Xem mẫu

  1. 1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT KHOA KHOA HỌC GIÁO DỤC ------------------------- BIỆN PHÁP NÂNG CAO KĨ NĂNG GIAO TIẾP CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐẦU MỘT Mã số: GD – 02. 11. 03 CHUYÊN ĐỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KĨ NĂNG GIAO TIẾP VÀ THỰC TRẠNG KỸ NĂNG GIAO TIẾP CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT Chủ nhiệm đề tài: GVC. ThS Hoàng Hữu Miến Bình Dương, tháng 10 năm 2013
  2. 2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT KHOA KHOA HỌC GIÁO DỤC ------------------------- BIỆN PHÁP NÂNG CAO KĨ NĂNG GIAO TIẾP CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐẦU MỘT Mã số: GD – 02. 11. 03 CHUYÊN ĐỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KĨ NĂNG GIAO TIẾP VÀ THỰC TRẠNG KỸ NĂNG GIAO TIẾP CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT Chủ nhiệm đề tài: GVC.ThS Hoàng Hữu Miến Bình Dương, tháng 10 năm 2013
  3. 3 MỤC LỤC 1.Đặt vấn đề 3 2.Phương pháp nghiên cứu 3 3. Nội dung nghiên cứu 4 4. Kết luận 23 5.Tài liệu tham khảo 24
  4. 4 1. Đặt vấn đề Giao tiếp là một hoạt động rất cần thiết của con người để tồn tại và phát triển trong xã hội. Trong xã hội ngày nay, giao tiếp được coi như là một phương tiện để hoàn thành tốt công việc. Trong những mối quan hệ này nếu thực hiện thành công việc giao tiếp được coi như thành công một nửa. Trong cuộc sống, xây dựng được mối quan hệ với người khác là một nhu cầu có tính bắt buộc của con người. Giao tiếp là hoạt động đặc trưng cho mối quan hệ giữa người với người trong xã hội. Giao tiếp là điều kiện thiết yếu trong mọi hoạt động của con người, góp phần tạo dựng nên nhân cách con người. Mối quan hệ giao tiếp giữa người với người là rất thiết yếu đối với hạnh phúc cá nhân ở nhiều khía cạnh khác nhau: trong quan hệ giúp ta tích lũy tri thức, hiểu thấu đáo về thế thái nhân tình, giao tiếp hội nhập giúp ta hiểu rõ mình hơn, hình thành được phẩm chất nhân cách theo hướng tích cực và thuần phác, tạo ra sự hài hòa cân đối trong cuộc sống vật chất và tinh thần. Với vai trò quan trọng như vậy, giao tiếp luôn là vấn đề thời sự của tâm lý học. Các nhà tâm lý học trong và ngoài nước đã nghiên cứu giao tiếp với nhiều góc độ khác nhau. SV sư phạm hôm nay sẽ là những thầy cô giáo trong tương lai. Họ sẽ hoạt động nghề nghiệp mà mối quan hệ người - người là chủ yếu. Do đó để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục và phát triển nhân cách học sinh, người giáo viên cần phải có KNGT tốt. KN này người giáo viên cần rèn luyện trong suốt cuộc đời. Nhưng bản thân mỗi SV ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường cần được hình thành KNGT để phục vụ cho nghề nghiệp của SV sau khi ra trường. Nhà giáo dục N. I. Bôn – đư rép trong cuốn “Chuẩn bị cho SV làm công tác giáo dục ở trường phổ thông”, trang 52 đã khẳng định: “Những yêu cầu về chuyên môn của người thầy giáo tất nhiên không phải chỉ có kiến thức phong phú mà còn phải có những KN cần thiết đó là KN giao tiếp’’. Vì vậy có thể khẳng định nghiên cứu về KNGT là một vấn đề có tính chiến lược cho bất kỳ một quan điểm tâm lý nào. Thực tế hiện nay trong quá trình giảng dạy chúng tôi nhận thấy KNGT của SV ở trường Đại học Thủ Dầu một còn nhiều hạn chế như: cách nói năng, diễn đạt khi trả lời các câu hỏi của giáo viên còn chưa lưu loát, chưa rõ ràng, ngắn gọn, trong giao tiếp quan hệ với bạn bè còn thiếu tế nhị và khi giải quyết các vấn đề trong cuộc sống còn lúng túng,
  5. 5 trong thảo luận nhóm còn e ngại không chịu phát biểu, trình bày ý kiến, quan điểm của mình. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả và chất lượng giảng dạy, giáo dục của SV sau này. Vì vậy việc rèn luyện, nâng cao KNGT cho SV là một vấn đề rất cần thiết. Trong chuyên đề này chúng tôi sẽ đề cập đến những vấn đề lý luận liên quan kĩ năng giao tiếp 2. Phương pháp nghiên cứu, cách tiếp cận Đề tài sử dụng nghiên cứu phân tích tổng hợp các luận điểm, luận đề, quan điểm để xây dựng cơ sơ lý luận về giao tiếp và KNGT 3. Nội dung nghiên cứu và kết quả đạt được 3.1. Một số quan niệm về giao tiếp 3.1.1. Khái niệm giao tiếp Vấn đề giao tiếp hiện nay là một điểm nóng của những cuộc tranh luận khoa học trong tâm lý học Các nhà Tâm lý học Tư sản chủ yếu mới dừng lại ở sự mô tả bề ngoài của sự giao tiếp E.E. Acgyet - Nhà Tâm lý học Mỹ đã không dùng thuật ngữ giao tiếp mà chỉ nói đến sự tác động, truyền và tiếp nhận thông tin, trao đổi thông tin của con người. T. Chuccon – Nhà tâm lý học người Mỹ xem giao tiếp như là một tác động qua lại trực tiếp lên nhân cách và dẫn đến hình thành những ý nghĩ. T. Stecren – Người Pháp xem giao tiếp là sự trao đổi ý nghĩ, tình cảm, cảm xúc giữa con người với nhau. L.X. Vưgotxki cho rằng sự giao tiếp là sự thông báo hoặc quan hệ qua lại một cách thuần túy giữa người với người. X.L. Rubinstein cho rằng giao tiếp là hình thức giao tiếp giữa con người với nhau. Những quan niệm này theo chúng tôi là chưa đầy đủ, vì trẻ em ngôn ngữ chưa hình thành nhưng vẫn giao tiếp với mẹ. Điều đó có nghĩa giao tiếp có thể bằng ánh mắt, nụ cười, cử chỉ, điệu bộ...
  6. 6 Từ những năm 1970 trở lại đây xuất hiện rất nhiều quan niệm khác nhau về giao tiếp của các tác giả khác nhau. Mỗi người nhìn nhận vấn đề dưới góc độ khác nhau và đưa ra khái niệm khác nhau: A.G. Xpirkin đề cập đến mục đích điều khiển giao tiếp trong “Ý thức và tự ý thức”. “Giao tiếp đó là một qua trình trao đổi ý nghĩ, tình cảm, kích thích ý chí với mục đích người này điều khiển người kia”. Kolominxki mô tả: “Giao tiếp là sự tác động qua lại của đối tượng và thông tin giữa con người với con người’’. L.P. Bueva lại cho rằng “Giao tiếp không chỉ là một quá trình tinh thần, mà còn là quá trình vật chất, quá trình xã hội trong đó diễn ra sự trao đổi hoạt động, kinh nghiệm, sản phẩm của hoạt động’’. Ngoài ra ở thời gian này ở Liên Xô ta thấy xuất hiện hai trường phái đấu tranh gay gắt với nhau trong lĩnh vực này. Đó là: A.A. Leonchiep cho rằng giao tiếp là một dạng đặc biệt của hoạt động bao gồm “chủ thể - hoạt động – đối tượng”. Trong “Giao tiếp như là khách thể của sự nghiên cứu tâm lý trong những vấn đề phương pháp luận của tâm lý xã hội”. Ông viết giao tiếp như vậy được hiểu không phải như hiện tượng xã hội, như chủ thể của nó được xét không phải cá thể biện luận mà như nhóm xã hội nói chung. B.Ph.Lomop lại cho rằng giao tiếp không phải là một dạng hoạt động mà nó phải được xem xét như một phạm trù tương đối đọc lập trong tâm lý học. Cả hai trường phái trên đều có những điểm chưa thỏa đáng: A.A.Leeonchiep lý giải chưa thật xác đáng về đối tượng, động cơ và chủ thể của hoạt động này. B.Ph.Lomop lại quá đối lập mối quan hệ “ Chủ thể - hoạt động- đối tượng” với mối quan hệ “Chủ thể - chủ thể” trong giao tiếp. Về khái niệm giao tiếp cũng có nhiều ý kiến khác nhau:
  7. 7 Trong “Giao tiếp sư phạm” Đại học Sư phạm 1989, TS Nguyễn Công Hoàn cho rằng: “Giao tiếp là quá trình tiếp xúc giữa con người với nhau nhằm mục đích trao đổi tư tưởng, tình cảm, kỹ năng, kỹ xảo...”. - Theo Nguyễn Thạc và Hoàng Anh giao tiếp có 4 dấu hiệu sau: + Giao tiếp là một hiện tượng đặc thù của con người, chỉ con người mới có giao tiếp thực sự. + Giao tiếp là cách thể hiện mối quan hệ với một hay nhiều người khác trên cơ sở các quan hệ kinh tế, chính trị của xã hội. + Giao tiếp được thực hiện ở sự trao đổi thông tin sự hiểu biết lẫn nhau. + Giao tiếp dựa trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau giữa con người với nhau. Trong từ điển Tiếng Việt nhà xuất bản KHXH, Hà Nội 1988 “Giao tiếp là trao đổi tiếp xúc với nhau” Trong cuốn sổ tay tâm lý, Giao tiếp được định nghĩa là quá trình thiết lập và tiếp xúc giữa các cá nhân xuất phát từ nhu cầu phối hợp hành động. Trong giáo trình “Tâm lý học xã hội (1995) của Đại học Quốc gia Hà Nội: giao tiếp là sự tiếp xúc giữa hai hay nhiều người thông qua phương tiện ngôn ngữ nhằm trao đổi thông tin với nhau [20]. Trong tâm lý học Giao tiếp của GS Trần Tuấn Lộ viết. Giao tiếp là nhu cầu và một loại hoạt động của con người nhằm tiếp xúc đối tác và giao lưu với người khác [27]. Diệp Quan Mang, Đinh Trọng Lạc (1991) cho rằng: “Giao tiếp là sự tiếp xúc với nhau giữa cá thể này với cá thể khác trong cộng đồng xã hội. Loại động vật cũng có thể sống thành xã hội vì chúng sống có giao tiếp với nhau, như loài ong, kiến” [23]. Trong văn hóa giao tiếp (1996) của Phạm Vũ Dung: Giao tiếp là một quá trình trao đổi tiếp xúc với nhau giữa con người với bản thân, xã hội, tự nhiên, gia đình... TS Hoàng Anh cho rằng: “Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý tạo nên quan hệ giữa hai người hoặc nhiều người với nhau chứa đựng một nội dung xã hội lịch sử nhất định có nhiều chức năng tác động hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau thông báo, điều khiển, nhận thức, hành động...” [1].
  8. 8 Tóm lại hiện nay còn tồn tại rất nhiều khái niệm khác nhau về giao tiếp. Có những định nghĩa thu hẹp khái niệm giao tiếp, có định nghĩa mở rộng khái niệm giao tiếp, các nhà nghiên cứu đều đứng ở một góc độ nhất định. Chính vì vậy họ đều có quan niệm riêng của mình... Tuy nhiên các nhà tâm lý học Macxit và phần lớn các nhà tâm lý học nước ta đều có những điểm chung là công nhận giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người trong đó có sự trao đổi tư tưởng, tình cảm, tác động lẫn nhau. Từ định nghĩa trên chúng ta có thể rút ra những đặc trưng cơ bản của giao tiếp là: + Giao tiếp là một hiện tượng đặc thù trong mối quan hệ của con người, chỉ con người mới có. + Trong giao tiếp diễn ra sự trao đổi thông tin, tình cảm, thế giới quan... của những người tham gia vào quá trình giao tiếp. + Trong giao tiếp diễn ra sự tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau + Giao tiếp là một quan hệ xã hội mang tính lịch sử xã hội Trong đề tài này chung tôi sử dụng khái niệm giao tiếp của TS Hoàng Anh làm công cụ. TS Hoàng Anh cho rằng: “Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý tạo nên mối quan hệ giữa hai người hoặc nhiều người với nhau chứa đựng một nội dung xã hội lịch sử nhất định có nhiều chức năng tác động hỗ trợ lẫn nhau cùng nhau thông báo điều khiển, nhận thức, hành động...” [1]. Chúng tôi chọn khái niệm này vì: + Khái niệm này nêu được đặc trưng tâm lý giao tiếp + Nêu lên được tác động hai chiều của quan hệ chủ thể và đối tượng giao tiếp + Nêu rõ được chức năng của giao tiếp 3.1.2. Các loại hình giao tiếp a. Căn cứ vào sự tham gia trực tiếp hay gián tiếp của chủ thể và đối tượng giao tiếp, người ta chia làm hai loại: - Giao tiếp trực tiếp: là quá trình giao tiếp được tiến hành đồng thời cùng một thời điểm có mặt hai hay nhiều người. - Giao tiếp gián tiếp: được thực hiện thông qua người thứ 3 hoặc nhân tố khác.
  9. 9 b. Căn cứ vào thành phần những người tham gia vào giao tiếp: - Giao tiếp giữa một cá nhân với cá nhân - Giao tiếp giữa một cá nhân với nhóm người - Giao tiếp giữa một nhóm người với một nhóm người khác c. Căn cứ vào quy cách ta có: - Giao tiếp chính thức: là giao tiếp khi thực hiện các chức trách trong hệ thống tổ chức nhà nước, phương tiện và cách thức của loại giao tiếp này thường theo qui tắc nhất định. - Giao tiếp không chính thức: là sự giao tiếp giữa các cá nhân trong các nhóm không chính thức với nhau không theo một nghi thức nào cả. d. Căn cứ vào phương tiện giao tiếp ta có: - Giao tiếp bằng ngôn ngữ - Giao tiếp phi ngôn ngữ 3.1.3. Giao tiếp sư phạm 3.1.3.1. Khái niệm giao tiếp sư phạm Quá trình hình thành nhân cách con người gắn liền với giao tiếp. Giao tiếp là một nhân tố không thể thiếu được để hình thành nhân cách. Trong hoạt động dạy học (HĐDH) và giáo dục ở nhà trường luôn có sự tham gia của giao tiếp. “Giao tiếp giữa con người với con người trong hoạt động sư phạm được gọi là giao tiếp sư phạm” [17]. Trong thực tế giáo dục hiện nay tồn tại nhiều dạng quan hệ như các quan hệ: giáo viên với giáo viên, giáo viên với học sinh, học sinh với học sinh, học sinh với cán bộ công nhân viên nhà trường... Giao tiếp của học sinh thể hiện sự tác dộng qua lại với những người xung quanh là sự trao đổi cả giá trị tinh thần và các giá trị được mọi người thừa nhận. Trong quá trinh dạy học và giáo dục, giáo viên đã truyền đạt cho học sinh những tri thức khoa học, những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng và học sinh lĩnh hội biến thành phẩm chất tâm lý của cá nhân. Chính trong qua trình ấy giáo viên và học sinh đã diễn ra sự tiếp xúc tâm lý, diễn ra quá trình giao tiếp. Rõ ràng là tri thức, kinh nghiệm mà học sinh lĩnh hội được do giáo viên
