Xem mẫu

  1. ĐỀ ÁN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 2011-2020 ______________________________________________________ DỰ THẢO CHUYÊN ĐỀ Thực trạng, định hướng và giải pháp đẩy mạnh đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, hàng thay thế nhập khẩu đến năm 2020 Người thực hiện: PGS.TS. Bùi Tất Thắng Ths. Nguyễn Hoàng Hà CN. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh CN. Phan Thị Sông Thương Đơn vị công tác: Viện Chiến lược Phát triển Hà Nội, 11 - 2010
  2. MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................. 1 I. QUAN NIỆM CHUNG ................................................................................. 3 1. Hàng hóa thay thế nhập khẩu ...................................................................... 3 2. Hàng hóa hướng xuất khẩu ......................................................................... 3 II. HIỆN TRẠNG ĐẦU TƯ NHỮNG NGÀNH HÀNG THAY THẾ NHẬP KHẨU VÀ HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU .......................................................... 4 1. Hàng hóa thay thế nhập khẩu ...................................................................... 4 1.1. Thực trạng nhập khẩu .......................................................................... 4 1.2. Thực trạng đầu tư hàng hóa thay thế nhập khảu .................................. 8 2. Nhóm hàng hóa định hướng xuất khẩu ..................................................... 14 2.1. Thực trạng về xuất khẩu .................................................................... 14 2.2. Thực trạng đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu ....................................... 18 III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH.................................. 23 1. Đối với hàng hóa thay thế nhập khẩu ........................................................ 23 1.1. Định hướng đầu tư phát triển sản xuất hàng thay thế nhập khẩu ....... 23 1.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư sản xuất hàng thay thế nhập khẩu ................................................................................................................. 24 2. Đối với hàng hóa hướng xuất khẩu ........................................................... 25 2.1. Định hướng sản xuất hàng hóa hướng xuất khẩu ............................... 25 2.2. Giải pháp về đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu .................................... 27 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 30 ii
  3. LỜI NÓI ĐẦU Trong suốt gần hai mươi tư năm mở cửa, từ năm 1986 cho đến nay (2010), Việt Nam gần như nhập siêu tất cả các năm (trừ năm 1992 có xuất siêu với giá trị không đáng kể), đặc biệt trong 4 năm trở lại đây, mức xuất siêu đã vượt trên mức 10 tỷ USD (trong đó năm 2008 là 18 tỷ USD, gần bằng 20% GDP). Chính điều này là một trong những nguyên nhân khiến không ít nhà kinh tế nhận định nền kinh tế Việt Nam thiếu đi tính ổn định cao, mặc dù chúng ta đã tăng trưởng liên tục trong suốt 20 năm qua với tốc độ khoảng 6%. Nhập siêu trường kỳ đã làm cho cán cân thanh toán (CA) luôn rơi vào trạng thái âm và dự trữ ngoại tệ của Việt Nam đang có chiều hướng giảm dần, thậm chí cạn kiệt một khi dòng FDI và dòng ngoại hối không tăng thêm. Nguyên nhân nào khiến nhập siêu liên tục qua các năm và ở mức cao như vậy? Nếu như tình trạng nhập siêu chỉ diễn ra trong khoảng 10-15 năm thì sẽ không có gì đáng bàn nhưng nếu đó là 24 năm thì câu chuyện sẽ lại là khác. Phải chăng nền sản xuất nội địa của Việt Nam chưa được cải thiện nhiều nên phải nhập khẩu lớn các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ từ bên ngoài? Câu trả lời chắc chắn là có. Bài nghiên cứu này, không đi sâu tìm hiểu câu trả lời đó mà đi tìm một trong những nguyên nhân lý giải cho biết tại sao nền sản xuất nội địa của chúng ta vẫn chưa tốt – vốn đầu tư và chính sách đầu tư đối với sản xuất hàng thay thế nhập khẩu và xuất khẩu. Thật khó có thể tìm được số liệu để minh chứng cho những nhận định có phần định tính và mang tính chủ quan của nhóm tác giả bởi trên thực tế, hiện nay, chúng ta chưa xác định rõ hàng hóa nào là hàng hóa thay thế nhập khẩu và hàng hóa nào là hàng hóa xuất khẩu. Bởi lẽ, một quốc gia mở cửa hội nhập kinh tế với thế giới thì quốc gia đó chắc chắn có cả hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu dù quốc gia đó dù có lợi thế tuyệt đối đến mấy (đã được minh chứng bằng cả lý thuyết và thực tiễn). Nhiều hàng hóa quốc gia nhập khẩu có lợi thế hơn là trong nước sản xuất và đó cũng là một nguyên nhân thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa kinh tế mà Việt Nam cũng là “một người chơi”. Do vậy, không phải hàng hóa nhập khẩu nào cũng được xác định là hàng hóa cần thay thế nhập khẩu và tương tự, không phải hàng hóa xuất khẩu nào cũng là hàng hóa mà chúng ta mong muốn xuất khẩu, đặc biệt là nguyên, nhiên liệu thô và hàng sơ cấp, ít chế biến cho giá trị thấp. Một đặc điểm nữa, cần lưu ý, những hàng hóa mà ta cần thay thế nhập khẩu và hướng tới xuất khẩu trong thời gian hiện tại sẽ có thể không 1
