Xem mẫu

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH
CHĂM SÓC RỐN TRẺ Ở CÁC BÀ MẸ: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
DỊCH TỄ HỌC TẠI HUYỆN CẦN GIỜ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Huỳnh Thị Duy Hương*

TÓM TẮT
Mở đầu: Nhiễm khuẩn rốn và uốn ván rốn là một vấn đề y tế công cộng vì tần số cao trong cộng đồng
và có thể dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng như tử vong ở trẻ em sơ sinh. Ơ Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ
lệ nhiễm khuẩn rốn và uốn ván rốn dao động từ 23% đến 43%. Tổ chức Y tế Thế giới ước tính rằng mỗi
năm có khoảng nửa triệu trẻ em tử vong vì nhiễm khuẩn rốn và uốn ván rốn, phần lớn xảy ra ở các nước
đang phát triển. Một trong những nguyên nhân của nhiễm khuẩn rốn và uốn ván rốn là do các bà mẹ thiếu
kiến thức, có thái độ không đúng, và thực hành chăm sóc rốn không thích hợp.
Mục tiêu: Nghiên cứu này có mục tiêu tìm hiểu các yếu tố có ảnh hưởng đến tình trạng thiếu kiến thức
cũng như thái độ và thực hành không đúng ở các bà mẹ.
Phương pháp: Nghiên cứu được thiết kế như là một cuộc khảo sát cắt ngang và mô tả. Đối tượng
nghiên cứu gồm 265 bà mẹ mới sinh con (trẻ dưới 4 tháng tuổi) cư ngụ tại huyện Cần Giờ, một huyện ngoại
ô thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Kiến thức (như phương pháp chăm sóc, hiểu biết dịch tiết, thời gian rụng
rốn), thái độ (bao gồm tháo băng, không tắm rốn, giữ cuốn rốn khô sạch), và thực hành chăm rốn (như băng
rốn, bôi rốn, tắm rốn, lau rốn) được thẩm định bằng một bộ câu hỏi đã được kiểm định trước. Ba biến số
được tính từ kiến thức, thái độ, và thực hành: KA (kiến thức và thái độ), KP (kiến thức và thực hành), và
AP (thái độ và thực hành). Các yếu tố ảnh hưởng được nghiên cứu là độ tuổi, nghề nghiệp, học vấn, thành
phần kinh tế, và được thu thập qua phỏng vấn trực tiếp từng bà mẹ. Mô hình hồi qui đa biến logistic được
ứng dụng để phân tích mối liên hệ giữa các yếu tố và KA, KP và AP.
Kết quả: Trong số 265 bà mẹ, có 30% có kiến thức đúng, 69% (n = 184) có thái độ đúng, và 33% (n =
88) có những thực hành đúng hay và thích hợp về chăm sóc rốn cho trẻ em.Phân tích hồi qui logistic cho
thấy tình trạng kinh tế gia đình khó khăn có liên quan đến kiến thức + thực hành và thái độ + thực hành
chăm sóc rốn.Những bà mẹ trên 25 tuổi và kinh tế gia đình trên trung bình có thái độ và thực hành chăm
sóc trẻ em đúng hơn các bà mẹ trẻ tuổi hay tình trạng kinh tế gia đình khó khăn.Kết quả phỏng vấn trực tiếp
phát hiện 3 nhóm nguyên nhân ảnh hưởng đến kiến thức, thực hành và thái độ chăm sóc trẻ em: nhân viên y
tế, người thân trong gia đình, và do chính bà mẹ.
Kết luận: Tóm lại, tình trạng kinh tế gia đình và độ tuổi của bà mẹ có ảnh hưởng đến kiến thức, thái độ
và thực hành chăm sóc rốn cho trẻ sơ sinh. Các kết quả này còn chỉ ra một nhu cầu cấp thiết cho một chương
trình hướng dẫn về chăm sóc rốn cho trẻ sơ sinh, và một chương trình như thế cần phải có sự tương tác
giữa ba nhân tố: nhân viên y tế, người thân, và bà mẹ.

