Xem mẫu

  1. Cơ cấu lại nền kinh tế: Hướng đi nào cho Việt Nam? Khi năng lực được giải phóng Có nhiều nguyên nhân tạo ra thành công trong hơn 20 năm đổi mới của Việt Nam. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất chính là năng lực sản xuất được giải phóng và phát huy. Khi năng lực đã được tích tụ, nền kinh tế có khả năng sản xuất 40 triệu tấn lương thực chỉ cần trả ruộng về tay nông dân là có thể đạt được mức tiềm năng, hay đội ngũ đông đảo doanh nghiệp dân doanh đã được phát huy sở trường nhờ Luật doanh nghiệp năm 2000 để tạo ra làn sóng tăng trưởng mạnh trong gần một thập niên qua. Thành công quả là kỳ diệu với hơn nửa dân số thoát khỏi đói nghèo. Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình (GDP bình quân người từ một nghìn đô-la trở nên) sau khi duy trì được tốc độ tăng trưởng cao (hơn 7,5%) trong hơn 2 thập niên. Nếu dùng những hình ảnh đơn giản thì có thể nói rằng từ một nước thiếu ăn phải nhập khẩu lương thực và nhiều mặt hàng thiết yếu, sau hơn 20 năm Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu thế giới về xuất khẩu nông sản và các mặt hàng gia dụng như: hồ tiêu (số một), gạo và cà phê (số hai), chè, cao su, thủy sản, dệt may, da giày và đồ gỗ. Nói cách khác Việt Nam đã là “nước lớn” về xuất khẩu những mặt hàng kể trên nhờ khai thác thế mạnh của mình. Hơn thế, đây chính là những ngành
  2. giúp giải quyết việc làm và nâng cao đời sống cho phần lớn người dân Việt Nam.Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là các mặt hàng này mới chỉ dừng ở mức sở chế hoặc gia công. Việc đầu tư vào những khâu có giá trị gia tăng cao hơn dường như chưa được quan tâm đúng mức. Hành trang cho tương lai Nhằm đạt được mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, trong thời gian qua, nhiều ngành công nghiệp như: sản xuất ô tô, sắt thép, hay đóng tàu đã được đầu tư hay trợ cấp thông qua ưu đãi thuế nhiều tỷ đô- la. Tuy nhiên, chắc hẳn nhiều người sẽ e dè khi nói rằng đây là những ngành thế mạnh và hứa hẹn của Việt Nam cho dù hầu hết các nhà sản xuất ô tô hàng đầu thế giới đã có mặt tại Việt Nam và cách đây vài năm Việt Nam đã ký hợp đồng đóng những con tàu trọng tải trên 50 nghìn tấn. Đơn giản là việc phát triển chúng không dựa vào thế mạnh quốc gia mà do những yếu tố khác. Ví dụ về ngành sản xuất ô tô là một khía cạnh. Ngược lại, khi Việt Nam xây dựng chính sách công nghiệp cách đây hơn một thập kỷ, ít ai nghĩ rằng sẽ có ngày các hãng công nghệ hàng đầu như Intel, Canon hay Samsung bỏ hàng tỷ đô-la xây dựng các nhà máy hiện đại tại Việt Nam. Tại sao các hãng này lại đặt cược hàng tỷ đô-la vào Việt Nam? Câu trả lời có lẽ nằm ở hai lý do:
  3. Thứ nhất, tiềm năng thị trường Việt Nam lớn. Ví dụ chỉ cần 1/10 dân số Việt Nam sử dụng con chip của Intel thì quy mô thị trường đã lên đến ba bốn tỷ đô-la. Thứ hai, tiềm năng về nguồn nhân lực chất lượng cao. Tuy chất lượng giáo dục đang có vấn đề, ví dụ vào đầu năm 2008, theo Báo Tuổi Trẻ “sau một năm trực tiếp khảo sát gần 2.000 sinh viên năm cuối tại năm trường đại học chuyên ngành kỹ thuật lớn nhất Việt Nam, họ [Intel] chỉ chọn được 40 sinh viên đủ khả năng”, nhưng nhìn vào tố chất của người Việt, nhất là sự cần cù và khả năng sáng tạo, thì tiềm năng về nguồn nhân lực chất lượng cao là rất rõ ràng. Đây có lẽ là những ngành mà Việt Nam có tiềm năng dựa vào thế mạnh của mình. Tuy nhiên, với điều kiện hiện tại, rất khó để Việt Nam tự phát triển, việc dựa vào những người đi đầu có lẽ là chiến lược hợp lý hơn cả. Cám dỗ về các ngành công nghiệp hiện đại Những người sáng lập ra kinh tế phát triển cho rằng (1) loại sản phẩm mà một quốc gia xuất khẩu có ý nghĩa đến thành quả kinh tế và (2) công nghiệp hóa tạo ra sự lan truyền lợi ích mà chúng dẫn đến tăng trưởng. Tuy nhiên, do thiếu các mô hình chính thức, lý thuyết kinh tế học chính thống đã không thể kết hợp được các ý tưởng này. Thay vào đó hai cách tiếp cận được sử dụng để giải thích cho sự chuyên môn hóa của các quốc gia. Cách tiếp cận thứ nhất tập trung vào tỷ phần tương đối giữa các nhân tố sản xuất (vốn vật chất, lao động, đất đai, kỹ năng, vốn nhân lực, cơ sở hạ tầng và
