Xem mẫu

CHĂM SÓC HỘI CHỨNG RUỘT NGẮN
SAU PHẪU THUẬT CẮT RUỘT NON Ở TRẺ EM
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1& 2 TỪ 1/1/2005-31/12/2007
Nguyễn Thị Thu Hậu*, Phạm Thị Ngọc Tuyết*, Trần Thị Thanh Tâm**

TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ các đặc điểm lâm sàng, các biện pháp chăm sóc và kết quả điều trị của bệnh nhi
HCRN sau phẫu thuật cắt ruột non.
Phương pháp nghiên cứu: mô tả hàng loạt ca.
Kết quả: tại bệnh viện Nhi đồng 1 và 2 từ 1/1/2005-31/12/2007 có 51 bệnh nhân. 84,3 % là sơ sinh, đa số do
bất thường giải phẫu đường tiêu hoá. Tỉ lệ mất hồi tràng cao (88,4%), hậu môn tạm chủ yếu ở hỗng tràng. Nuôi
tĩnh mạch chưa đầy đủ, sử dụng catheter trung ương ít và phải rút bỏ sớm do nhiễm trùng. Thời gian cho ăn
đường miệng lại chậm do rối loạn vận động ruột. Các can thiệp nội và ngoại khoa hỗ trợ chưa thường xuyên và
chưa thống nhất. Biến chứng chủ yếu là nhiễm trùng huyết (95,3% sơ sinh và 100% ngoài sơ sinh) do
Staphylococus coagulase, Candida albicans, Klebsiella pneumoniae, ứ mật, hạ natri máu, rối loạn vận động ruột.
Tử vong 56,9%, do NTH chiếm 72,4%, có 33,3% tử vong trong hồi sức sau phẫu thuật. Thời gian nằm viện và
thời gian nuôi tĩnh mạch dài hơn ở nhóm mất van hồi manh tràng, đại tràng không nguyên vẹn, ngoài tuổi sơ
sinh, có bất thường giải phẫu đường tiêu hoá, mất hồi tràng, được đặt catheter trung ương, nuôi qua sonde hỗ
trợ. Tỉ lệ tử vong cao hơn ở nhóm mất van hồi manh tràng, đại tràng không nguyên vẹn, ăn đường miệng trở lại
muộn hơn, ngoài tuổi sơ sinh, mất hồi tràng, nằm hồi sức sau mổ lâu hơn, có hạ Na máu.
Kết luận: HCRN sau phẫu thuật cắt ruột non chủ yếu xảy ra ở giai đoạn sơ sinh.Các can thiệp nội ngoại
khoa chưa thống nhất và chưa thường xuyên. Biến chứng chủ yếu là nhiễm trùng huyết, ứ mật, hạ natri máu và
rối loạn vận động ruột. Tỉ lệ tử vong còn cao dù đã có nhiều tiến bộ. Cần có phác đồ chăm sóc thống nhất và tích
cực hơn trong điều trị HCRN trẻ em để cải thiện tiên lượng bệnh.

ABSTRACT
MANAGEMENNT OF SHORT BOWEL SYNDROME IN CHILDREN AFTER SMALL INTESTINE
RESECTION IN HOSPITAL NHI DONG 1& 2 FROM 01/01/2005- 31/12/2007
Nguyen Thi Thu Hau, Pham Thi Ngoc Tuyet, Tran Thi Thanh Tam
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 4 – 2008: 62 – 68
Objectives: to determine the rate of clinical characteristics, supports and inteventional results of short bowel
syndrome after small intestine resection.
Methods: Case series study.
Results: this study was conducted on 51 cases of pediatric hospital 1 and 2 from 1/1/2005-31/12/ 2007.
Neonates were 84.3 %, most of them had abnormal GI anatomy. Ileal resection was approximately 88.4%, and
stoma was mainly located at jejunum. Parenteral nutrition supports seem to be inadequate, the use of central
venous catheters was unusual and proportion of early withdrawed was high due to infection. The introduction of
oral feeding was delayed because of motility disorders. Medical and surgical managements have not been applied
adequately and consitently. Significant complications are sepsis (95.3% in neonates and 100% in the others
children) caused by Staphylococus coagulase, Candida albicans, Klebsiella pneumoniae, cholestasis, hyponatremia
and motility disorders. The mortality rate was 56.9%,in which sepsis was 72.4%, and 33.3% post-operation
children was died during intensive care period. Children with ileo cecum valve resection, colon resection, out of
neonatal period, abnormal GI anatomy, ileum resection, using central venous catheters and enteral nutrition
required longer duration of hospitalization and parenteral support. Higher mortality was seen in patients with
ileocecum valve resection, colon resection, delayed oral feeding, out of neonatal period, ileum resection, long stay
* Bệnh viện Nhi Đồng 2 **: Đại học Y dược TP HCM