ABSTRACT
SOCIO-ECONOMIC CORRELATES OF KNOWLEDGE, ATTITUDE, AND PRACTICE OF POSTNATAL CORD CARE AMONG MOTHERS IN CẦN GIỜ DISTRICT, HCMC
Huynh Thi Duy Huong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 7-16
Background:The public health significance of umbilical infection and umbilical tetanus is wellrecognized because these disorders can lead to sepsis and increased risk of mortality among newborn infants
* Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh

Nhi Khoa

1

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

in developing countries. Hospital-based studies in Ho Chi Minh City suggested that the prevalence of
umbilical infection and umbilical tetanus ranged between 23% and 43%. The World Health Organization
estimates that annually, about half a million infants in the world, mostly from developing countries, die of
umbilical infection and umbilical tetanus. One of the most important factors that lead to umbilical infection
and umbilical tetanus is the traditional but unhygienic practice of cord care which has root in cultural
background.
Objectives: The present study was therefore designed to investigate the factors that affect the
inadequate knowledge, attitude and practice of postnatal cord care among mothers.
Method: The study was designed as a cross-sectional and descriptive investigation, in which 265
mothers with newborn babies (under 4 months old) were included. The mothers were residents of the Cần
Giờ, a semi-rural district of Ho Chi Minh City. None of the children was diagnosed with umbilical infection
or umbilical tetanus. Knowledge (methods of care, understanding of umbilical mucus, and time of umbilical
removal), attitude towards hygiene of natal cord, and practice of cord care were collected by a structured
questionnaire which had previously been validated. Three outcome variables were combined from the three
primary variables to yield: KA (knowledge and attitude), KP (knowledge and practice), and AP (attitude and
practice). Each outcome variable was dichotomized into correct versus incorrect score. In addition, data on
mother’s age, occupation, educational levels, family economic status, and parity were also obtained from each
mother by direct interview. These covariates were then analyzed in relation to the three outcome variables by
the multiple logistic regression model.
Results: The average age of mothers was 27 (range: 22-29), with approximately 60% having age above
25 years. Among the 265 mothers, 30%, 69% and 33% was deemed to have adequate knowledge, appropriate
attitude, and correct practice of cord care, respectively. Mothers aged 25 or older and with economic hardship
were found to have higher probability of poor KA, KP, and AP. Furthermore, qualitative analysis suggested
that the practice and attitude of cord care were influenced by healthcare workers, relatives, and the mothers
themselves.
Conclusion: In summary, these results indicate that in the Can Gio community, economic hardship and
mothers’ age were associated with knowledge attitude and practice of post-natal cord care. These results also
underscore an urgent need for a educational program to help prospective mothers in the care of postnatal
cord, and that such a program must incorporate the participation of healthcare workers and relatives. .
toàn và lợi ích nhất”, nhằm tránh NKR, UVR
ĐẶT VẤN ĐỀ
xảy ra tại bệnh viện cũng như khi trẻ xuất viện
Tại các nước đang phát triển, uốn ván rốn
về nhà, tập trung chủ yếu tại các nước phát
(UVR) và nhiễm khuẩn rốn (NKR) là những
triển(11,21,28,29). Tại những nước đang phát triển
nguyên nhân chính đưa đến tử vong ở trẻ sơ
còn ít nghiên cứu về vấn đề này(9,15,19,26).
sinh. Mỗi năm, theo tổ chức y tế thế giới
Tại Việt Nam, tỷ lệ NKR được ghi nhận tại
(TCYTTG) độ 500.000 trẻ chết do UVR và độ
các
Bệnh viện (BV) Thành phố Hồ Chí Minh
460.000 trẻ chết vì những hậu quả của nhiễm
thay đổi từ 23% đến 43% và cá biệt vài trường
khuẩn nặng(27).
hợp nặng dẫn đến nhiễm khuẩn huyết và gây
Một trong 3 yếu tố thường gặp sự tồn tại
tử vong rất đáng tiếc(2,3,4).
những hủ tục nuôi con, những thói quen tập
Nghiên cứu này chỉ tập trung ở yếu tố thứ 3
quán có hại gây mất vệ sinh trong việc chăm
làm gia tăng tần suất NKR và UVR ở những
sóc rốn trẻ ở cộng đồng dân cư.
nước đang phát triển là “Sự tồn tại những hủ
Từ 1984 có rất nhiều nghiên cứu, thảo luận
tục nuôi con, những thói quen tập quán có hại
quanh việc “chăm sóc rốn như thế nào là an