  4. còn phù hợp trong tương lai. Hay nói cách khác, chúng có tính “động” theo thời gian và trong báo cáo này là khoảng thời gian từ nay cho đến năm 2020. Mục tiêu của báo cáo chuyên đề là: - Xác định được hàng hóa cần thay thế nhập khẩu và cần hướng xuất khẩu trong thời gian tới (đến năm 2020) - Đánh giá khái quát hiện trạng đầu tư đối với những nhóm ngành sản phẩm hàng hóa đó - Định hướng và kiến nghị chính sách. Đó cũng chính là những nội dung và khung kết cấu của chuyên đề “Thực trạng, định hướng và giải pháp đẩy mạnh đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, hàng thay thế nhập khẩu đến năm 2020”. Nhóm tác giả 2
  5. I. QUAN NIỆM CHUNG 1. Hàng hóa thay thế nhập khẩu Hàng hóa thay thế nhập khẩu là những mặt hàng mà một quốc gia có khả năng sản xuất thay thế hàng nhập khẩu dựa trên năng lực huy động và sử dụng nguồn lực trong nước và nước ngoài. Theo đó, các quốc gia xác định loại hàng hóa nào cần được đầu tư sản xuất trong nước nhằm hạn chế nhập khẩu và hướng đến cân bằng cán cân thương mại. Tùy vào từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, loại hàng hóa được lựa chọn để đầu tư sản xuất thay thế nhập khẩu cũng thay đổi cho phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế ấy. Thực tế cho thấy những mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua chủ yếu là nhóm hàng nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng, và máy móc thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất trong nước. Đây là những mặt hàng Việt Nam có khả năng đầu tư sản xuất thay vì phải nhập khẩu từ nước ngoài, nhất là trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hóa. Do vậy, hàng hóa thay thế nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn này chủ yếu là những sản phẩm thuộc ngành công nghiệp phụ trợ - ngành cung cấp yếu tố đầu vào cho hoạt động sản xuất hướng đến xuất khẩu. Qua đó tăng giá trị gia tăng của sản phẩm trong chuỗi giá trị toàn cầu khi tham gia vào thị trường thế giới. Để xác định nên đầu tư vào loại hàng hóa thay thế nhập khẩu cần phải dựa trên yếu tố cơ bản sau: - Có giá trị kim ngạch tương đối lớn trong tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu quốc gia. - Có khả năng huy động và sử dụng nguồn lực trong nước và nước ngoài để đầu tư sản xuất bao gồm nguồn vốn, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, khoa học công nghệ, thông tin. - Phù hợp với định hướng chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. 2. Hàng hóa hướng xuất khẩu Hàng xuất khẩu chủ lực là các mặt hàng chiếm vị trí quyết định trong kim ngạch xuất khẩu do có thị trường ngoài nước và điều kiện sản xuất trong nước thuận lợi. Ở Việt Nam, vấn đề xây dựng các mặt hàng chủ lực đó được Nhà nước đề ra từ cuối những năm 1960. Tuy nhiên, chỉ mới gần đây, khi chúng ta tiếp xúc mạnh mẽ với nền kinh tế thị trường của thế giới thì chúng ta mới ý thức được một cách nghiêm túc tầm quan trọng của vấn đề này. Mặt hàng chủ lực được hình thành trước hết qua quá trình thâm nhập vào thị trường nước ngoài, qua những cuộc cọ sát, cạnh tranh mãnh liệt trên thị trường thế giới, kéo theo 3
  6. việc tổ chức sản xuất trong nước trên qui mô lớn với chất lượng phù hợp với đòi hỏi của người tiêu dùng, đứng vững và liên tục phát triển. Một mặt hàng xuất khẩu chủ lực ra đời cần có ít nhất 3 yếu tố cơ bản: + Có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định và luôn cạnh tranh được trên thị trường đó. + Có nguồn lực để tổ chức sản xuất với chi phí thấp tương đối so với các sản phẩm cạnh tranh khác để có thể vừa đảm bảo khả năng cạnh tranh vừa mang lại hiệu quả cao hơn. + Có khối lượng kim ngạch lớn trong tổng khối lượng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia. Tuy nhiên, vị trí của mặt hàng xuất khẩu chủ lực không phải là vĩnh viễn mà trong quá trình phát triển luôn diễn ra những vận động, biến đổi của thị trường, kéo theo nó là sự vận động và biến đổi cơ cấu các sản phẩm làm thay đổi vị trí của các sản phẩm trên thị trường. Do vậy, việc xác định và xây dựng cơ cấu các sản phẩm xuất khẩu chủ lực không chỉ căn cứ vào khả năng sẵn có và nội lực trong nước, vào nhu cầu và