Xem mẫu

  1. TỔNG QUAN Chín muồi cổ tử cung bằng phương pháp đặt bóng: Từ cơ chế đến ứng dụng lâm sàng dựa trên bằng chứng Ngô Đình Triệu Vỹ1, Trần Mạnh Linh2 1 Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, thành phố Hồ Chí Minh 2 Trường Đại học Y-Dược, Đại học Huế doi:10.46755/vjog.2021.2.1217 Tác giả liên hệ (Corresponding author): Ngô Đình Triệu Vỹ: ngodinhtrieuvygl@gmail.com Nhận bài (received): 21/7/2021 - Chấp nhận đăng (accepted): 10/9/2021 Tóm tắt Cổ tử cung không thuận lợi là một thách thức trong khởi phát chuyển dạ với mục tiêu sinh đường âm đạo. Trong đó, Prostaglandin, đặc biệt là Prostaglandin E2, đóng vai trò quan trọng trong quá trình phân giải, phá vỡ cấu trúc collagen dẫn đến chín muồi cổ tử cung. Các phương pháp cơ học làm chín muồi cổ tử cung bằng cơ chế tăng áp lực trực tiếp lên cấu trúc cổ tử cung và màng ối. Qua đó giải phóng các Prostaglandin từ màng rụng và cổ tử cung. Phương pháp cơ học phổ biến hiện nay là đặt bóng, thường sử dụng đặt sonde Foley qua kênh cổ tử cung vào khoảng giữa màng ối và lỗ trong cổ tử cung. Đặt bóng có hiệu quả làm chín muồi cổ tử cung cao, giúp cải thiện chỉ số Bishop và giảm tỷ lệ các tác dụng phụ như cơn gò tử cung cường tính hoặc nhịp tim thai bất thường so với các phương pháp hoá học. Đồng thời, đặt bóng có thể kết hợp sử dụng oxytocin để tăng hiệu quả và tăng khả năng khởi phát chuyển dạ. Bài tổng quan mô tả phương pháp và hiệu quả của phương pháp đặt bóng làm chín muồi cổ tử cung, qua đó đánh giá đầy đủ về khả năng áp dụng hiện nay. Từ khoá: Cổ tử cung không thuật lợi, Chín muồi cổ tử cung, phương pháp đặt bóng, Prostaglandin Cervical ripening by using balloon catheter: From mechanism to evidence-based clinical practice Ngo Dinh Trieu Vy1, Tran Manh Linh2 1 Tam Anh Ho Chi Minh City General Hospital 2 Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University Summary The unfavorable cervix is ​​considered a challenging barrier in induction labor with the aim of vaginal delivery. Prostaglandin, especially Prostaglandin E2, plays an important role in lysis and breaking down the structure of collagen which leads to cervical ripening. Physical methods act by putting direct pressure on the cervical structures and amniotic membrane and the mechanism releases Prostaglandin from the decidua and cervical canal. Currently, the common basic method is the single balloon induction (Foley sonde) which is placed through the cervical canal into the space between the membrane and internal cervical os. The balloon stimulates the ripening process, which improves the Bishop index and reduces the incidence of side effects such as uterine hyperstimulation or an abnormal fetal heart rate compared to chemical methods. The balloon induction can be combined with oxytocin to increase efficiency and labor induction probability. The literature reviews the effectiveness of cervical balloon induction, thereby fully assessing the current clinical practice. Keywords: Unfavorable cervix, Cervical ripening, Balloon catheter, Prostaglandin. