Xem mẫu
- Cấp cứu bệnh nhân suy tim
Trong suy tim cấp tính: Thường bắt đầu bằng thuốc tiêm furosemid (lasix)
20 - 40mg tiêm tĩnh mạch hoặc bắp thịt để có tác dụng nhanh và mạnh, sau
đó duy trì bằng thuốc uống.
Trong suy tim mạn tính: Hay dùng furosemid viên (lasilix 40 mg), liều tùy
thuộc vào lượng nước tiểu của bệnh nhân (cân bằng nước vào và ra, tình
trạng ứ nước). Cần lưu ý phải bổ sung kali khi sử dụng dài ngày. Hiện nay,
hầu hết các bác sĩ tim mạch thường kết hợp giữa furosemid (thuốc tăng đào
thải kali) với spironolacton (là thuốc lợi tiểu giữ kali do spironolacton còn có
tác dụng kháng lại aldosteron đã tăng trong suy tim).
+ Các thuốc làm giãn tĩnh mạch như các nitrat làm giảm lượng máu trở về
tim, giảm áp lực tiểu tuần hoàn và giảm thể tích cuối tâm trương thất trái.
Các thuốc này làm máu ứ lại trong hệ tĩnh mạch ngoại vi, giảm lượng máu
trở về tim và như vậy làm giảm tiền gánh; người ta hay dùng nitroglycerin
và các dẫn chất (lenitral, peritrat, imdur) kết hợp với các chất ức chế men
chuyển, hiệu lực thấy rõ trong suy tim cấp tính, suy tim mạn tính độ III, IV.
+ Các thuốc giãn cả tĩnh mạch và tiểu động mạch: các thuốc này làm giảm
cả tiền gánh và hậu gánh; trong nhóm này thuốc hay được dùng nhất là các
chất ức chế men chuyển angiotensin như captopril (lopril), enalapril
(renitec), perindopril (coversyl), quinapril (accupril)..., các chất chẹn thụ thể
AT1 của angiotensin II như losartan (cozaar), irbesartan (aprovel),
telmisartan (micardis)...
- Các chất ức chế men chuyển cản trở việc hình thành angiotensin II là một
chất co mạch rất mạnh, đồng thời ức chế việc thoái giáng bradykinin là một
chất giãn mạch, làm giảm hoạt tính giao cảm, kích thích vùng dưới đồi - yên
tiết ra arginin-vasopressin, kích thích tăng s ản xuất các prostaglandin giãn
mạch PGI2, PGE2 ... Các chất ức chế men chuyển đã cải thiện được tình
hình huyết động rõ rệt cho nhiều bệnh nhân suy tim nặng đã kháng với điều
trị kinh điển và đã làm giảm tử vong đáng kể; các thuốc này cũng ít có tác
dụng phụ không tốt, nên đang là loại thuốc có nhiều triển vọng nhất.
Các chất ức chế các thụ thể AT1 của angiotensin II cũng có hiệu lực như các
chất ức chế men chuyển, lại tránh được tai biến ho do không làm ứ đọng
bradykinin.
- Duy trì khả năng co bóp của nhĩ trái:
+ Khôi phục lại nhịp xoang nếu bệnh nhân bị rung nhĩ; nếu không thể phục
hồi được thì làm giảm tần số thất để kéo dài thời gian tâm trương; thậm chí
phải đặt máy tạo nhịp đồng bộ nhĩ – thất (để tạo lại nhịp co bóp đồng bộ của
nhĩ và thất). Tuy nhiên khi dùng các thuốc nhóm này, cần tránh dùng
digoxin vì làm tăng nồng độ Ca++ ở thì tâm trương, digitalis có thể làm
giảm quá trình thư giãn của thất trái và làm cho rối loạn chức năng tâm
trương càng xấu đi.
+ Nếu nhịp tim nhanh kéo dài: Chỉ định dùng các thuốc ức chế thụ thể b giao
cảm và các chất ức chế calci làm cho tần số tim chậm lại, tăng thời gian tâm
trương; nên đưa tần số tim xuống khoảng 60 ck/phút để làm giảm tần số tim
cả khi gắng sức.
- Cải thiện khả năng gắng sức: các chất ức chế thụ thể giao cảm b, các chất ức
chế calci, các chất ức chế men chuyển và các chất chẹn thụ thể AT1 của
angiotensin II có lợi cho việc làm tăng khả năng gắng sức cho bệnh nhân suy
tim tâm trương
nguon tai.lieu . vn