khả năng hiện tại trên thị trường thế giới mà còn phải tính đến những xu hướng và diễn biến thị trường trong tương lai. Tóm lại, mặt hàng xuất khẩu chủ lực là những mặt hàng có vị trí đáng kể trong tổng giá trị xuất khẩu của một đất nước và có ảnh hưởng ít nhiều trên thương trường quốc tế. Ở một chừng mực nhất, định chúng phản ánh thế lực kinh tế của một nước trong nền kinh tế thị trường. II. HIỆN TRẠNG ĐẦU TƯ NHỮNG NGÀNH HÀNG THAY THẾ NHẬP KHẨU VÀ HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU 1. Hàng hóa thay thế nhập khẩu 1.1. Thực trạng nhập khẩu Việt Nam đang đứng trước thực trạng nhập siêu liên tiếp trong thời gian qua, kim ngạch nhập siêu của hầu hết các năm từ 2009 trở về trước đều bằng hơn 20% kim ngạch xuất khẩu. Một số mặt hàng nhập khẩu do không chủ động được nguyên, phụ liệu… nhập khẩu lớn như: dệt may, đồ gỗ, da giày, thiết bị công nghệ cho một số ngành công nghiệp thiết yếu. Phần lớn khoảng 90% hàng hóa nhập khẩu của nước ta là từ nhóm hàng tư liệu sản xuất (Bảng 1). Trong đó, nhập khẩu nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, trên 60% tổng kim ngạch nhập khẩu giai đoạn 2000-2010. Bảng 1: Giá trị nhập khẩu hàng hóa phân theo nhóm hàng 4
  7. ĐVT: Triệu USD 2000 2005 2008 sơ bộ 2009 Nhóm hàng TT TT KN TT (%) KN TT (%) KN (%) KN (%) TỔNG SỐ 15636.5 100.0 36761.1 100.0 80713.8 100.0 69948.8 100.0 Tư liệu sản xuất 14668.2 93.8 32949.2 89.6 71715.9 88.9 63121.8 90.2 Máy móc, thiết bị, 4781.5 30.6 9285.3 25.3 22566.7 28.0 20500.8 29.3 dụng cụ, phụ tùng Nguyên, nhiên, vật liệu 9886.7 63.2 23663.9 64.4 49149.2 60.9 42621.0 60.9 Hàng tiêu dùng 968.3 6.2 2992.5 8.1 6269.9 7.8 6500.0 9.3 Lương thực 0.3 0.0 3.8 0.0 3.8 0.0 Thực phẩm 301.8 1.9 1100.2 3.0 2190.2 2.7 Hàng y tế 333.8 2.1 527.1 1.4 890.2 1.1 1097.0 1.6 Hàng khác 332.4 2.1 1361.4 3.7 3185.7 3.9 Nguồn: Tổng cục thống kê Nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất trong nước thời gian qua đang có xu hướng tăng (trừ năm 2009 do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu). Nếu chỉ xét trong nhóm hàng tư liệu sản xuất, hình 1 cho thấy giá trị nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu có xu hướng tăng nhanh hơn so với mặt hàng máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng. Hình 1: Giá trị nhập khẩu hàng hóa theo hai nhóm hàng chính Nguồn: Tổng cục thống kê 5
  8. Việt Nam được đánh giá là có điều kiện để phát triển sản xuất các mặt hàng nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất trong nước hướng đến xuất khẩu. Tuy nhiên, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Bảng…sẽ chi tiết một số mặt hàng nhập khẩu chính giai đoạn 2000-2009. Bảng 2: Tình hình nhập khẩu một số hàng hóa chủ yếu của Việt Nam giai đoạn 2005 -2010 ĐVT: Triệu USD Tên hàng 2005 2006 2007 2008 2009 9T/2010 Sữa và SP sữa 311 321 462 534 515 545 Lúa mỳ 201 225 343 293 345 374 Bột mỳ 9 9 24 26 Dầu mỡ động thực vật 193 257 485 666 495 431 Đờng 22 49 10 36 Thức ăn gia súc và NPL chế 594 737 1.181 1.747 1.765 1.669 biến NPL thuốc lá 198 161 205 246 321 227.376 Clinker 127 110 119 165 133 67.715 Xăng dầu các loại 5.024 5.97 7.71 10.966 6.255 4.770 Xăng 1.338 1.711 2.261 3.157 1.969 1.119 Dầu Do 2.715 3.188 4.096 6.039 Dầu Fo 564 624 834 1.024 Nhiên liệu bay 239 305 358 617 378 424 Dầu hoả 169 141 162 129 26 13 Hoá chất 865 1.042 1.466 1.776 1.624 1.468 Các SP hoá chất 841 1.007 1.285 1.604 Bột ngọt 1 3 1 5 NPL dợc phẩm 116 133 158 158 168 141 Tân dược 502 548 703 864 1.096 931 Phân bón các loại 641 687 1 1.473 1.414 701 Phân U rê 216 176 200 286 416 174 Phân NPK 41 36 77 99 132 68 6
  9. Phân DAP 165 226 263 379 374 147 Phân SA 90 78 137 184 156 60 Phân bón loại khác 129 171 323 524 278 189 Thuốc trừ sâu và NL 243 305 383 474 488 370 Chất dẻo NL 1.456 1.866 2.507 2.945 2.813 2.714 Cao su 216 416 379 497 409 442 Gỗ và SP gỗ 651 775 1.016 1.098 904 216 Bột giấy 71 81 85 117 Giấy các loại 362 475 600 753 770 637 Giấy in báo 10 0 34 46 Bông 167 219 267 467 392 488 Sợi 340 544 741 775 801 795 Vải 2.399 2.985 3.957 4.458 4.226 3.863 NPL dệt may, da giầy 2.282 1.951 2.152 2.355 * 1.895 Kính xây dựng 9 11 16 37 Sắt thép 2.931 2.936 5.112 6.721 5.360 4.313 Phôi thép 838 750 1.103 1.636 1.032 803 Kim loại thờng khác 797 1.46 1.885 1.785 1.624 1.813 Máy vi tính, SP điện tử 1.706 2.048 2.958 3.714 3.953 3.532 Máy móc thiết bị 5.281 6.628 11.123 13.994 12.673 9.701 ô to nguyên chiếc 285 213 579 1.04 * 683 Dưới 12 13 28 192 375 Trên 12 chỗ 23 10 25 22 ô tô tải 183 122 191 326 418 249 ô tô loại khác 64 52 171 316 Linh kiện và phụ tùng ô tô 909 759 1.302 1.918 * 1.404 Linh kiện ô tô CKD, SKD dới 446 280 533 796 12 chỗ Linh kiện ô tô CKD, SKD loại 350 225 389 604 khác Phụ tùng ô tô 113 253 381 519 Xe máy 541 557 725 764 7