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ (Dinoprostone) đều có hiệu quả trên CTC không thuận Cổ tử cung (CTC) không thuận lợi là một trong những lợi (Bishop < 6) [2]. Tuy nhiên, hạn chế của các PG rào cản làm giảm khả năng khả năng khởi phát chuyển ngoại sinh là gây ra đồng thời chín muồi CTC và kích dạ thành công [1]. Nếu CTC không thuận lợi, các phương thích cơn go tử cung. Ngược với sinh lý chuyển dạ là pháp làm chín muồi CTC sẽ được áp dụng nhằm rút ngắn CTC chín muồi trước sau đó bắt đầu có cơn go tử cung. thời gian và tối ưu hóa khả năng đi vào chuyển dạ sinh Xuất hiện cơn go tử cung khi CTC không thuận lợi có đường âm đạo. Hai kỹ thuật chính làm chín muồi CTC là thể gây giảm cung cấp cho máu thai nhi trong cơn go can thiệp cơ học như đặt bóng hoặc ít phổ biến hơn là đặt [3]. Có bằng chứng cho thấy sử dụng PG liên quan đến laminare và sử dụng thuốc như các prostaglandin (PG). tăng tỷ lệ rối loạn cơn go tử cung (3 – 20%) và thay Đối với phương pháp sử dụng thuốc, các PG ngoại đổi nhịp tim thai [4]. Tại Việt Nam, PGE1 (Misoprostol) sinh được sử dụng gồm PGE1 (Misoprostol) và PGE2 chống chỉ định sử dụng trên thai sống vì tăng nguy cơ Ngô Đình Triệu Vỹ và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):15-21. doi:10.46755/vjog.2021.2.1217 15
  2. tử vong và suy thai. được khuyến cáo vì giá thành rẻ, sẵn có và dễ áp dụng Tiếp cận lý tưởng để khởi phát chuyển dạ là làm chín đặc biệt ở những nơi có nguồn lực hạn chế [2]. muồi CTC trước khi kích thích cơn go tử cung. Trong đó, phương pháp đặt bóng làm chín muồi CTC có ưu điểm 2. CƠ CHẾ GÂY CHÍN MUỒI CỔ TỬ CUNG không tạo ra cơn go hoặc tác dụng phụ toàn thân ở thai 2.1. Đặc điểm cổ tử cung trong thai kỳ phụ như PG [5], [6], do đó cần ít nhu cầu theo dõi hơn Ở phụ nữ không mang thai, CTC đóng kín và chắc, trong quá trình khởi phát chuyển dạ so với PG [4]. Sức mật độ tương tự như sụn cánh mũi. Trong thai kỳ, CTC căng cơ học của bóng chèn làm tăng giải phóng các mềm hơn do hiện tượng tăng sinh mạch máu, phì đại PG nội sinh, giúp CTC chín muồi. Sự chín muồi ở CTC mô đệm, phì đại tuyến và tăng sản, đồng thời có sự thay được kích hoạt bởi các phản ứng viêm tại chỗ, có bằng đổi về thành phần và cấu trúc ngoại bào ở CTC [8]. Đến chứng cho thấy tăng đáng kể interleukin-6, interleukin-8, cuối thai kỳ, CTC mềm, dễ mở và mật độ tương tự như metalloproteinase-8, hyaluronic acid synthetase và NO niêm mạc môi. Trong giai đoạn đầu, CTC thay đổi cấu synthetase ở mô CTC sau khi đặt bóng [7]. Sonde Foley trúc mô học, mềm nhưng vẫn ở mức độ vừa phải (dấu là một trong những lựa chọn để khởi phát chuyển dạ hiệu Hegar). Hình 1*. Cấu trúc sợi collagen. Nguồn: https://ersportsdrink.com/2020/03/why-does-enhanced-recovery-contain-collagen/ Protein cấu tạo chính của CTC là các collagen bị thay bắt đầu từ vài tuần hoặc vài ngày trước khi khởi phát các đổi cấu trúc dẫn đến làm thay đổi độ bền và độ mềm của cơn go tử cung chuyển dạ. CTC sẽ tiếp tục mềm hơn, mô mô. Mỗi phân tử collagen gồm ba chuỗi polypeptid alpha liên kết thay đổi số lượng và thành phần proteoglycans xoắn với nhau tạo thành sợi collagen (procollagen). Sợi và glycosaminoglycans. Các nội tiết tố khởi động những collagen liên kết với nhau bằng các liên kết chéo thông qua phản ứng hóa học gây chín muồi CTC dẫn đến tăng nồng hoạt động của lysyl oxidase để hình thành các bó collagen. độ PGE2 tại CTC. Tăng PGE2 dẫn đến những thay đổi quan Các bó sợi collagen tương tác với các proteoglycans như trọng làm chín muồi CTC gồm: Giãn các vi mạch tại CTC, decoinin hoặc biglycan tượng tự các protein ngoại bào. tăng phân giải collagen, tăng acid hyaluronic, tăng hóa Những chất này quyết định kích thước, cách sắp xếp và hướng động bạch cầu đến CTC, tăng phân giải collagen