  10. 10 cung cấp được diễn ra trong quá trình giao tiếp. Giao tiếp có ảnh hưởng quyết định đến việc lĩnh hội tri thức biến tri thức thành vốn kinh nghiệm riêng của cá nhân học sinh. Quá trình truyền đạt và lĩnh hội tri thức kinh nghiệm... diễn ra trong mối quan hệ giao tiếp giữa giáo viên và học sinh. Giao tiếp sư phạm ở đây diễn ra như điều kiện hoạt động sư phạm. Theo X.I Rubin xtêin hoạt động của nhà giáo dục không thể nào thực hiện bằng một phương tiện nào khác ngoài giao tiếp. E.V.Sukanôva cho rằng giao tiếp sư phạm là một trong những phương thức chủ yếu tác động nên các quan hệ của học sinh. Giao tiếp giữa giáo viên và học sinh là một khâu quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách, phát triển tính tích cực nhận thức và xã hội của học sinh, trong quá trình hình thành tập thể học sinh [1]. Như vậy, sự tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học (như là một quá trình giao tiếp) có nội dung thông tin nhất định. Vì vậy, giáo viên phải suy nghĩ về tính chất của thông tin, hình thức và phương tiện biểu đạt thông tin. Theo TS Hoàng Anh giao tiếp sư phạm có hai mặt: - Mặt tổ chức: Tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh - Mặt giáo dục: Tác động giáo dục đến học sinh Như vậy giao tiếp gắn chặt với hoạt động dạy học. Trong hoạt động sư phạm giao tiếp và hoạt động dạy – học có quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau. + Có nhiều định nghĩa khác nhau về giao tiếp sư phạm theo những xu hướng khác nhau, có thể chia ra hai loại xu hướng chủ yếu sau: Xu hướng 1: Một số tác giả có xu hướng giới hạn phạm vi của giao tiếp sư phạm trong việc truyền thụ trí thức, đồng nhất giao tiếp sư phạm với các quá trình thông báo thông tin: N.Đ. Lêvi tôp trong cuốn: “Tâm lý học trẻ em và Tâm lý học sư phạm” cho rằng “Giao tiếp là năng lực truyền đạt tri thức cho trẻ bằng cách trình bày rõ ràng, hấp dẫn, ngắn gọn. F.N .Gôlôbôlin trong cuốn: “Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên” đã chỉ ra rằng: năng lực giao tiếp là năng lực truyền đạt một cách dễ hiểu để các em nắm được và ghi nhớ tài liệu đó, năng lực thu hút học sinh truyền nhiệt tình cho các em, cuốn hút,
  11. 11 kích thích các em có những cảm xúc thích hợp, năng lực thuyết phục mọi người có ảnh hưởng giáo dục đồi với họ bằng lời nói, việc làm, bằng tấm gương của bản thân [12]. Trong khi đó mục đích cuối cùng của giao tiếp sư phạm không chỉ dừng lại ở truyền đạt trí thức có hiệu quả mà nhằm thiết lập nên những mối quan hệ sư phạm, là sự tiếp xúc tâm lý, trao đổi ý nghĩ, trao đổi hình thức, và tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau giữa giáo viên và học sinh. Như vậy các định nghĩa này đã thu hẹp nội hàm của khái niệm giao tiếp sư phạm. Xu hướng 2: Một số tác giả coi giao tiếp sư phạm như là một quá trình thể hiện mối liên nhân cách và cụ thể hóa giao tiếp sư phạm ở khả năng thuyết phục khéo léo đối xử nhằm thiết lập các quan hệ: A.I Secbaccov “Tâm lý học học lứa tuổi và sư phạm” do A.V Pêtôpxki chủ biên đã xem năng lựcc giao tiếp sư phạm giúp xác lập những quan hệ qua lại đúng đắn với trẻ em, sự khéo léo đối xử về mặt sư phạm, việc tính đến những đăc điểm cá nhân và lứa tuổi [32]. I.V Tra khov cho rằng giao tiếp sư phạm là năng lực tiếp xúc với học sinh, KN tìm được, cách đối xử đúng đắn đối với trẻ thiết lập nên những mối quan hệ hợp lý theo quan điểm sư phạm... Ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu giao tiếp sư phạm và đã công bố: Theo tiến sĩ Ngô Công Hoàn cho rằng: “Giao tiếp giữa con người với con người trong hoạt động sư phạm được gọi là giao tiếp sư phạm” [17]. Tác giả cho rằng hoạt động sư phạm điển hình được xảy ra trong nhà trường và trong đó chủ yếu là giao tiếp giữa hai đối tượng giáo viên và học sinh, ngoài ra các quan hệ giữa giáo viên với giáo viên, giáo viên với cha mẹ học sinh,học sinh với học sinh,học sinh với lực lượng khác trong xã hội là các loại giao tiếp hỗ trợ trong quá trình giáo dục nhằm truyền đạt và lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Chính vì vậy, tác giả viết: “Giao tiếp sư phạm là sự tiếp xúc giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền đạt và lĩnh hội những tri thức khoa học, vốn sống kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, nghề nghiệp, xây dựng và phát triển nhân cách toàn diện ở học sinh” [17].