  10. Xe máy nguyên chiếc 66 77 145 139 132 92 Linh kiện và phụ tùng xe máy 476 481 580 625 * 563 Hàng hóa khác 0 0 11.535 15.947 7.625 7.127 Nguồn: Tổng cục hải quan Dưới tác động của cuộc khủng hoàng tài chính ngày càng lan rộng và sự giảm giá của đồng USD, tình hình sản xuất và xuất khẩu của các nước trên thế giới gặp nhiều khó khăn. Nhu cầu nhập khẩu hàng hóa phục vụ cho hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu dùng trong nước có phần hạn chế. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong năm 2009 chỉ đạt 68,97 tỷ USD, giảm 18,2% so với năm 2008. Bước sang năm 2010, tình hình kinh tế thế giới dần phục hồi, nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của các nước cũng tăng theo. Các doanh nghiệp tiếp tục nhập khẩu hàng hóa và nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất. Chỉ tính riêng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong 9 tháng đầu năm 2010 của Việt Nam đã lên tới 58,69 tỷ USD, tăng 23,46% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, đứng đầu là nhập khẩu máy móc thiết bị, với kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này trong 9 tháng đầu năm 2010 đạt 9,7 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2009. Tiếp đến là vải với kim ngạch nhập khẩu đạt 3,8 tỷ USD, tăng 26,8%; chất dẻo nguyên liệu với kim ngạch nhập khẩu đạt 2,7 tỷ USD tăng 35,6%... Đáng chú ý, trong 9 tháng đầu năm 2010, mặt hàng bông nhập khẩu về tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2009, với lượng và kim ngạch bông nhập về đạt 276,4 triệu tấn và 488 triệu USD, tăng tương ứng 26,70% về lượng và 78,70% về kim ngạch. 1.2. Thực trạng đầu tư hàng hóa thay thế nhập khảu Trên cơ sở đánh giá tình hình nhập khẩu trong thời gian qua, có thể thấy các mặt hàng nguyên nhiên vật liệu và linh kiện, phụ tùng phục vụ cho sản xuất là những mặt hàng nhập khẩu có giá trị lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Theo kinh nghiệm của các nước và dựa trên các nguồn lực sẵn có, Việt Nam có khả năng và nên đầu tư và phát triển sản xuất những ngành hàng này để hạn chế nhập khẩu. Do vậy, với mong muốn hạn chế nhập siêu, Chính phủ Việt Nam đã và đang từng bước chú trọng đầu tư vào ngành công nghiệp phụ trợ1, một ngành đóng vai trò quan trọng trong việc tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá theo hướng mở rộng và chuyên sâu. Sản xuất nguyên phụ liệu, linh kiện, phụ tùng, 1 Công nghiệp phụ trợ (supporting industries) là khái niệm chỉ toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính. Cụ thể là những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm, v.v., và cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế. Sản phẩm công nghiệp phụ trợ thường được sản xuất với quy mô nhỏ, thực hiện bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 8
  11. máy móc là những sản phẩm chủ yếu chúng ta đang hướng đến sản xuất để thay thế hàng nhập khẩu. Bài viết sẽ tập trung phân tích thực trạng đầu tư và sản xuất ngành cộng nghiệp phụ trợ trước khi đưa ra định hướng và giải pháp cho lĩnh vực này. Công nghiệp phụ trợ được xem là "chìa khóa vàng" thúc đẩy phát triển công nghiệp. Thế nhưng, ngành công nghiệp phụ trợ hiện đang yếu thế bởi phần lớn sản phẩm công nghiệp phụ trợ vẫn phải nhập khẩu. Theo ước tính của Bộ Công nghiệp, ngành công nghiệp phụ trợ hiện lệ thuộc đến gần 80% vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Thực trạng này là do các doanh nghiệp Việt Nam không muốn đầu tư nhà xưởng vì lâu thu hồi vốn, họ chỉ thích nhập về bán lại thu lợi nhuận. Trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã tiếp cận khá thuận lợi nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam đang bỏ lỡ một cơ hội lớn là trong khi các nguồn vốn đầu tư nước ngoài chảy vào mạnh thì khả năng hấp thụ, tiếp thu chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại hạn chế. Lý do chính là Việt Nam thiếu vắng hẳn một nền công nghiệp phụ trợ. Có quá ít doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sản xuất trong ngành công nghiệp phụ trợ, nếu có thì chủ yếu tham gia khâu đóng gói, bao bì. Hiện tại, phần lớn các nhà cung cấp linh kiện phụ tùng cho các công ty nước ngoài chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Khoảng cách về tiêu chuẩn chất lượng giữa các nhà doanh nghiệp trong và ngoài nước khá lớn. Doanh nghiệp trong nước có quy mô nhỏ và vừa nên khả năng đáp ứng về yêu cầu chất lượng kém. Các doanh nghiệp quốc doanh trong ngành công nghiệp phụ trợ vẫn duy trì phong cách làm ăn tự cung tự cấp. Thực tế, Việt Nam có rất ít thông tin liên kết thầu phụ công nghiệp. Vì vậy, không tìm kiếm được những thông tin về khả năng giao thầu của doanh nghiệp lớn, nhất là doanh nghiệp nước ngoài và ngược lại, các doanh nghiệp nước ngoài cũng ít thông tin về doanh nghiệp Việt Nam. Thêm nữa, các doanh nghiệp nước ngoài thực sự ngần ngại khi phải ký kết hợp đồng thương mại với các nhà thầu phụ Việt Nam do môi trường pháp lý chưa thực sự thuận lợi. Vấn đề chính là nỗi lo sợ khi bị phá vỡ hợp đồng. Các nhà cung ứng Việt Nam thiếu hiểu biết về các khía cạnh pháp lý của hợp đồng. Bên cạnh đó, việc liên kết doanh nghiệp có ý nghĩa về mặt nâng cao khả năng cạnh tranh trong nội bộ ngành, sử dụng lợi thế cạnh tranh của khu vực, khai thác chuỗi giá trị để tạo nên sản phẩm mang tính cạnh tranh cao. Ở nhiều nước, việc liên kết này có thể hình thành thông qua việc phát triển các cụm công nghiệp. Trên thực tế, ở Việt Nam các cụm công nghiệp được hình thành thiếu quy hoạch 9
  12. tổng thể, chủ yếu để giải quyết vấn đề mặt bằng sản xuất hơn là việc tạo nên chuỗi giá trị thông qua việc liên kết doanh nghiệp, kể cả sử dụng các dịch vụ tài chính và phi tài chính để khai thác lợi thế cạnh tranh. Nhìn chung, Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng nhập siêu thiết bị, máy móc, linh kiện các loại. Điều này chứng tỏ các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu vẫn chủ yếu dựa trên nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu. Sản phẩm của ngành công nghiệp phụ trợ hiện nay phần lớn là những sản phẩm có chất lượng thấp và giá thành cao. Hầu hết các ngành công nghiệp gần như chỉ mới phát triển ở khu vực hạ nguồn (gia công công đoạn cuối của sản phẩm), còn khu vực thượng nguồn (công nghiệp phụ trợ), bao gồm các ngành sản xuất nguyên phụ liệu, linh kiện, phụ tùng còn kém phát triển. Hiện tượng này có thể thấy rõ trong một số ngành sản phẩm công nghiệp phụ trợ tiêu biểu sau: (1). Sản phẩm công nghiệp phụ trợ ngành lắp ráp Đối với ngành này, hiện mới chỉ có một số công ty và doanh nghiệp có công nghệ và đang sản xuất phụ tùng lắp ráp. Tuy nhiên, rất ít doanh nghiệp trong nước có khả năng đáp ứng được yêu cầu (đặc biệt là cho các nhà lắp ráp nước ngoài) do chất lượng kém, độ chính xác thấp, không đảm bảo tiêu chuẩn của đối tác. Theo thống kê của Bộ Công nghiệp, hiện nay có trên 230 doanh nghiệp đang sản xuất linh kiện, phụ tùng cung cấp cho các doanh nghiệp lắp ráp xe máy, trong đó có hơn 80 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với số vốn đạt trên 260 triệu USD, nhưng so sánh thì chất lượng kém hơn nhiều so với của Nhật, Thái Lan, Đài Loan. Ngoài ra hệ thống phân phối phụ tùng, chủng loại sản phẩm và dịch vụ sau bán hàng của các doanh nghiệp này cũng còn nhiều hạn chế. (2). Sản phẩm công nghiệp phụ trợ ngành nhựa Sản phẩm nhựa ngày càng phổ biến ở thị trường nội địa. Trong nước, sản phẩm nhựa cũng đã có mặt trong hầu hết các ngành, từ công nghiệp, nông nghiệp đến giao thông vận tải, xây dựng… Những sản phẩm đòi hỏi chất lượng cao như ống dẫn dầu, đồ nhựa cho ôtô hay máy vi tính cũng đã được các doanh nghiệp sản xuất thành công, thay thế hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, năng lực sản xuất và công nghệ hạn chế. Phần lớn các doanh nghiệp nhựa đều phát triển từ các công ty gia đình. Nguồn vốn ít, trình độ quản lý hạn chế, thiếu thông tin cập nhật nên những doanh nghiệp này thường đầu tư chủ yếu vào những mặt hàng đơn giản, thâm dụng lao động và có tỷ suất lợi nhuận thấp. Do vây, ngành vẫn phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Hiện mỗi năm ngành nhựa cần 1.5 triệu tấn nguyên phụ liệu, trong khi sản xuất nội địa mới đáp ứng khoảng 300,000 tấn. Sản xuất chất dẻo trong nước hiện nay chỉ đáp ứng được khoảng 10 10
  13. – 15% nhu cầu nguyên vật liệu, và ngành nhựa vẫn còn phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu. Hiện có khoảng 200 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đúc nhựa nhưng chủ yếu là sản xuất hàng tiêu dùng thông thường. Ngành nhựa bao bì có 702 doanh nghiệp, chiếm 35.1%, nhựa gia dụng có 794 doanh nghiệp, chiếm 39.7%, trong khi nhựa kỹ thuật chỉ có 272 doanh nghiệp, chiếm 13.6%. Hầu hết các doanh nghiệp chưa chú trọng đầu tư công nghệ cho các sản phẩm nhựa kỹ thuật cao, đặc biệt là các loại bao bì tự hủy, sản phẩm phục vụ nội địa hóa ngành ôtô, xe máy, điện tử, sản phẩm phục vụ sản xuất nông nghiệp và hạ tầng cấp thoát nước, các sản phẩm nhựa tiêu dùng… Vì thế, ngành nhựa Việt Nam vẫn phải sử dụng sản phẩm chế tạo từ nước ngoài và chưa thể trở thành ngành