và cấu trúc sợi collagen và giúp cho các bó sợi collagen có tăng kích thích giải phóng Interleukin-8 [8]. Interleukin-8 đường kính đồng nhất, ổn định và chắc chắn [8]. tăng hóa hướng động bạch cầu và tăng hoạt động của Giai đoạn đầu thai kỳ, giảm các liên kết chéo giữa enzyme collagenase. Những thành phần gây viêm này các sợi collagen do giảm biểu hiện của enzyme lysyl cũng đóng vai trò trung gian gây chín muồi CTC ở các hydroxylase và lysyl oxidase cùng với với giảm biểu hiện trường hợp sinh non. PGF2-alpha tham gia vào quá trình của protein ngoại bào. Giảm các protein ngoại bào ảnh này thông qua kích thích sản xuất glycosaminoglycan. hưởng đến độ bền và cấu trúc sợi collagen. Giả thuyết Ở giai đoạn chín muồi CTC, các liên kết chéo tiếp tục bị này được chứng minh trên những người có khiếm khuyết giảm đồng thời giảm các protein ngoại bào, làm đường di truyền tổng hợp collagen và elastin có sự suy yếu cấu kính bó collagen tăng lên và tăng khoảng cách giữa các trúc CTC [8]. sợi. Sự tách rời của các sợi collagen làm mất đi sự toàn 2.2. Chín muồi cổ tử cung vẹn mô CTC. Sự thay đổi CTC trước chuyển dạ liên quan đến thay Như vậy, các nội tiết tố và phản ứng viêm tại chỗ đặc đổi mô liên kết dẫn đến chín muồi CTC. Quá trình này biệt là PGE2 đóng vai trò quan trọng trong quá trình phân chuyển từ giai đoạn làm mềm đến giai đoạn chín muồi, giải, phá vỡ cấu trúc các collagen đưa đến hiện tượng 16 Ngô Đình Triệu Vỹ và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):15-21. doi:10.46755/vjog.2021.2.1217
  3. chín muồi CTC. Ngoài ra, các PG làm tăng biểu hiện các oxytocin và trực tiếp tác động lên thụ thể của nó trong thụ thể của oxytocin, tăng nhạy cảm của cơ tử cung với quá trình co cơ tử cung. Hình 2. Thay đổi cấu trúc collagen tại cổ tử cung (8). Nguồn: Mahendroo M. Cervical remodeling in term and preterm birth: insights from an animal model. Reproduction. 2012 Apr 1;143(4):429–38. 2.3. Vai trò của cấu trúc màng ối – màng nhau – diện những enzyme bất hoạt PG như Prostaglandin màng rụng dehydrogenase (PGDH) tại màng nhau. Khi chuyển dạ, Bình thường màng ối là nơi tổng hợp PG, vào PGDH giảm, các PG từ màng ối có thể tác động tạo ra cuối thai kì quá trình tổng hợp này tăng lên do tăng cơn gò tử cung. Vai trò màng rụng trong chuyển dạ vẫn phospholipase A2 và hoạt hóa Prostaglandin H chưa được biết rõ nhưng có thể tham gia vào chuyển Synthase type 2 (PGHS-2). Trong thai kỳ, vận chuyển hóa progesterone tại chỗ và làm tăng nồng độ thụ thể PG từ màng ối đến mô tử cung bị giới hạn bởi hiện PG, kéo theo tăng hoạt động của PG [8]. Hình 3. Cấu trúc màng ối – màng nhau – màng rụng. (Nguồn: William Obstetrics and Gynecology 25e) Ngô Đình Triệu Vỹ và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):15-21. doi:10.46755/vjog.2021.2.1217 17
  4. Các phương pháp cơ học gây chín muồi CTC thông trong một thử nghiệm ngẫu nhiên khác [12] . qua cơ chế tăng áp lực trực tiếp lên hệ thống cấu trúc Bóng được lưu tại chỗ cho đến khi tự rớt, hoặc tháo CTC bên trong và kích thích giải phóng các PG từ màng sau 12 giờ. Một thử nghiệm ngẫu nhiên cho thấy rút rụng và mô lân cận hoặc CTC. Những tác động kết hợp bóng sau 12 giờ và truyền oxytocin làm tăng tỉ lệ sinh thúc đẩy một số thay đổi sinh hóa và sinh lý dẫn đến chín đường âm đạo trong vòng 24 giờ so với rút bóng sau muồi CTC và tăng co cơ tử cung. 24 giờ và truyền oxytocin (tương ứng 60% so với 21%), nhưng không tăng nguy cơ sinh mổ [13]. 