Nhi
Khoa
2

Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 12 * Phụ bản Soá 1 * 2008
gây mất vệ sinh trong việc chăm sóc rốn trẻ ở
cộng đồng dân cư” qua các mục tiêu:
1. Xác định liên quan giữa các yếu tố kiến
thức, thái độ, thực hành CSRTSS của các bà
mẹ. 2. Thăm dò những nguyên nhân ảnh
hưởng đến thực hành CSRTSS của các bà mẹ.

KHÍA CẠNH DỊCH TỄ CỦA NHIỄM
TRÙNG RỐN SƠ SINH
Trên thế giới, tỷ lệ NKR sơ sinh tương đối
hiếm ở các nước phát triển, nhưng những
trường hợp đơn lẻ và các dịch nhỏ NKR vẫn
xảy ra dù việc sinh trong các bệnh viện đã
được thực hiện vô trùng(29). NKR thường gặp
nhiều hơn ở những nước đang phát triển(28,29).
Một nghiên cứu tại BV ở Ấn Độ đã cho thấy,
trong số những trẻ nhập viện do nhiễm khuẩn
huyết thì 47% có nguồn lây từ rốn và trên những
trẻ nhập viện 21% là do NKR(28). Theo nghiên cứu
tổng quan của TCYTTG, mỗi năm độ 500.000 trẻ
chết do UVR và độ 460.000 trẻ chết vì những hậu
quả của nhiễm khuẩn nặng(27). Nguồn lây chính
cho bệnh lý này là việc sử dụng phân bò thoa lên
rốn, đây là một thực hành có nguồn gốc từ tôn giáo
hay phong tục tập quán, nhất là ở Ấn Độ, Pakistan,
Bangladesh, Thổ Nhĩ Kỳ và những quốc gia Châu
Phi như Zạre, Nigeria, Sudan(27,28,29). Ngay tại Hoa
kỳ năm 1998 vẫn còn báo cáo có ca UVR tại
Montana. Một nghiên cứu tại Pakistan năm 2004
cho thấy trong 3 năm đã có 125 bệnh nhi UVR.
Một nghiên cứu tiền cứu trong đô thị ở Ấn Độ cho
thấy tỷ lệ mới mắc của NKR là 30/1000, tỷ lệ bệnh
mới mắc của NKR của sơ sinh tại bệnh viện là 2,3%
; tại nhà là 21,3% . Theo Obimbo và cộng sự, tại
khoa Nhi, Trường Đại học Nairobi, Kenya trong
một nghiên cứu về KT-TĐ-TH của các bà mẹ và
KT của NVYT liên quan đến vấn đề CSRTSS, cho
thấy các bà mẹ có KT tốt trong việc giữ vệ sinh khi
cắt rốn nhưng lại không biết và TH sai việc
CSRTSS sau khi sinh(24). Tại Việt Nam, một nghiên
cứu năm 2000 tại quận 8 TP HCM, cho thấy bà mẹ
có KT tốt, TĐ tốt trong việc CSRTSS, nhưng TH
còn nhiều vướng mắc và chịu nhiều ảnh hưởng
của mẹ chồng, mẹ ruột(14).