công nghiệp phụ trợ cho các ngành sản xuất khác. (3). Sản phẩm công nghiệp phụ trợ dệt may Dệt may là ngành có thị trường lớn, nhưng do chưa có chính sách khuyến khích đầu tư phù hợp nên lĩnh vực công nghiệp phụ trợ vẫn chậm phát triển. Hàng năm, ngành may sử dụng không dưới 500 triệu mét vuông vải để làm hàng xuất khẩu, nhưng đến 80% vải cung cấp cho ngành may xuất khẩu lại đến từ nước ngoài. Hơn nữa, nguyên phụ liệu may nhập khẩu để làm hàng xuất khẩu được miễn thuế hoàn toàn. Trong khi đó, Chính phủ lại chưa có chính sách ưu đãi đủ mạnh để khuyến khích các công ty may sử dụng nguyên phụ liệu trong nước, ngoại trừ một số ưu tiên về phân bổ hạn ngạch xuất khẩu. Vì vậy, ngành vẫn trong tình trạng phụ thuộc rất lớn vào việc nhập khẩu nguyên phụ liệu từ Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan. Mặc dù ngành sản xuất nguyên phụ liệu trong nước trong vài năm gần đây có phát triển, song vẫn không đáp ứng được nhu cầu. Hiện ngành dệt may nhập khẩu khoảng 80% sợi polyeste và các phụ kiện như chỉ, da, nút áo, khóa. (4). Sản phẩm công nghiệp phụ trợ ngành xe máy Ngành xe máy có thể xem là đạt được tỷ lệ nội địa hóa cao nhất trong các ngành. Với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tỷ lệ nội địa hóa đạt được xấp xỉ 70-75%, các doanh nghiệp trong nước tỷ lệ đạt có thấp hơn nhưng so với các ngành khác như ô tô, dệt may…, có thể coi đây là một tiến bộ trong việc phát triển ngành công nghiệp phụ trợ. Sau khi quy định về tỷ lệ nội địa hóa tối thiểu được bãi bỏ, nhiều ý kiến cho rằng doanh nghiệp sẽ tập trung vào lắp ráp mà không đầu tư vào sản xuất linh kiện để nâng cao tỷ lệ nội địa hóa. Tuy nhiên, thực tế ngành công nghiệp xe máy Việt Nam đã chứng minh điều ngược lại. Quy định tỷ lệ nội địa hóa tối 11
  14. thiểu là 20%, nhưng trên thực tế tỷ lệ nội địa hóa mà đa số doanh nghiệp đạt được cho tới nay thấp nhất là 60%. Do thuế suất thuế nhập khẩu linh kiện còn ở mức tương đối cao từ 30-50% nên doanh nghiệp phải tập trung đầu tư chiều sâu, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa để giảm giá thành sản phẩm. Dự kiến, tỷ lệ nội địa hóa sẽ tăng nữa, vì nhiều doanh nghiệp FDI sẵn sàng đầu tư cho cuộc cạnh tranh mới này. Bên cạnh những thành tựu đạt được, ngành công nghiệp phụ trợ xe máy còn tồn tại nhiều vấn đề. Sản phẩm của các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp phụ trợ cho xe máy chỉ là các chi tiết linh kiện sản xuất với kỹ thuật công nghệ đơn giản như: giảm xóc, đồng hồ báo xăng, bộ dây điện, yên xe. Chưa có doanh nghiệp nào đầu tư sản xuất các bộ phận chính quan trọng đòi hỏi kỹ thuật, công nghệ cao như động cơ, hộp… Về số lượng các nhà đầu tư sản xuất linh kiện nội địa, năm 2003, số doanh nghiệp tham gia lắp ráp và sản xuất phụ tùng là 8 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ngoài ra có 52 doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp xe máy trong nước (trong đó có 31 doanh nghiệp tham gia sản xuất phụ tùng), ngoài ra có khoảng gần 500 cơ sở sản xuất phụ tùng khác. Đến năm 2004, Việt Nam có khoảng 230 doanh nghiệp đang sản xuất linh kiện phụ tùng cung cấp cho các doanh nghiệp lắp ráp xe máy, trong đó có hơn 80 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đã tự cung cấp được từ 40-70% nhu cầu phụ tùng lắp ráp xe máy trong nước. Dự kiến đến năm 2010 có thể cung cấp 80-90% nhu cầu phụ tùng lắp ráp xe máy. (5). Sản phẩm công nghiệp phụ trợ ngành ô tô Sau hơn 10 năm xây dựng và phát triển, đến nay Việt Nam có khoảng 70 doanh nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng cho ngành công nghiệp ô tô trong nước. Số doanh nghiệp này thực sự còn quá ít, quy mô còn nhỏ và thậm chí năng lực còn rất yếu. Theo Bộ Công nghiệp, công nghiệp sản xuất phụ tùng ô tô tại Việt Nam là ngành mới nổi nên khó khăn còn nhiều, đặc biệt là trong xu thế hội nhập và cạnh tranh hiện nay. Trong hơn 10 năm qua, Nhà nước đã có chủ trương bảo hộ cho các liên doanh sản xuất ô tô, những hãng đưa ra cam kết ban đầu là sẽ nội địa hóa 30 - 40% sau khi đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên trên thực tế, công nghiệp ô tô đạt được tỷ lệ nội địa hóa thấp nhất trong các ngành, trung bình từ 5 -10%, cao nhất như Honda Việt Nam cũng chỉ đạt 10%, kế tiếp là Toyota Việt Nam, tỷ lệ nội địa hóa bình quân là 7% giá trị xe. Tại Suzuki Việt Nam, Ford Việt Nam... tỷ lệ này dừng lại ở mức 2 - 4%. 12