  12. 12 Từ định nghĩa này ta thấy giao tiếp sư phạm là giao tiếp nghề nghiệp giữa giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục, trong đó giáo viên là chủ thể với tư cách là người tổ chức quá trình giao tiếp, người đặt mục đích và xác đinh nội dung giao tiếp, còn học sinh là đối tượng giao tiếp. Tuy nhiên, có lúc có nơi và tùy điều kiện mà học sinh có thể chủ động thực hiện sự tiếp xúc với giáo viên nếu các em có vấn đề cần giải quyết. + Theo GS Nguyễn Văn Lê giao tiếp sư phạm là một thành phần cơ bản của hoạt động sư phạm. Nó diễn ra khi nhà sư phạm tiến hành các hình thức giảng dạy – giáo dục với học sinh, lên lớp, phụ đạo, kiểm tra, thi cử, hướng dẫn tham quan, hướng dẫn thực hành thí nghiệm... Đó là sự tiếp xúc trao đổi giữa giáo viên và học sinh, sử dụng các phương tiên ngôn ngữ, phi ngôn ngữ nhằm thực hiện các nhiệm vụ giảng dạy – giáo dục có hiệu quả” [25]. Như vậy giao tiếp sư phạm là một bộ phận không thể thiếu được của hoạt động sư phạm và nó diễn ra trong hoạt động sư phạm giữa giáo viên và học sinh nhằm thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục với việc sử dụng các phương tiên ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. + Từ những định nghĩa đã trình bày ở trên chúng ta thấy quan niệm về giao tiếp sư phạm chưa có sự thống nhất còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Tuy nhiên dựa vào những định nghĩa này chúng ta có thể nhận ra một số nhận xét có tính khái quát sau: Giao tiếp sư phạm gắn bó chặt chẽ với hoạt động sư phạm, nó vừa là điều kiện của hoạt động sư phạm, vừa là đối tượng của tác động sư phạm. Giao tiếp sư phạm là một quá trình tiếp xúc tâm lý giữa giáo viên và học sinh trong đó diễn ra chủ yếu sự trao đổi thông tin, cảm xúc, truyền đạt và lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp qua các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ nhằm thực hiện các nhiệm vụ giảng dạy – học tập và giáo dục. 3.1.3.2. Vai trò của giao tiếp sư phạm trong việc hình thành nhân cách người thầy giáo Giao tiếp có vai trò quan trong đối với quá trình xã hội hóa của mỗi cá nhân và cả với sự phát triển tiến bộ của xã hội nói chung.
  13. 13 - Trong diễn tiến của xã hội, các cá nhân có sự tác động lẫn nhau, mỗi cá nhân qua giao tiếp sẽ học hỏi được những kinh nghiệm xã hội, những hành vi xã hội thích hợp và hiểu được tác dụng, ý nghĩa của những kinh nghiệm ấy, những hành vi đó trong điều kiện xã hội mà họ đang sống. - Trong sự hình thành nhân cách con người nói chung giao tiếp là điều kiện tất yếu và có vai trò rất quan trọng. + Với tính quần chúng giao tiếp đã cung cấp cho con người một lượng thông tin văn hóa vô cùng to lớn thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, ngày nay nhân loại rất chú ý tới ảnh hưởng của truyền hình đối với sự phát triển trí tuệ và nhân cách của trẻ em. + Trong cuộc đời xây dựng được mối quan hệ với người khác là một nhu cầu không thể thiếu được của cuộc sống mỗi người. Người bình thường cũng mong muốn có quan hệ với người khác và khi có những nhu cầu riêng tư. muốn thỏa mãn, cần qua việc tương giao, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Muốn có thành công trong sự nghiệp, muốn có hạnh phúc gia đình, muốn có tình cảm bạn bè đều tùy thuộc vào việc xây dựng và duy trì các mối quan hệ với người khác. Nói khác đi cuộc sống của mỗi chúng ta ngày càng hoàn chỉnh, phong phú, có ý nghĩa và ta cảm thấy thõa mãn hay hay không tùy thuộc vào phẩm chất của mối quan hệ giữa ta với người khác. “Con người không thể sống, lao động thỏa mãn các nhu cầu các tinh thần vật chất của mình mà không có giao tiếp với người khác” [19]. + Đối với sự hình thành nhân cách người thầy giáo giao tiếp cũng là một điều kiện không thể thiếu được: - Nhân cách SV không chỉ biểu hiện trong giao tiếp mà trong một mức độ nhất định nó còn được hình thành với ảnh hưởng của giao tiếp. Trong quá trình học tập ,tu dưỡng rèn luyện và giáo dục ở trường Cao đẳng và Đại học giao tiếp đóng vai trò là người điều chỉnh hoạt động của người giáo viên và là phương tiện hình thành tiêu chuẩn đạo đức, giá trị của SV. - Trong nhà trường sư phạm nơi đào tạo những người thầy, cô giáo tương lai giao tiếp có vai trò rất to lớn đối với sự hình thành nhân cách người thầy giáo. Với đặc thù
  14. 14 nghề nghiệp, người thầy giáo cần phải có năng lực sư phạm trong đó không thể thiếu được năng lực giao tiếp sư phạm. Năng lực xuyên việt này chỉ có thể được hình thành thông qua hoạt động giao tiếp của SV sư phạm của thầy giáo và cô giáo đang trực tiếp làm công tác giảng dạy và giáo dục họ, với bạn bè cùng học tại trường sư phạm, với những học sinh phổ thông. - Trong quá trình học tập tại trường sư phạm, SV sẽ tham gia vào nhiều loại hình hoạt động khác nhau như: sinh hoạt, ngoại khóa, thể dục, thể thao, lao động... Qua việc tham gia vào các loại hoạt động này SV sẽ xây dựng và thể hiện các mối quan hệ giao tiếp với thầy giáo vô giáo với bạn bè trong khoa, lớp, tổ, với cán bộ và công nhân viên nhà trường... Các SV sẽ học được ở các đối tượng giao tiếp, cách giao tiếp, ứng xử trong các quan hệ, trong hoạt động sư phạm. Chính trong quá trình giao tiếp này, SV sẽ nhận biết được trình độ, khả năng giao tiếp của mình, từ đó điểu chỉnh giao tiếp của bản thân và các phẩm chất đạo đức và hành vi đạo đức phù hợp với mục tiêu của nhà trường sư phạm. Tóm lại: Giao tiếp là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển nhân cách. Giao tiếp có vai trò to lớn đối với sự hình thành nhân cách người giáo viên trong nhà trường sư phạm nếu không có sự giao tiếp giữa SV với giáo viên, với bạn bè, với cán bộ công nhân viên trong nhà trường thì không có sự hình thành và phát triển nhân cách người giáo viên tương lai. 3.2. KN giao tiếp 3.2.1. Khái niệm kỹ năng KNGT là hệ thống các thao tác, cử chỉ, điệu bộ, hành vi (kể cả hành vi ngôn ngữ nói) được con người phối hợp hài hòa, hợp lý nhằm đảm bảo kết quả cao trong hoạt động có sự tiếp xúc giữa con người với con người, với sự tiêu hao năng lượng và cơ bắp ít nhất; trong những điều kiện thay đổi, ngôn ngữ nói là ngôn ngữ được hướng vào người khác, được biểu hiện bằng âm thanh, được phân tích qua thính giác. Ngôn ngữ nói là phương tiện chủ yếu của con người trong giao tiếp, nó là thông tin chính về con người, về trạng thái của họ, về đặc điểm tâm lý của cá nhân.