3. KỸ THUẬT ĐẶT BÓNG KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ 3.2. Kỹ thuật đặt bóng đôi Đặt bóng sử dụng trong khởi phát chuyển dạ thường Quy trình đặt đặt bóng đôi tương tự như đặt bóng có hai loại, bóng đôi (bóng Cook) hoặc bóng đơn. Bóng đơn, tuy nhiên có một vài điểm khác biệt. Bóng được đưa đôi được thiết kế đặc biệt với một bóng nằm trong và vào CTC cho đến khi bóng đầu gần nằm trong ống CTC, một bóng nằm ngoài CTC. Bóng đơn thường được sử khi đó bóng đầu xa sẽ đi qua lỗ trong CTC vào giữa màng dụng hơn, trên lâm sàng hay dùng sonde Foley. ối và lỗ trong CTC. Bơm bóng xa 40 ml nước muối và 3.1. Kỹ thuật đặt bóng đơn rút nhẹ để bóng tựa vào lỗ trong CTC. Bóng gần nằm ở Vệ sinh CTC, âm đạo. Sử dụng kẹp hình tim đẩy đầu lỗ ngoài CTC sẽ được bơm 20 ml nước muối. Nếu hai sonde qua CTC vào khoảng giữa màng ối và lỗ trong bóng đặt chính xác ở hai đầu kênh CTC, có thể bơm 80 CTC. Kỹ thuật này thường dễ thực hiện ngay cả khi CTC ml nước muối mỗi bóng. đóng vì trong thai kì cổ tử mềm và hiếm khi đóng chặt. Các phân tích gộp gồm các thử nghiệm so sánh cho Sonde cũng có thể đưa vào bằng tay tương tự như ống thấy không có sự khác biệt quan trọng kết quả lâm sàng đo áp lực trong tử cung [10]. giữa bóng đôi so với bóng đơn [14]. Tuy nhiên, bóng đơn ít tốn kém hơn và có sẵn hơn . 4. HIỆU QUẢ CỦA PHƯƠNG PHÁP ĐẶT BÓNG LÀM CHÍN MUỒI CỔ TỬ CUNG Chưa có sự thống nhất về định nghĩa CTC thuận lợi hoặc không thuận lợi. Đa số sử dụng ngưỡng Bishop < 6 điểm để định nghĩa CTC không thuận lợi và cần sử dụng tác nhân làm chín muồi. Một số trường phái sử dụng ngưỡng Bishop thấp hơn. Hiệp hội Sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) (2009) định nghĩa CTC không thuận lợi khi chỉ số Bishop < 6 điểm, nếu trên 8 điểm, khả năng chuyển dạ và sinh đường âm đạo (sau khởi phát) tương đương với chuyển dạ tự nhiên [2]. Phương pháp cơ học phổ biến nhất hiện đang được sử dụng là đặt bóng, thường sử dụng sonde Foley. Phương pháp đặt bóng giúp làm tăng điểm số Bishop Hình 4. Mô tả vị trí đặt bóng đơn. trung bình khoảng 3,3 - 5,3 [15]. Một phân tích gộp các (Nguồn: Penfield CA, Wing DA. Labor Induction Tech- phương pháp cơ học khởi phát chuyển dạ cho thấy chỉ có niques: Which Is the Best? Obstet Gynecol Clin. 2017 Dec 6% trường hợp CTC không thuận lợi sau đặt bóng 12 giờ, 1;44(4):567–82.) trong khi đó, nhóm không can thiệp có đến 86% trường hợp CTC không thuận lợi (RR: 0,07; KTC 95%: 0,03 - 0,19) Trong một phân tích gộp các thử nghiệm ngẫu nhiên [14]. so sánh sử dụng sonde có thể tích lớn (60 - 80 ml) so với Khi so sánh với các phương pháp sự dụng thuốc, đặt thể tích nhỏ (30 ml). Kết quả cho thấy thể tích bóng lớn bóng cho thấy hiệu quả tương tự như sử dụng PGE2. Một làm giảm thời gian từ khi đặt đến khi chuyển dạ (chênh phân tích gộp trên Cochrane (2019) so sánh kết quả sử lệch trung bình 1,97 giờ, KTC 95%: -3,88 đến -0,06) nhưng dụng bóng với PGE2, misoprostol uống hoặc âm đạo, không thay đổi tỷ lệ mổ lấy thai, thời gian đến lúc sinh gồm 113 thử nghiệm lâm sàng trên 22.000 phụ nữ [14]. đường âm đạo, thời gian rớt sonde và tỷ lệ các biến Đặt bóng và PGE2 không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ chứng mẹ và thai [11]. Phân tích này gợi ý sử dụng thể sinh đường âm đạo thất bại trong 24 giờ (RR: 1,01; KTC tích bóng lớn hoặc nhỏ đều phù hợp. 95%: 0,82 - 1,26) và tỉ lệ mổ lấy thai (RR: 1,00; KTC 95%: Bóng được bơm nước muối sinh lý, sau khi bơm, rút 0,92 - 1,09). Trong khi đó, sử dụng bóng làm giảm nguy nhẹ sonde để bóng tựa vào lỗ trong CTC. Một số đề xuất cơn go tử cung cường tính và tỉ lệ xuất hiện nhịp tim thai cố định ống sonde vào đùi và kéo căng. Một thử nghiệm bất thường (RR: 0,35; KTC 95%: 0,18 - 0,67), giảm tỷ lệ tử ngẫu nhiên so sánh cách làm này cho thấy giảm thời vong chu sinh hoặc mắc các bệnh lý sơ sinh (RR: 0,48; gian rớt bóng nhưng không cải thiện thời gian chuyển dạ. KTC 95%: 0,25 - 0,93) và giảm tỉ lệ nhập Đơn vị Chăm sóc Một đề xuất khác kéo căng sonde bằng gắn trọng lực (túi sơ sinh tích cực (RR: 0,82; KTC 95%: 0,65 - 1,04) khi so dịch) [11]. Tuy nhiên, kéo trong lực có thể rút ngắn thời sánh với sử dụng PGE2. Tuy nhiên, mức độ tin cậy của gian rớt bóng nhưng không cải thiện thời gian chuyển dạ bằng chứng ở các thử nghiệm trong phân tích gộp này 18 Ngô Đình Triệu Vỹ và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):15-21. doi:10.46755/vjog.2021.2.1217
  5. Hình 5. Các bước đặt bóng đôi. Nguồn:https://www.ohb.scot.nhs.uk/sites/default/files/publications/Induction%20of%20Labour%201.1.pdf chỉ nằm ở mức thấp hoặc trung bình. Mặc dù vậy, dữ liệu mạnh không nên đặt bóng nhằm mục đích chín muồi này cho thấy đặt bóng có hiệu quả tương đương với PGE2 CTC ở những sản phụ có ối vỡ trước chuyển dạ [16]. Một trong làm chín muồi CTC và khởi phát chuyển dạ nhưng nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng năm 2017 gây chín tính an toàn cao hơn đáng kể. Một số nghiên cứu gần muồi CTC bằng đặt bóng ở những bệnh nhân ối vỡ trước đây cho thấy phương pháp đặt bóng giúp giảm thời gian chuyển dạ. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt giữa chuyển dạ, thời gian nằm viện và tổng chi phí điều trị khi thời gian từ lúc đặt bóng đến khi có chuyển dạ ở nhóm so sánh với PGE2 [15]. đặt bóng kết hợp với truyền oxytocin đồng thời so với nhóm truyền oxytocin đơn độc, nhưng có xu hướng tăng 5. TÍNH AN TOÀN CỦA PHƯƠNG PHÁP ĐẶT BÓNG LÀM tỷ lệ nhiễm trùng ở mẹ (nhiễm trùng ối 6/61 (10%) so CHÍN MUỒI CỔ TỬ CUNG với 3/66 (5%), p = 0,31) [17]. Một thử nghiệm lâm sàng Đặt bóng không có chống chỉ định tuyệt đối ở những ngẫu nhiên có đối chứng năm 2018 cũng cho thấy đặt thai phụ không có chống chỉ định sinh đường âm đạo. sonde Foley kết hợp truyền oxytocin khởi phát chuyển dạ Nhiễm liên cầu nhóm B không phải là chống chỉ định sử trên những sản phụ có ối vỡ trước chuyển dạ không làm dụng các phương pháp cơ học làm chín muồi CTC, cần giảm thời gian đi vào chuyển dạ nhưng làm tăng nguy sử dụng kháng sinh điều trị dự phòng lây nhiễm trước cơ nhiễm trùng ối lâm sàng so với sử dụng oxytocin đơn sinh nếu có chỉ định khởi phát chuyển dạ. độc (7/93 (8%) so với 0/108 (0%), p < 0,01) [18]. Mặc dù đa ối được xem là chống chỉ định sử dụng Ngoài ra, khởi phát chuyển dạ bằng đặt bóng cũng có bóng làm chín muồi CTC đối với loại bóng đôi Cook CPB liên quan đến tỷ lệ go tử cung cường tính nhưng thấp hơn (Cook Cervical Ripening Balloon). Tuy nhiên, đa ối không so với sử dụng PG [14]. Một phân tích gộp gồm các thử phải là chống chỉ định tuyệt đối, có thể chỉ định nếu thai nghiệm ngẫu nhiên không cho thấy bằng chứng thuyết phụ không có các chống chỉ định sinh đường âm đạo phục về tăng nguy cơ mắc bệnh truyền nhiễm ở sản phụ khác. Nhau bám thấp là chống chỉ định tương đối, mép hoặc trẻ sơ sinh khi chỉ định làm chín muồi CTC bằng bánh nhau có thể bị bong trong quá trình đặt bóng. Khi phương pháp cơ học so với PG trên những bệnh nhân so sánh với phương pháp làm chín muồi CTC bằng PG, chưa vỡ ối [15]. khởi phát chuyển dạ bằng bóng không làm tăng nguy cơ vỡ ối non, sa dây rốn hoặc kết quả bất lợi khi sinh [14]. 