  15. Cũng do linh kiện, phụ tùng sản xuất trong nước khan hiếm nên hầu hết các linh kiện, phụ tùng Việt Nam đang sử dụng phải nhập khẩu trực tiếp từ Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia…Mặc dù nhập khẩu như vậy nhưng không phải điều kiện nhập hàng và chất lượng lúc nào cũng đồng đều và thuận lợi. Các hãng xe như Toyota, Ford, Mazda…có nhà máy tại Việt Nam thời gian qua phải nhập khẩu phụ tùng ở nước ngoài về phục vụ cho lắp ráp cho các nhà máy ô tô của họ. Hãng nào nhập ít cũng phải từ vài trăm triệu USD mỗi năm. Ví dụ như hãng Toyota, năm 2002 đã nhập khẩu linh kiện trị giá 150 triệu USD, năm 2005 nhập đến 460 triệu; hãng Mazda cũng nhập giá trị linh kiện lên tới 280 triệu USD. Trong khi các doanh nghiệp lắp ráp phải đi nhập linh kiện từ nước ngoài về thì việc sản xuất linh kiện phụ tùng trong nước lại dậm chân tại chỗ. Doanh thu cả năm chưa bằng một số lẻ của các hãng nhập về, cụ thể là năm 2005 doanh thu từ sản xuất linh kiện chỉ đạt tới 2,3 triệu USD. Một thực tế nữa cần phải thừa nhận là số doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sản xuất công nghiệp phụ trợ này là rất ít. Hiện nay chủ yếu là các nhà cung ứng linh kiện Nhật Bản đang đầu tư vào Việt Nam, tiếp theo là các doanh nghiệp Đài Loan, cuối cùng mới là các doanh nghiệp Việt Nam. Phải thẳng thắn nhìn nhận là các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu do thiếu sự phối hợp và liên kết trong quá trình sản xuất, vẫn mạnh ai nấy làm. Trong khi đó, đối với hoạt động sản xuất này yêu cầu phải chuyên môn hoá sâu và hợp tác rộng mới đem lại hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp do chưa tính toán được mức lợi nhuận so với chi phí đầu tư nên cũng chưa thực sự vào cuộc. Tuy nhiên, chính việc ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam còn yếu lại đang là một cơ hội rất lớn cho các nhà sản xuất Việt Nam khai thác mà ở đây chính là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tóm lại, với thực trạng ngành công nghiệp phụ trợ như hiện nay, một ngành then chốt trong chiến lược sản xuất hàng thay thế nhập khẩu, đã cho thấy mức độ đầu tư của chính phủ cũng như các doanh nghiệp chưa phát huy được hiệu quả. Mặc dù ngành công nghiệp phụ trợ bước đầu đã sản xuất ra một số mặt hàng thay thế được hàng nhập khẩu như một số loại máy móc thiết bị, phụ tùng (được liệt kê theo Quyết định số 2840/QĐ-BTC ngày 25 tháng 05 năm 2010) nhưng chủ yếu là những sản phẩm giản đơn và chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng được yêu cầu đối với các nhà sản xuất sử dụng làm yếu tố đầu vào. Vì vậy, Chính phủ cần có sự định hướng và ban hành chính sách đầu tư hiệu quả cho chiến lược sản xuất hàng thay thế nhập khẩu và hướng tới sự thành công của con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 13
  16. 2. Nhóm hàng hóa định hướng xuất khẩu 2.1. Thực trạng về xuất khẩu Kim ngạch xuất khẩu năm 2009 gấp hơn 70 lần thời điểm bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới, tăng từ 789 triệu USD năm 1986 lên khoảng 57 tỷ USD năm 2009. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người tăng mạnh, năm 2008 đạt 736 USD, gấp gần 20 lần năm 1990. Từ năm 2000, Việt Nam đó vượt qua mốc được công nhận là nước có nền ngoại thương bình thường, tức là có kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người trên 180 USD. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình của giai đoạn 2000 - 2008 đạt trên 20%, giảm mạnh ở năm 2009 (- 8,9%) và phục hồi ngoạn mục ở năm 2010 (ước 19,1%). Bảng 3: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, 2001 - 2009 Hạng mục 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Dầu thô 3,175.0 3,226.0 3,777.0 5,670.6 7,373.5 8,312.0 8,487.6 10,356.8 6,194.6 Than đá 354.0 669.9 914.8 999.8 1,388.5 1,316.6 Gạo 588.0 726.0 719.0 950.3 1,408.4 1,275.9 1,490.2 2,895.9 2,663.9 Cà phê 385.0 317.0 473.0 642.0 740.3 1,217.2 1,916.7 2,113.8 1,730.6 Cao su 161.0 263.0 352.0 596.0 803.6 1,286.4 1,393.8 1,604.1 1,226.9 Thủy sản 1,816.4 2,021.8 2,199.6 2,408.1 2,732.5 3,358.0 3,763.4 4,510.1 4,251.3 Gỗ và sản phẩm gỗ 323.7 460.2 608.9 1,101.7 1,561.4 1,943.1 2,384.6 2,767.2 2,597.6 Hàng điện tử, máy tính và linh kiện 709.5 605.4 854.7 1,062.4 1,427.4 1,807.8 2,165.2 2,640.3 2,763.0 Dây điện và cáp điện 181.0 187.7 291.7 389.7 518.2 705.7 882.3 1,009.0 885.1 Giày dép 1,587.4 1,875.2 2,260.5 2,691.6 3,038.8 3,595.9 3,999.5 4,769.9 4,066.8 Hàng dệt may 1,975.4 2,732.0 3,609.1 4,429.8 4,772.4 5,854.8 7,732.0 9,120.5 9,065.6 Nguồn: Tổng cục Thống kê Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực có khối lượng giảm nhưng do giá thế giới tăng mạnh nên về mặt giá trị lại tăng khá so với năm 2007 như: Dầu thô tăng 23,1%, giảm 7,7% khối lượng, than đá tăng 44,3% nhưng lượng giảm 38,3%, cà phê tăng 5,8% nhưng lượng giảm 18,3%, cao su tăng 14,6% nhưng lượng giảm 9,8%, chè tăng 12,2% nhưng lượng giảm 8,8%. * Những thành tựu trong xuất khẩu những ngành hàng chính: 14