  15. 15 KN là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một cá nhân về một hoặc nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để giải quyết tình huống hay công việc nào đó phát sinh trong cuộc sống. Để giải thích nguồn gốc hình thành KN có lẽ không có cơ sở lý thuyết nào tốt hơn 2 lý thuyết về phản xạ có điều kiện (được hình thành trong cuộc sống thực tế cá nhân) và phản xạ không điều kiện (là những phản xạ bẩm sinh mà sinh ra đã sẵn có). Trong đó KN cá nhân gần như thuộc về cái gọi là phản xạ có điều kiện, nghĩa là KN được hình thành từ khi một cá nhân sinh ra, trưởng thành và tham gia hoạt động thực tế cuộc sống. Vd: KN giao tiếp, KN quản trị chỉ được hình thành trong hoạt động công việc của một cá nhân. Khi tham gia vào bất kì hoạt động nghề nghiệp nào phục vụ cho cuộc sống của chúng ta đều đòi hỏi phải thỏa mãn những KN tương ứng. Vd: nghề tư vấn thì tương ứng là nhà tư vấn phải có những KN tư vấn; nghề luật sư thì phải có KN hành nghề luật sư….Như thế bất kì hoạt động hay nghành nghề nào mà chúng ta tham gia thì chúng ta đều phải đáp ứng những KN mà hoạt động hay nghề nghiệp đó đòi hỏi. Các hình thái đặc điểm của KN giao tiếp: Theo định nghĩa ở trên, các bạn có thể thấy chúng ta giao tiếp hàng ngày hàng giờ dưới nhiều hình thức gián tiếp hoặc trực tiếp bằng nhiều hình thức như nói, viết, báo cáo, hay gửi thư… Mặc dù có nhiều định nghĩa quan niệm khác nhau về KNGT nhưng nói chung mọi người đều cho rằng giao tiếp là phải xây dựng thông điệp và gửi đi với hi vọng người nhận sẽ hiểu được thông điệp đó, từ những lý do trên chúng ta có thể dùng những KNGT phù hợp trong từng hoàn cảnh để có hiệu quả nhất. Các hình thức trong KN giao tiếp: Có 4 hình thức như sau: Giao tiếp với chính bản thân: tự đưa ra thông tin, tự cảm nhận (suy ngẫm) và cải thiện bản thân. Giao tiếp nhân cách giữa hai cá nhân với nhau: trong họctập, công việc cũng như trong tình cảm, đời sống.
  16. 16 Giao tiếp nhóm giữa các cá nhân trong một nhóm: cần có thái độ nhã nhặn, hòa đồng, luôn biết lắng nghe và đưa ra những ý kiến phù hợp cho công việc mà nhóm đang thực hiện, hoàn thành tốt công việc được giao và giúp những thành viên khác nhằm thúc đẩy tiến trình của công việc đem lại hiệu quả tốt nhất, mà không gây ra mâu thuẫn lẫn nhau. KNGT trong tổ chức: giao tiếp giữa các nhóm với nhau để hoàn thành công việc chung của tổ chức đưa ra. Trong lịch sử nghiên cứu các vấn đề về kỹ năng, khái niệm KN trong các công trình nghiên cứu được bàn luận dưới góc độ của hoạt động. V.A Kruchesxki coi KN “là phương thức thực hiện hoạt động”. K.K Platônov coi KN là “KN của con người thực hiện một hoạt động hay một hành động bất kỳ”. I.A Dimnhia coi KN như “trình độ tối ưu hoàn thiện như một hoạt động chung có thể được xác định như khả năng sáng tạo” A.A Lê oonchiev cho rằng “KN là khả năng thực hiện hành động này hay hành động kia theo các tham số tối ưu của hành động, tức là theo phương thức tốt nhất như sự thực hiện hành động tương ứng với mục đích và điều kiện diễn ra của hành động”. T.L Catinôva và A.N Su kin hiểu KN là khả năng vận dụng những kiến thức thu được và những kỹ xảo có được vào những tình huống khác nhau của giao tiếp. Theo từ điển “Từ và ngữ Việt Nam” của Nguyễn Lân: “KN là khả năng ứng dụng tri thức vào thực tiễn”. Theo TS Bùi Ngọc Ánh khái niệm KN có thể bao gồm các nội dung sau: + KN là một khả năng của con người có thể thực hiện một hành động. KN gắn liền với một công việc nào đó hoặc một hành động cụ thể nào đó. Khi ta nói KN là nói KN thực hiện một công việc hoặc hoạt động cụ thể như: KN giải bài tập, KN nói, KN đánh bóng, KN giao tiếp... + KN được hình thành từ nhận thức và sự tập luyện. Muốn có KN trước hết phải nhận thức được công việc, nhận thức được cách thức thực hiện được các thao tác... sau đó