6. HIỆU QUẢ KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ BẰNG KẾT HỢP Hiện tại, nhiều bằng chứng có mức độ khuyến cáo ĐẶT BÓNG VỚI CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÁC Ngô Đình Triệu Vỹ và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):15-21. doi:10.46755/vjog.2021.2.1217 19
  6. 6.1. Đặt bóng kết hợp với prostaglandin ống thông Foley nhằm khởi phát chuyển dạ ở những sản Kết hợp phương pháp làm chín muồi CTC bằng đặt phụ có thai quá ngày cho thấy tỉ lệ thành công là 80,0% bóng và sử dụng PG có thể có lợi ích nhưng không đáng (KTC 95%: 71,6 – 89,4%). Trong đó, nhóm sản phụ dưới kể so với chỉ sử dụng một phương pháp duy nhất. Kết 35 tuổi có tỷ lệ thành công cao hơn nhóm trên 35 tuổi hợp hai kỹ thuật này cho thấy tỉ lệ sinh đường âm đạo với RR = 1,9 (KTC 95%: 0,99 – 3,67). Tỷ lệ sinh đường âm cao hơn trong vòng 24 giờ so với sử dụng một kỹ thuật đạo là 64,3%. Tỷ lệ sử dụng kết hợp với oxytocin là 68,6%. nhưng không ảnh hưởng đến tỷ lệ mổ lấy thai chung Không có biến chứng nghiêm trọng, chỉ cảm giác khó cũng như có lợi ích vượt trội so với kết hợp đặt bóng và chịu chiếm tỷ lệ 21,4% [26]. truyền oxytocin. Trong một phân tích gộp năm 2012, kết hợp đặt bóng và sử dụng PG làm tăng khả năng sinh 7. KẾT LUẬN đường âm đạo trong vòng 24 giờ so với chỉ dùng PG (RR Chín muồi CTC là một bước quan trọng giúp khởi 0,45; KTC 95%: 0,28 - 0,71; 3 thử nghiệm, 698 phụ nữ) phát chuyển dạ và tăng khả năng sinh thường đường âm nhưng không ảnh hưởng đáng kể đến tỉ lệ sinh mổ (RR đạo. Đặt bóng là một phương pháp gây chín muồi CTC 0,92; KTC 95%: 0,79 - 1,08; 8 thử nghiệm, 1295 phụ nữ) có hiệu quả cao, giảm tỷ lệ các tác dụng phụ như cơn go [19]. Đặc biệt, cách phối hợp này làm giảm nguy cơ go tử tử cung cường tính hoặc nhịp tim thai bất thường. Khi cung cường tính và thay đổi tim thai bất thường (RR 0,53; có chỉ định chấm dứt thai kì và không chống chỉ định KTC 95%: 0,35 - 0,78). Một thử nghiệm ngẫu nhiên sau sinh qua ngã âm đạo, phương pháp sử dụng chèn bóng đó đã chứng minh phối hợp (misoprostol và đặt bóng) nên được ưu tiên nhằm mục đích gây chín muồi CTC và liên quan đến thời gian sinh nhanh hơn so với nhóm chỉ khởi phát chuyển dạ. Đồng thời, đặt bóng có thể kết hợp dùng misoprostol (HR 1,92; KTC 95%: 1,42 - 2,59) hoặc truyền oxytocin để tăng hiệu quả làm chín muồi CTC và chỉ đặt bóng (HR 1,87; KTC 95%: 1,39 - 2,52). Tuy nhiên, tăng khả năng khởi phát chuyển dạ. Phương pháp này an không có sự khác biệt đáng kể về tần suất sinh mổ hoặc toàn, có chi phí thấp và có tính khả thi cao để để áp dụng kết quả thai kỳ bất lợi đối với mẹ hoặc trẻ sơ sinh [20]. trên lâm sàng hiện nay. 6.2. Đặt bóng và truyền oxytocin Sau khi bóng rớt hoặc được tháo ra, nên bắt đầu TÀI LIỆU THAM KHẢO truyền oxytocin [21]. Oxytocin có thể bắt đầu truyền đồng 1. Bernardes TP, Broekhuijsen K, Koopmans CM, Boers thời với lúc đặt sonde. Có bằng chứng cho thấy truyền KE, van Wyk L, Tajik P, et al. Caesarean section rates oxytocin đồng thời với đặt bóng làm tăng khả năng sinh and adverse neonatal outcomes after induction of đường âm đạo trong vòng 24 giờ ở một thử nghiệm ngẫu labour versus expectant management in women with nhiên [22]. Tuy nhiên, vẫn chưa có sự thống nhất giữa an unripe cervix: a secondary analysis of the HYPITAT các nghiên cứu [23]. Sử dụng đồng thời oxytocin có thể and DIGITAT trials. BJOG Int J Obstet Gynaecol. 