  17. Thứ nhất, các mặt hàng xuất khẩu truyền thống vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng cao, nhất là các mặt hàng gạo, rau quả, hạt điều, than đá, hàng điện tử và linh kiện máy tính, sản phẩm nhựa, túi xách va li và ô dù... Xuất khẩu hàng hoá tăng cũn cú sự đóng góp của nhiều mặt hàng mới ví dụ như sản phẩm từ cao su, sản phẩm chế tạo từ gang, thép, máy biến thế, động cơ điện, tàu thuyền các loại... Thứ hai, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu vẫn tiếp tục chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo, giảm tỷ trọng xuất khẩu thô. Trong cơ cấu xuất khẩu, tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm thô (gồm nông lâm sản thủy sản chưa qua chế biến và sản phẩm khai khoáng giảm từ 53.3% năm 2001 xuống cũn 44.2% năm 2008. Ngược lại, tỷ trọng xuất khẩu của hàng chế biến hoặc đó tinh chế tăng từ 46.7% năm 2001 lên 55.2% năm 2008. Hình 2: Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu thời kỳ 2000-2008 Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu Niên giám thống kê các năm * Những hạn chế trong xuất khẩu những ngành hàng chính: Thứ nhất, Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực gặp khó khăn do phải đối mặt với những rào cản thương mại mới ngày càng nhiều với các hành vi bảo hộ thương mại tinh vi tại các thị trường lớn. Việc tăng giá trị xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào giá thế giới và những thị trường xuất khẩu lớn, khi những thị trường này có biến động thì KNXK bị ảnh hưởng. Thứ hai, tuy cơ cấu xuất khẩu theo các mặt hàng của Việt Nam đó có những thay đổi theo hướng tích cực nhưng lại không thay đổi nhiều. Doanh thu từ xuất khẩu phần lớn là từ xuất khẩu hàng sơ chế và các sản phẩm có công nghệ 15
  18. thấp. Trong giai đoạn 2005-2007, xuất khẩu khoáng sản chiếm 24% kim ngạch xuất khẩu, cao hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực. Hình 3: Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam và một số nước, 2005 -2007 Mỹ Nhật Việt Nam Trung Quốc Ấn Thái 16
  19. Độ Lan Nguồn: Ngân hàng Thế giới WB, Trade at-a-glance, 12/2008 Số liệu của Liên Hợp Quốc về thương mại quốc tế trong giai đoạn 1997- 2008 cho thấy, khoảng 70% sản xuất xuất khẩu của Việt Nam là các sản phẩm có công nghệ thấp, phản ánh sự lạc hậu của ngành công nghiệp so với trung bình thế giới. Trên thế giới, các ngành công nghiệp có công nghệ trung bình và cao tạo ra khoảng 60% giá trị gia tăng cũng như giá trị thương mại. Trong năm 2007, các ngành công nghiệp có công nghệ trung bình và công nghệ cao đó đóng góp 70% giá trị thương mại toàn cầu và 25/50 ngành có tăng trưởng nhanh nhất là những ngành công nghiệp công nghệ cao. Ở Việt Nam, các sản phẩm có công nghệ trung bình và công nghệ cao chỉ chiếm 29,4% kim ngạch xuất khẩu trong năm 2008. Hình 4: Cơ cấu xuất khẩu hàng chế biến theo trình độ công nghệ, 1997- 2008 Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu UNCOMTRADE 17
  20. Như vậy, xuất khẩu vẫn phụ thuộc nhiều vào các mặt hàng khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản; các mặt hàng công nghiệp chế biến chủ yếu vẫn mang tính chất gia công; Các mặt hàng xuất khẩu chưa đa dạng, phong phú, số lượng các mặt hàng xuất khẩu mới có kim ngạch lớn, tốc độ tăng trưởng nhanh chưa nhiều. Xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hỡnh thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn. 2.2. Thực trạng đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu  Vốn đầu tư: Vốn đầu tư cho ngành nông, lâm, thủy, hải sản đó gia tăng nhanh chóng qua các năm, từ mức gần 21 nghìn tỷ đồng năm 2000 lên mức hơn 44 nghìn tỷ đồng năm 2009. Có mức tăng nhanh mạnh mẽ là vốn đầu tư trong ngành công nghiệp chế biến. Vốn đầu tư cho nhóm ngành này tăng từ 29 nghìn tỷ năm 2000 lên mức 125 nghìn tỷ năm 2009. Trong khi đó, vốn đầu tư vào ngành công nghiệp khai thác mỏ có mức tăng đáng kinh ngạc nhất, gấp hơn 6 lần, từ gần 10 nghìn tỷ năm 2000 lên mức 60 nghìn tỷ năm 2009. Hình 5: Vốn đầu tư vào các ngành theo một số ngành chính, 2000 - 2009 Nguồn: Tính toán của tác giả từ niên giám thống kê các năm  Phát triển sản xuất nguyên liệu trong nước phục vụ xuất khẩu Trong việc xây dựng chiến lược phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực không thể không tính đến việc phát triển sản xuất nguyên liệu trong nước phục vụ xuất khẩu. Do đó, việc xây dựng và phát triển các vùng trọng điểm với nền sản xuất khối lượng lớn một số sản phẩm xuất khẩu chính và một vùng lân cận 18
nguon tai.lieu . vn