  17. 17 là thực hiện các thao tác đó, tập luyện khi có thể thực hiện được công việc đó, ta có KN về công việc đó. + KN được nẩy sinh hình thành và phát triển trong hoạt động lao động nên có cấu trúc và đăc điểm của KN riêng biệt và hoạt động nói chung. KN mang tính kỹ thuật của hành động và là thành phần không thể thiếu của tài năng con người. + Nét đăc trưng cơ bản của KN là tính mục đích, là sự đòi hỏi tập trung chú ý, các thao tác, tập luyên. Như vậy, KN là khả năng có được của con người có thể thực hiện hành động nhằm đạt mục đích đã đề ra. 3.2.2. Các loại KN giao tiếp Trong thực tế có nhiều KNGT song trong phạm vi của đề tài chúng tôi chỉ đề cập đến một số KN sau: Một là, KN tiếp xúc, thiết lập mối quan hệ Là khả năng tiếp xúc, tiếp cận, thiết lập các mối qua nhệ với mọi người ở mọi nơi mọi lúc và trên mọi đối tượng. Người xưa có câu “vạn sự khởi đầu nan”. Giao tiếp cũng vậy, giao tiếp phụ thuộc rất nhiều vào sự tiếp xúc, thiết lập mối quan hệ ngay từ đầu, làm sao để quan hệ, làm quen với người khác, biết cách nói chuyện, làm việc với người khác, làm cho họ đối xử, quan hệ với mình một cách cởi mở, không từ chối, không xa lánh, giả mạo... Hai là, KN lắng nghe Là khả năng tập trung chú ý, hướng hoạt động của các giác quan để lắng nghe và hiểu được những thông tin trong quá trình giao tiếp. KN lắng nghe biểu hiện ở việc nhìn vào mặt người nói, im lặng, hoặc đôi khi có cử chỉ khích lệ, gợi ý, động viên người nói (gật đầu, nét mặt rạng rỡ, nói “vâng”, “đúng rồi”, “nên như thế”, “tôi cũng nghĩ như vậy”, hoặc có nụ cười thân thiện...). KN lắng nghe còn biểu hiện ở sự phân biệt đúng, sai qua những thay đổi của âm tiết, ngữ điệu, cách dùng từ đồng nghĩa, câu, nhịp điệu âm thanh, cách diễn đạt, ngữ pháp. Như vậy KN lắng nghe là khả năng hướng về đối tượng với tất cả khả năng nhận thức của chủ thể, vừa bằng giác quan, trí tuệ, vừa băng con tim. Lắng nghe là nhận thức lời nói của người kia để hiểu ý ghĩa, nội dung của lời nói và đi đến hiểu
  18. 18 con người của đối tượng. Lắng nghe không chỉ là nghe âm thanh mà đòi hỏi phải nghe từng lớp ý nghia của lời nói. Theo BS Đăng Phương Kiệt thì lắng nghe có nghĩa là giải mã được ý nghĩa của tâng dưới của thông tin chứ không phải hoàn toàn dựa vào ý nghĩa hiển nhiên hoặc nông cạn. Để lắng nghe tốt đòi hỏi phải nghe bằng lỗ tai thứ ba. Ba là, KN kiềm chế Là khả năng làm chủ nhận thức, thái độ, hành, phản ứng của mình. Ba thành phần này phải phối hợp nhịp nhàng, hợp lý, nhiều khi sự phối hợp ngày tưởng chưng như tự động, ngẫu nhiên có lúc tưởng chừng như thói quen mà chủ thể không kịp nhận thức. KN kiềm chế biểu hiện ở việc biết tự chủ hành vi, biết kiềm chế cảm xúc và tình cảm của mình một cách hợp lý. Nghĩa là chủ thể nhận thức được chủ thể của hành vi và phản ưng của bản thân mình, thậm chí biết che giấu tâm trạng khi cần thiết. Bốn là, KN diễn đạt Là khả năng sử dụng phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để trình bày những suy nghĩ, ý kiến của mình cho người khác hiểu, đảm bảo tính chính xác, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, mạch lạc, logic. Khả năng diễn đạt còn biểu hiện ở ngữ điệu, giọng nói, cách dùng từ sao cho phù hợp với nội dung giao tiếp. Năm là, KN ứng xử linh hoạt Là khả năng con người có được những phản ứng, hành vi nhằm lĩnh hội và truyền đạt thông tin một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất trong những tình huống giao tiếp nhất định. Hay nói cách khác KN ứng xử linh hoạt là khả năng xử lý những tình huống giao tiếp một cách nhanh chóng và hiệu quả cao. Sáu là, KN thuyết phục đối tượng giao tiếp Là khả năng làm cho người khác nghe và tán thành ý kiến của mình, tin tưởng vào những luận điểm của bản thân mình. Thuyết phục còn là khả năng làm cho người khác hiểu ra ý kiến của họ là đúng hay sai và có khả năng làm cho họ thay đổi ý kiến. Bảy là, KN nhận thức nhạy bén Là khả năng phát hiện nhanh chóng những diễn biến của quá trình giao tiếp, phát hiện những thay đổi về cử chỉ, điệu bộ, màu sắc... trên nét mặt và tư thế toàn thân của đối tượng để có thể đi đến nắm bắt về những thay đổi bên trong của họ. KN nhận thức tinh tế