Nhi Khoa

Nghieân cöùu Y hoïc

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu định lượng
Tiêu chí chọn vào
Bà mẹ đang nuôi con dưới 4 tháng; Mẹ cư
trú tại Cần Giờ từ sáu tháng trở lên; Trẻ chưa
từng được chẩn đoán NKR từ NVYT.
Tiêu chí loại ra
Bà mẹ bị chậm phát triển tâm thần hoặc có
những biểu hiện bệnh lý về tâm thần kinh; Trẻ
trong nhóm tuổi nghiên cứu không có mặt khi
phỏng vấn viên đến phỏng vấn và đã từng
được chẩn đoán là nhiễm tùng rốn bởi NVYT.
Nghiên cứu định tính
Tất cả các NVYT và bà mẹ được chọn vào
phỏng vấn sâu có định hướng và thảo luận
nhóm có trọng tâm đều tự nguyện và ký tên
vào bảng thỏa thuận tham gia nghiên cứu, các
NVYT đang làm việc tại TTYT Cần Giờ, các bà
mẹ cư ngụ tại huyện Cần Giờ.

Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu định lượng (mục tiêu 1)
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu định lượng: cắt ngang, mô tả
và phân tích(18,22,23).
Cỡ mẫu
Theo công thức tính cỡ mẫu cho mục tiêu
ước lượng một tỷ lệ với sai số nhất định, với : =
0,05; do đó Z (1-/2) = 1,96, p = là tỷ lệ các bà mẹ
có KT, TĐ, TH đúng, mong đạt được trong
nghiên cứu. Trong 1 nghiên cứu về KT-TĐ-TH
về CSRTSS của các bà mẹ tại Quận 8 năm
2000(14), tỷ lệ các bà mẹ có kiến thức đúng là
0,35; thái độ hợp tác là 0,64; thực hành đúng la
0,25. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chọn tỷ
lệ sẽ cho mẫu được chọn là lớn nhất, do đó p =
0,64. d= 0,07. Chúng tôi được n= 180, dự trù
khoảng 10% các bà mẹ sẽ không trả lời đầy đủ
các câu phỏng vấn, chúng tôi có cộng thêm
10% của mẫu cần thu thập, tức 18 người nữa.
Vậy mẫu cần thu thập là 180 + 18 = 198, làm
tròn 200. Do số bà mẹ hiện cư ngụ tại địa

3

Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 12 * Phụ bản Soá 1 * 2008
phương khoảng gấp rưỡi số mẫu dự kiến nên
chúng tôi quyết định phương pháp lấy mẫu
toàn thể để đảm bảo tính chính xác của ước
lượng và tránh các sai lầm có thể có do việc
chọn mẫu không đại diện.

Kỹ thuật chọn mẫu: lấy mẫu toàn thể
Biến số nghiên cứu
Các biến số về kiến thức, thái độ và thực hành (biến
phụ thuộc)
 Các biến số kiến thức về CSRTSS là
biến số nhị giá với hai giá trị: kiến thức đúng và
kiến thức chưa đúng, bao gồm các biến kiến thức
sau đây: thời gian rốn rụng; phương pháp
chăm sóc rốn: giữ rốn không ướt lúc tắm trẻ
(khi rốn chưa rụng), tháo băng rốn đã được
NVYT quấn kín lúc rời nhà bảo sanh, không
băng rốn kín (khi rốn chưa rụng), không băng
rốn kín (khi rốn đã rụng), giữ rốn khô và sạch;
dịch tiết tại rốn gồm dịch sinh lý, dịch bệnh và
biến số kiến thức chung (thời gian rụng rốn+
chăm sóc rốn + dịch rốn).
 Các biến số thái đo về CSRTSS là biến
số nhị giá với hai giá trị: thái độ hợp tác (đúng)
hoặc không không hợp tác (chưa đúng), với
việc:tháo băng rốn đã được NVYT băng kín lúc
rời nhà bảo sanh; không tắm rốn đồng thời lúc
tắm trẻ (khi rốn chưa rụng); giữ cuống rốn
luôn khô sạch (khi rốn chưa rụng); không bôi
bất kỳ dung dịch nào lên chồi rốn trẻ và biến
số thái độ chung (gồm 4 thái độ về chăm sóc
rốn kể trên).
 Các biến số thực hành về CSRTSS là
biến số nhị giá với hai giá trị: thực hành đúng và
thực hành chưa đúng gồm: không băng rốn;
không bôi thuốc lên rốn lúc rốn chưa rụng (khi
có tiết dịch sinh lý tại rốn); không bôi thuốc lên
rốn lúc rốn đã rụng; giữ rốn khô khi tắm trẻ (=
không tắm rốn đồng thời với tắm trẻ); lau rốn
(khi rốn ướt, dùng gòn sạch hay vải sạch lau
khô rốn) và biến số thực hành chung (5 thực
hành chăm sóc rốn kể trên).
Các biến số về đặc trưng cá nhân và xã hội
(ĐTCNXH) (biến độc lập)

