng như cành đào và
chú chim bé nhỏ ngơ ngác mỗi khi xuân về, từng đôi hoặc từng đàn chim bay, cá cờ lượn
lờ trong nước, trăng lên, những vầng mây đẹp nhẹ nhàng trôi, con cò, con vạc lặng lẽ đi
ăn đêm. Ta còn bắt gặp cả hình ảnh cuộc sống và người dân Việt Nam như người đội
nón, cô gái mặc áo tứ thân tóc đuôi sam, em bé chăn trâu, mái nhà tranh và hàng tre bên
bến sông, cô lái đò. Chính cái nét văn hoá rất riêng này mà gốm Chu Đậu được trưng bày,
lưu giữ ở hơn 40 bảo tàng lớn trên thế giới và rất được thế giới săn tìm. Chiếc bình rồng,
biểu tượng cho văn hoá Việt Nam tại trụ sở Liên Hợp Quốc là gốm Chu Đậu. Chiếc bình
tỳ bà men hoa lam trang trí cúc đại đoá, khi đem đấu giá, người Anh mua được với giá
521 ngàn USD (hai chiếc bình này đều là sản phẩm trục vớt trong số 28 vạn sản phẩm ở 2
con tàu đưa lên trước).
- Nói đến gốm là nói đến văn hoá gốm, trình độ thẩm mỹ và văn minh của dân tộc ấy.
Kiểu dáng đẹp, sang trọng của gốm Chu Đậu đã làm mê mẩn các quý bà quý ông và
nhiều vương triều trong và ngoài nước.
Giờ đây, Xí nghiệp gốm Chu Đậu ra đời để khôi phục giữ gìn bằng được “thần thái
phong cách gốm cổ Chu Đậu”. Sau một năm sản xuất, xí nghiệp đã có lô hàng đầu tiên
8490 sản phẩm xuất khẩu trị giá 20.000 USD. Thế là sau 400 năm Chu Đậu lại có hàng
xuất cho Tây Ban Nha – nơi chuyến cuối cùng được xuất sang ở thế kỷ thứ 17.
Ông Nguyễn Văn Lưu, người đã khôi phục lại nghề gốm Chu Đậu sau 500 năm thất
truyền
Các sản phẩm trên hiện đang có mặt tại Khu trưng bày sản phẩm Làng nghề truyền
thống tại Melinh PLAZA
nguon tai.lieu . vn