  19. 19 đòi hỏi chủ thể phải tinh tế, tinh ý và có kinh nghiệm trực giác, có tư duy linh hoạt, thực tiễn, sáng tạo, có khả năng suy xét, phán đoán, có lối sống phong phú. Tám là, KN chủ động điều khiển quá trình giao tiếp Là khả năng điều khiển chủ thể và đối tượng giao tiếp. Điều khiển bản thân nghĩa là có cử chỉ điệu bộ, ánh mắt, nụ cười, hành vi, phản ứng phù hợp với đối tượng, hoàn cảnh, mục đích, nội dung và nhiệm vụ giao tiếp. KN điều chỉnh bản thân ở việc hướng phản ứng, hành vi của mình theo mục đích, nội dung, nhiệm vụ giao tiếp. Điều khiển người khác là phải hiểu được đặc điểm tâm sinh lý, nhu cầu, ước muốn của đối tượng giao tiếp đồng thời phải nắm được tại thời điểm này đối tượng cần gì, muốn gì, lúc đó cần lựa chọn thời cơ để giao tiếp tốt nhất. Tóm lại KN điều khiển là khả năng sử dụng những tri thức khoa học, vốn sống, nghề nghiệp cá nhân, sự rèn luyên kiên trì, với thái độ thiện cảm, tình yêu thương con người để mở đầu, duy trì và kết thúc quá trình giao tiếp. 3.2.3 Tầm quan trọng của KN mềm (đặc biệt là KN giao tiếp) với SV Trong cuộc sống: Giao tiếp xã hội giữa con người với con người đã góp phần tạo nên những truyền thống, nghi thức, quy tắc đạo đức, giá trị, chuẩn mực xã hội, và cả luật pháp. Tất cả cùng nhau tạo nên một nền tảng của xã hội loài người. Có thể nói giao tiếp xã hội là một trong những thuộc tính đặc biệt và duy nhất giúp loài người khác biệt so với các sinh vật khác. Đó là sự tương tác giữa con người với con người với một số cá nhân, tập thể hoặc cộng đồng. Có thể nói con người không thể sống mà thiếu đi sợi dây liên kết với xung quanh. Ngày nay, khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc tạo ra kết nối ngày càng mở rộng. Điều đó làm cho sự tương tác của con người với con người không chỉ theo chiều rộng mà còn phát triển theo cả chiều sâu. Do đó, ngoài các KN giao tiếp, con người còn phải chuẩn bị cho mình rất nhiều KN như: KN làm việc nhóm, KN tư duy sáng tạo, KN học và tự học, KN lãnh đạo bản thân,…KN mềm cần thiết cho tất cả mọi người từ nam đến nữ, người già người trẻ, cho dù bạn vẫn còn ngồi trên ghế nhà trường hay bạn đã đi làm. Với các bạn SV, việc học tập trau dồi KN mềm lại càng quan trọng. Khi trở thành SV, môi trường thay đổi. Khi còn là
  20. 20 một học sinh, chúng ta chỉ biết học thế nào cho giỏi, để đậu vào đại học. Được bố mẹ lo lắng chu đáo cho từng cái ăn cái mặc, cho nên chúng ta cũng ko mấy quan tâm đến thế giới bên ngoài. Nhưng khi trở thành một SV lại khác, chúng ta phải tự học, làm quen với cuộc sống tự lập, nhất là các SV đi học xa nhà. SV phải làm quen với cuộc sống mới, với những con người mới đến từ những vùng miền khác nhau. Không chỉ làm quen với cuộc sống mới mà các bạn còn làm quen với phương pháp học tập mới. Nếu các bạn vẫn áp dụng phương pháp hôc tập như phổ thông: đến lớp nghe cô giáo giảng, ghi chép bài, chỉ học tập và làm bài tập theo đúng yêu cầu của thầy cô giáo đưa ra, không có bất kỳ sự sáng tạo nào khác trong học tập thì việc học tập như vậy ở đại học của bạn sẽ không mang lại cho bạn kết quả học tập cao như bạn mong muốn. Để đạt được kết quả học tập cao trong trường đại học, ngoài việc lắng nghe thầy cô giáo giảng, tiếp thu ý kiến của thầy cô, bạn còn cần phải tự mình nghiên cứu những tài liệu liên quan đến học tập, và bạn cần phải sáng tạo trong học tập. Môi trường học đại học yêu cầu bạn không chỉ tiếp thu ý kiến từ phía thầy cô mà bạn cần phải nêu lên ý kiến của chính mình, điều này cần bạn tự tin trong giao tiếp. Hơn thế nữa hiện nay rất nhiều trường đại học đào tạo theo hình thức tín chỉ yêu cầu KN học và tự học của SV với những buổi thuyết trình cũng như phản biện rất sôi nổi và bổ ích trên lớp. Vậy nếu như bạn không tự tin, không trau dồi KN thuyết trình, làm việc nhóm, mạnh dạn nói trước đám đông cũng như KN học tập, bạn có thể đạt được kết quả tốt không? Trong môi trường làm việc sau này: KN mềm đóng vai trò chất xúc tác quan trọng giúp cá nhân trang bị những phương pháp làm việc có khoa học, nhanh chóng. Người đã được trang bị KN mềm biết phương pháp tự tạo cho bản thân điều kiện thuận lợi, những cơ hội để phát triển năng lực chuyên môn, và hòa nhập môi trường làm việc sản xuất một cách nhanh chóng và thuận lợi. Đâu là điều làm nên sự thành công của một người thành đạt, phải chăng đó là do họ biết cách lắng nghe người khác, và biết nói người khác nghe. Qua đó chúng ta có thể thấy KN giao tiếp, vai trò của giao tiếp rất quan trọng, đó là hành trang không thể thiếu của một người thành công.
nguon tai.lieu . vn