Nhi
Khoa
4

Nghieân cöùu Y hoïc

 Những biến số đặc trưng cá nhân và xã hội của
bà me
Tuổi: hai lớp: từ 25 tuổi trở lên; từ 24 tuổi
trở xuống; nghề nghiệp: hai lớp: có nghề
nghiệp; nội trợ: tức thất nghiệp; học vấn: hai
lớp: từ cấp 2 trở lên; từ cấp 1 trở xuống; số con:
hai nhóm: nhóm từ 2 con trở lên; nhóm chỉ có
1 con; khoảng cách sinh: hai nhóm:nhóm trên 2
năm; nhóm từ 2 năm trở xuống; nơi sinh: 2
nhóm: nhóm sinh con tại TTYT huyện, BV TP
HCM; nhóm sinh con tại nhà, bệnh viện tư;
kinh tế gia đình (theo phân loại của chính quyền
địa phương): được chia hai nhóm: nhóm 1: từ
trung bình đến giàu; nhóm 2: nghèo.

 Biến số đặc trưng của con: nam hoặc nữ
Nghiên cứu định tính (mục tiêu 2)
Thiết kế nghiên cứu: thảo luận nhóm và
phỏng vấn sâu để tìm hiểu những nguyên
nhân ảnh hưởng đến các bà mẹ có thực hành
CSRTSS chưa đúng
Cỡ mẫu với thảo luận nhóm, chúng tôi có 4
nhóm cho mỗi đối tượng: 20 nhân viên y tế và
30 bà mẹ. Tổng cộng 50 người. Trong phỏng
vấn sâu, chúng tôi mời 3 người của mỗi nhóm:
có tất cả 24 người.
Kỹ thuật chọn mẫu: Được thực hiện với 4
nhóm cho mỗi đối tượng là NVYT và bà mẹ,
mỗi nhóm có từ 6-8 người. Bà mẹ được phân
tầng theo tuổi, trình độ học vấn, tình trạng
kinh tế xã hội. NVYT được phân tầng theo
trình độ chuyên môn. Để kiểm tra tính chính
xác, thông tin được thu thập theo phương
pháp tam giác hóa(25).
Biến số nghiên cứu qua thảo luận nhóm
và phỏng vấn sâu.
Chủ đề được thảo luận: lý do các bà mẹ
thực hành chưa đúng việc CSRTSS.

PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ & PHÂN TÍCH
DỮ LIỆU
Nghiên cứu định lượng
Phân tích đa biến các mối liên quan

Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 12 * Phụ bản Soá 1 * 2008
Phân tích đa biến mối liên quan giữa TH
với KT, giữa TH với TĐ bằng phương pháp
hồi qui đa biến với phần mềm STATA 8.0 để
tìm hiểu yếu tố nào có ảnh hưởng mạnh lên
TH CSRTSS.