2016 dùng liều thấp cố định hoặc liều tăng dần tiêu chuẩn [15]. Aug;123(9):1501–8. Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên, cả hai cách phối hợp 2. ACOG Practice Bulletin No. 107: Induction of labor - oxytocin đồng thời này đều có kết quả tương tự nhau về PubMed [Internet]. [cited 2021 Jun 16]. Available from: thời gian để rớt bóng, thời gian chuyển dạ pha hoạt động https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/19623003/ và thời gian đến giai đoạn hai của chuyển dạ, tỉ lệ cơn go 3. Norman JE, Stock S. Intracervical Foley catheter tử cung cường tính, nhịp tim thai bất thường, tỷ lệ mổ lấy for induction of labour. Lancet Lond Engl. 2011 Dec thai và băng huyết sau sinh [23]. 17;378(9809):2054–5. 4. Rath W, Stelzl P, Kehl S. Outpatient Induction of 7. ÁP DỤNG THỰC HÀNH LÀM CHÍN MUỒI CỔ TỬ Labor – Are Balloon Catheters an Appropriate Method? CUNG BẰNG CHÈN BÓNG TẠI VIỆT NAM Geburtshilfe Frauenheilkd. 2021 Jan;81(1):70–80. Chín muồi CTC bằng phương pháp cơ học mang lại 5. Sciscione AC. Methods of cervical ripening and nhiều hiệu quả và ít gây biếng chứng, trong đó sử dụng labor induction: mechanical. Clin Obstet Gynecol. 2014 phương pháp chèn bóng được sử dụng ngày càng phổ Jun;57(2):369–76. biến tại Việt Nam. Đặc biệt trong những trường hợp có 6. Rath W, Kehl S. The Renaissance of Transcervical vết mổ cũ không có chống chỉ định sinh thường qua ngã Balloon Catheters for Cervical Ripening and âm đạo, chèn bóng Foley được xem là một phương pháp Labour Induction. Geburtshilfe Frauenheilkd. 2015 ưu tiên được lựa chọn (phác đồ bệnh viện Từ Dũ – 2019). Nov;75(11):1130–9. Nghiên cứu của Trình Đình Vinh và cộng sự (2019) 7. Lim SY, Kim YH, Kim CH, Cho MK, Kim JW, Kang WD, sử dụng ống thông Foley nhằm chín muồi CTC và khởi et al. The effect of a Foley catheter balloon on cervical phát chuyển dạ ở tuổi thai 37 tuần cho thấy tỉ lệ thành ripening. J Obstet Gynaecol J Inst Obstet Gynaecol. công lên đến 89,7% và không có tác dụng ngoại ý nghiêm 2013 Nov;33(8):830–8. trọng nào được báo cáo [24]. Đối với những tuổi thai thấp 8. Cunningham FG, Leveno KJ, Bloom SL, Dashe JS, hơn, Lê Thiện Thái và cộng sự (2014) báo cáo tỉ lệ thành Spong CY, Hoffman BL, et al. Williams Obstetrics, 25e công sau chín muồi CTC và khởi phát chuyển dạ ở những [Internet]. New York, N.Y.: McGraw Hill Medical; 2018 thai kỳ nhỏ hơn 34 tuần có chỉ định đình chỉ là 75,0% [25]. [cited 2021 Jul 14]. Một nghiên cứu khác của Hồ Thái Phong (2015) sử dụng 9. Mahendroo M. Cervical remodeling in term and preterm 20 Ngô Đình Triệu Vỹ và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):15-21. doi:10.46755/vjog.2021.2.1217