  4. thể chế). Các nước nghèo tập trung vào sản xuất các loại hàng hóa thâm dụng lao động không có kỹ năng, đất đai, trong khi các nước giàu chuyên môn hóa các sản phẩm đòi hỏi cơ sở hạ tầng, thể chế cũng như vốn nhân lực và vốn vật chất. Cách tiếp cận thứ hai nhấn mạnh đến sự khác biệt về công nghệ và phải được bổ sung bằng một lý thuyết về điều gì dẫn đến sự khác biệt. Những mô hình về sự đa dạng và những nấc thang chất lượng giả định rằng luôn có một sản phẩm tân tiến hơn một chút hay chỉ là một sản phẩm khác mà các nước có thể tham gia mà không cần để ý đến sự tương tự của sản phẩm khi xem xét tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu. Trên thực tế nhiều nước đang hưởng lợi rất nhiều từ phân công lao động, nhưng do yếu tố chính trị học, nên cách tiếp cận thứ nhất có vẻ không được các nước đang phát triển chú ý vì ít ai muốn chuyên môn hóa vào việc “bán sức lao động”. Ngược lại, cách thứ hai có vẻ lý tưởng vì nước nào cũng mong muốn có những ngành công nghiệp “mũi nhọn”, hàm lượng công nghệ cao. Lập luận một quốc gia có thể chuyển sang sản xuất những mặt hàng tân tiến mà không cần quan tâm đến nền tảng hiện tại cộng với hình ảnh so sánh một tấn gạo xuất khẩu chỉ đem lại khoảng 400 đô-la, chỉ bằng một cái máy ảnh nặng chừng 100 gam hay một con chip chưa đến vài gam quả là cám dỗ để nhiều nước tập trung nguồn lực cho những ngành thâm dụng vốn và chất xám vì họ cho rằng không thể giàu được nếu cứ sản xuất giản đơn. Tuy nhiên, mong muốn và khả năng thường là hai phạm trù khá khác biệt.
  5. Lý thuyết về bước nhảy của đàn khỉ Trên cơ sở lập của Adam Smith, “Bí mật về sự giàu của các quốc gia liên quan đến sự phân công lao động. Khi con người và các doanh nghiệp chuyên môn hóa vào những hoạt động khác nhau hiệu quả kinh tế sẽ gia tăng.” và những bất cập của hai cách tiếp cận nêu trên, nhóm học giả gồm: Barabási, Hausmann, Hidalgo, Klinger thuộc Đại học Harvard đã đưa ra lý thuyết về bước nhảy của những con khỉ (monkey jumping) bằng việc phân tích thực nghiệm quá trình phát triển sản phẩm và công nghiệp hóa của các nền kinh tế trên thế giới. Hình dung một sản phẩm như một cái cây và tất cả các sản phẩm như một khu rừng. Một quốc gia bao gồm một tập hợp các doanh nghiệp, giả định giống như những con khỉ sống trên những cái cây khác nhau và khai thác những sản phẩm này. Quá trình tăng trưởng giống như việc di chuyển từ phần rừng còi cọc nơi mà những cái cây có ít trái hơn sang những vùng tươi tốt hơn. Điều này có nghĩa rằng những con khỉ phải nhảy qua những khoảng cách, hay các doanh nghiệp phải sắp xếp lại nguồn nhân lực, vốn vật chất và thể chế hướng vào sản phẩm mới khác với hoạt động sản xuất hiện tại. Các lý thuyết tăng trưởng truyền thống giả định rằng luôn có những cái cây trong tầm với, và vì vậy cấu trúc của cánh rừng là không quan trọng. Tuy nhiên, nếu cánh rừng này không đồng nhất, nơi thì đông đúc, nơi thì thưa thớt và nếu những con khỉ chỉ có khả năng nhảy những khoảng cách giới hạn, thì cấu trúc của không gian sản phẩm và định hướng của một nước trở nên cực kỳ quan trọng đến sự phát triển.
  6. Theo lý thuyết, nhiều yếu tố khả dĩ có thể tạo ra sự liên hệ giữa các sản phẩm – sự gần gũi giữa các cây – ví dụ như: sự tập trung lao động, đất đai và vốn, mức độ tinh vi của công nghệ, nhập lượng và xuất lượng tham gia trong chuỗi giá trị của sản phẩm (bông vải, sợi, vải, may) hoặc các thể chế yêu cầu. Vấn đề đặt ra là sự tương tự theo khía cạnh hay chiều nào là quan trọng? Nếu hai loại hàng hóa liên quan với nhau vì chúng cùng yêu cầu những thể chế, cơ sở hạ tầng, yếu tố vật chất, công nghệ giống nhau hay là một sự kết hợp nào đó thì chúng có thể sản xuất nối tiếp, ngược lại những sản phẩm không tương tự ít có khả năng sản xuất cùng nhau. Điều này được gọi là sự “gần gũi” (proximity) mà nó làm cho khả năng sản xuất một sản phẩm mới của một quốc gia phụ thuộc vào khả năng sản xuất những sản phẩm khác của nước này.
nguon tai.lieu . vn