Kiểm soát hiện tượng gây nhiễu
Các yếu tố đặc trưng kinh tế xã hội gây
nhiễu cho mối quan hệ giữa KT và TH chăm
sóc rốn được kiểm soát bằng phương pháp
phân tầng và hồi quy logistic.

lại ý tưởng mới ghi nhận vào. Điều quan trọng là
cuối giai đoạn này, chúng tôi hình thành được
1 bảng mã hóa, tức là bảng ghi lại tất cả mã số
và ý nghĩa của nó qua các biên bản gỡ băng.
- Để đảm bảo sự khách quan trong phân
tích số liệu, số liệu này được gởi cho một
người am hiểu về rốn của trẻ sơ sinh để đọc và
mã hoá lại. Những điểm khác nhau trong việc
mã hóa sẽ được thảo luận để đi đến ý kiến

Nghiên cứu định tính

thống nhất sau cùng.

Ghi chép và thu âm
Các buổi thảo luận nhóm và phỏng vấn
sâu được ghi âm đầy đủ. Sau đó chúng tôi
nghe lại nhiều lần phần ghi âm để kiểm tra
tính đúng đắn khi ghi chép lại.

Giai đoạn 2: Tạo log book

Thẩm tra và phân tích dữ liệu
Giai đoạn 1: Phân tích biên bản gỡ băng, mã hóa
các ý cần thiết
- Trước tiên, chúng tôi đọc toàn bộ biên
bản gỡ băng để có những cảm nhận chung
nhất, dựa vào mục tiêu và những ý tưởng đã
được chúng tôi giả định trước.
- Tiếp đó, chúng tôi đọc biên bản gỡ băng ở
những mục chuyên biệt, dựa vào những nội
dung cần thu thập. Tuy nhiên có thể phát hiện
thêm nhiều ý mới quan trọng trong quá trình
thảo luận nhóm hay phỏng vấn sâu. Những ý
mới này sẽ được bổ sung thêm vào bảng mã
hóa. Tất cả các băng ghi âm sẽ được người
nghiên cứu chính chép lại. Xác định từ khóa và
phân tích theo biến số, theo chủ đề, riêng cho
KT-TĐ-TH.
- Tiếp theo, chúng tôi loại bỏ những câu trả lời
của người tham gia bị ép buộc do kỹ năng điều
phối kém của người dẫn buổi thảo luận.
- Sau đó, sử dụng bảng mã hóa để mã hóa
ngay cạnh các đoạn đối thoại.
- Khi phát hiện một câu trả lời đem lại ý

Nghieân cöùu Y hoïc

Log book là nơi ghi lại tất cả các câu trả lời
với các chủ đề quan tâm qua các cuộc thảo
luận nhóm và phỏng vấn sâu.
Trong log book, dưới mỗi mã số, chúng tôi ghi
lại những câu trả lời có liên quan đến chủ đề được
mã hóa này, với các ý kiến giống nhau mà chúng
tôi chỉ ghi nhận 1 lần vào log book.
Cuối cùng, sau khi thu thập tất cả các ý đã
được nhắc đến trong thảo luận nhóm và phỏng
vấn sâu, chúng tôi sẽ đếm số lần xuất hiện của các
ý kiến giống nhau này (số người đã đề cập đến và
nhóm thảo luận đã nhắc đến).
Giai đoạn 3: Viết kết quả(1,5,6,7,12,25)
Qua log book và biên bản gỡ băng, chúng
tôi quyết định những câu trả lời nào đủ quan
trọng để đưa vào kết quả, những câu trả lời
nào cần giữ nguyên văn hay chỉ ghi tóm tắt ý.
Kết quả của phân tích định tính là những
nguyên nhân giải thích cho những thực hành
chưa đúng trong CSRTSS của bà mẹ.

KẾT QUẢ
Mối liên quan đa biến giữa các yếu tố
kiến thức, thái độ, thực hành
Liên quan giữa KT với TH phân tầng theo
ĐTCNXH của bà mẹ

tưởng hoặc chủ đề mà không được giả định
trước, thì chúng tôi mã hóa với tên mới và ghi

Nhi Khoa

5

nguon tai.lieu . vn