  7. birth: insights from an animal model. Reproduction. 23. Fitzpatrick CB, Grotegut CA, Bishop TS, Canzoneri 2012 Apr 1;143(4):429–38. BJ, Heine RP, Swamy GK. Cervical ripening with foley 10. Penfield CA, Wing DA. Labor Induction Techniques: balloon plus fixed versus incremental low-dose oxytocin: Which Is the Best? Obstet Gynecol Clin. 2017 Dec a randomized controlled trial. J Matern-Fetal Neonatal 1;44(4):567–82. Med Off J Eur Assoc Perinat Med Fed Asia Ocean Perinat 11. Schoen CN, Saccone G, Backley S, Sandberg EM, Soc Int Soc Perinat Obstet. 2012 Jul;25[8]:1006–10. Gu N, Delaney S, et al. Increased single-balloon Foley 24. Vinh TD, Kong PC, Dung TT, Hien NV. Effective catheter volume for induction of labor and time to induction of labor using foley intracervical in pregnant delivery: a systematic review and meta-analysis. Acta women from 37 weeks gestational at Da Nang hospital Obstet Gynecol Scand. 2018 Sep;97(9):1051–60. for Women and Children. Vietnam Journal of Obstetrics 12. Fruhman G, Gavard JA, Amon E, Flick KVG, Miller & Gynecology. 2019;16[04), 50 – 55. C, Gross GA. Tension compared to no tension on a 25. Le, T. T., Nguyen, T. N. H., & Pho, T. Q. C. Effectiveness Foley transcervical catheter for cervical ripening: a of transcervical foley catheter induction of labor pregnant randomized controlled trial. Am J Obstet Gynecol. 2017 ≤ 34 weeks that gestational indicated suspend. Vietnam Jan;216(1):67.e1-67.e9. Journal of Obstetrics & Gynecology, 2014  12(2), 127- 13. Cromi A, Ghezzi F, Agosti M, Serati M, Uccella S, Arlant 129. V, et al. Is transcervical Foley catheter actually slower 26. Ho, T. P., & Pham, V. T. Effective induction of labor than prostaglandins in ripening the cervix? A randomized using foley transcervical in postterm pregnancy. Vietnam study. Am J Obstet Gynecol. 2011 Apr;204(4):338.e1-7. Journal of Obstetrics & Gynecology, 2015; 13(2B), 20 - 14. de Vaan MD, Ten Eikelder ML, Jozwiak M, Palmer 23. KR, Davies-Tuck M, Bloemenkamp KW, et al. Mechanical methods for induction of labour. Cochrane Database Syst Rev. 2019 Oct 18;10:CD001233. 15. Gelber S, Sciscione A. Mechanical methods of cervical ripening and labor induction. Clin Obstet Gynecol. 2006 Sep;49(3):642–57. 16. Mackeen AD, Durie DE, Lin M, Huls CK, Qureshey E, Paglia MJ, et al. Foley Plus Oxytocin Compared With Oxytocin for Induction After Membrane Rupture: A Randomized Controlled Trial. Obstet Gynecol. 2018 Jan;131(1):4–11. 17. Amorosa JMH, Stone J, Factor SH, Booker W, Newland M, Bianco A. A randomized trial of Foley Bulb for Labor Induction in Premature Rupture of Membranes in Nulliparas (FLIP). Am J Obstet Gynecol. 2017 Sep;217(3):360.e1-360.e7. 18. Mackeen AD, Durie DE, Lin M, Huls CK, Qureshey E, Paglia MJ, et al. Foley Plus Oxytocin Compared With Oxytocin for Induction After Membrane Rupture: A Randomized Controlled Trial. Obstet Gynecol. 2018 Jan;131(1):4–11. 19. Jozwiak M, Bloemenkamp KWM, Kelly AJ, Mol BWJ, Irion O, Boulvain M. Mechanical methods for induction of labour. Cochrane Database Syst Rev. 2012 Mar 14;(3):CD001233. 20. Levine LD, Downes KL, Elovitz MA, Parry S, Sammel MD, Srinivas SK. Mechanical and Pharmacologic Methods of Labor Induction: A Randomized Controlled Trial. Obstet Gynecol. 2016 Dec;128(6):1357–64. 21. Battarbee AN, Palatnik A, Peress DA, Grobman WA. Association of Early Amniotomy After Foley Balloon Catheter Ripening and Duration of Nulliparous Labor Induction. Obstet Gynecol. 2016 Sep;128(3):592–7. 22. Cn S, G G, V B, Mk H, A S. Intracervical Foley Catheter With and Without Oxytocin for Labor Induction: A Randomized Controlled Trial. Obstet Gynecol. 2017 Jun 1;129(6):1046–53. Ngô Đình Triệu Vỹ và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):15-21. doi:10.46755/vjog.2021.2.1217 21
nguon tai.lieu . vn