Chuyên đề Nhi Khoa

1

in ICU and hyponatremia.
Conclusions: Children SBS mainly occurs in neonatal period. Medical and surgical managements have not
been applied adequately and consitently. Significant complications are sepsis, cholestasis, hyponatremia and
motility disorders. The mortality rate was high in spite of recent improvements.It’s necessary to get a consensus
and more active protocol in clinical care to improve the outcome.
* Nếu ngoài giai đoạn sơ sinh:
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng ruột ngắn (HCRN) đặc trưng bởi
tình trạng kém hấp thu các chất dinh dưỡng xảy
ra sau khi cắt phần lớn ruột non do các sang
thương bẩm sinh hay mắc phải. Sự phát triển
của nuôi ăn tĩnh mạch và đường tiêu hoá trên
thế giới giúp cải thiện tiên lượng bệnh rất nhiều.
Các kỹ thuật nuôi ăn giúp bệnh nhi bị HCRN có
thể phát triển bình thường trong quãng thời gian
dài chờ đợi sự thích ứng của phần ruột non còn
lại và quyết định kết quả thành công của cuộc
phẫu thuật. Ngoài ra, bệnh nhi còn được hỗ trợ
bằng các can thiệp nội khoa và ngoại khoa để cải
thiện chức năng của đoạn ruột còn lại. Tuy
nhiên, việc chăm sóc, điều trị bệnh nhân HCRN
rất phức tạp, tốn kém, chưa thống nhất. Chúng
tôi tiến hành nghiên cứu này để bước đầu khảo
sát tình hình chăm sóc điều trị HCRN sau phẫu
thuật ở trẻ em Việt nam.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhi sau phẫu thuật cắt ruột
non tại bệnh viện Nhi đồng 1 và Nhi đồng 2 trong
khoảng thời gian 1/1/2005-31/12/2007 có biểu hiện
HCRN (chọn từ sổ tường trình phẫu thuật).

Tiêu chuẩn nhận vào
Bệnh nhân mổ cắt ruột non có 1 trong 2 tiêu
chuẩn:
1. Dựa vào chiều dài hỗng hồi tràng còn lại
sau phẫu thuật:
* Sơ sinh: Chiều dài đoạn hỗng hồi tràng còn
lại < 25% chiều dài hỗng hồi tràng ước đoán theo
tuổi thai.
-Nếu phẫu thuật RN khi< 35 tuần tuổi thai:
chiều dài hỗng hồi tràng còn lại ≤ 50cm
- Nếu phẫu thuật RN lúc ≥ 35 tuần tuổi thai:
chiều dài hỗng hồi tràng còn lại ≤72 cm.

Chuyên đề Nhi Khoa
2

-Từ 1 tuổi trở xuống: chiều dài hỗng hồi
tràng còn lại ≤ 75 cm
-Trên 1 tuổi: chiều dài hỗng hồi tràng còn lại
≤ 100 cm
2. Dựa vào chức năng ruột sau phẫu thuật:
Sau phẫu thuật cắt ruột non phải nuôi tĩnh
mạch hỗ trợ trên 42 ngày do rối loạn chức
năng ruột.

Tiêu chuẩn loại ra
- Hồ sơ không đầy đủ dữ liệu.
- Có các bệnh lý đi kèm đòi hỏi phải nuôi
tĩnh mạch dài ngày như bệnh tim bẩm sinh phức
tạp, tràn dịch màng phổi dưỡng trấp, u vùng
hầu họng không nuốt được, hội chứng giả tắc
ruột mạn…

Thu thập và xử lý số liệu
Các bệnh nhân được theo dõi trong suốt thời
gian nằm viện hoặc trong vòng 3 tháng kể từ khi
nhập viện.
Số liệu từ hồ sơ sẽ được thu thập theo phiếu
thu thập. Các biến số được mã hoá và xử lý bằng
phần mềm thống kê SPSS 10.0 for Window. Mô
tả đặc điểm mẫu nghiên cứu bằng tỉ lệ đối với
các biến định tính. Tính trung bình và độ lệch
chuẩn với các biến định lượng.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Có 51 trường hợp thoả tiêu chuẩn nhận
bệnh.

Các đặc điểm về lâm sàng
- Có 28 bệnh nhân của bệnh viện Nhi đồng 1
(54,9%) và 23 bệnh nhân của bệnh viện Nhi đồng
2 (45,1%).
- Nam chiếm 56,9% (29/51 trường hợp), nữ
43,1% (22/51).

- Tuổi trung vị: 3 ngày tuổi, nhỏ nhất:1 ngày,
lớn nhất: 13 tuổi. Đa số dưới 1 tuần tuổi 37/51 ca
(72,5%).

Chăm sóc dinh dưỡng

- Sơ sinh: 43/51 trường hợp (84,3%), với 30/43
bệnh nhân sinh đủ tháng (69,7%) và 13/43 non
tháng; tuổi thai từ 35 đến dưới 37 tuần là 5/43
(11,6%), dưới 35 tuần là 8/43 (18,6%), không có
trường hợp nào tuổi thai dưới 27 tuần.

Hình Nhóm BN
thức
Có nuôi Tất cả
TM
Xuất viện
Tử vong
TM
Xuất viện
hoàn
toàn
Đủ nhu
Tất cả
cầu
Xuất viện
≥ nhu
Tất cả
cầu cơ Xuất viện
bản
nguon tai.lieu . vn