Xem mẫu

CÁC LỖI THƯỜNG GẶP VỀ CÂU TRONG VĂN BẢN 1/ Lỗi về quan hệ ý nghĩa giữa các bộ phận trong câu và giữa câu vs câu (sai ngữ nghĩa): a­Câu phản ánh sai hiện thực khách quan, thiếu logic: do không nắm vững kiến thức VD1: “Trần Hưng Đạo đã lãnh đạo nhân dân ta đánh đuổi quân Minh giành nền độc lập cho tổ quốc” Mông­Nguyên VD2: “Tác phẩm Vợ nhặt của Nam Cao” Kim Lân b­Quan hệ nghĩa của các bộ phận trong câu không phù hợp với những quan hệ trong thực tế khách quan hoặc không phù hợp với các quy luật của nhận thức, tư duy con người: VD1:”Qua những tác phẩm văn học văn học ở thế kỷ XVIII, bọn quan lại phong kiến ra sức hoành hành, không bảo đảm nổi đời sống cho người dân lương thiện”. Câu này quan hệ giữa trạng ngữ và nồng cốt câu không phù hợp , phải chữa là: “Qua những tác phẩm văn học văn học ở thế kỷ XVIII, ta thấy bọn quan lại phong kiến ra sức hoành hành, khiến cho đời sống cho người dân lương thiện không bảo đảm ” VD2: “Người chiến sĩ bị hai vết thương: một vết thương ở đùi bên trái và một vết thương ở Quảng Trị” VD3: “Hãy tìm các ví dụ trong Tắt đèn, Truyện Kiều và Hồ Xuân Hương để chứng minh.” “thơ Hồ Xuân Hương” c­Quan hệ ý nghĩa giữa các bộ phận của câu thực chất không phù hợp với các phương tiện hình thức thể hiện quan hệ: thường xảy ra ở các câu ghép có dùng quan hệ từ nhưng không thích ứng với quan hệ ý nghĩa giữa các vế câu, bộ phận câu VD1: “Phan Bội Châu đã tố cáo bọn thực dân Pháp bóc lột nhân dân ta về thuế má nhưng ông không ngần ngại mà không vạch mặt bọn thực dân Pháp cướp bóc nhân dân ta” .Câu này quan hệ giữa 2 vế không phải là quan hệ đối lập nên không thể dùng từ “nhưng”, phải chữa lại :”Phan Bội Châu đã tố cáo bọn thực dân Pháp bóc lột nhân dân ta về thuế má hơn nữa ông còn vạch mặt bọn chúng ở tội ác cướp bóc nhân dân ta về các lĩnh vực khác” d­Không phân định rõ những bổ ngữ có cách chi phối khác nhau: VD : Thực tế khách quan cho ta thấy thành công chỉ có thể có được qua những lần rút kinh nghiệm, khắc phục từ những thất bại bước đầu. + Lỗi : Cho động từ “khắc phục” kết hợp với quan hệ từ “từ” + Nguyên nhân : Không phân định rõ những bổ ngữ có cách chi phối khác nhau. + Cách sửa: Bỏ từ “từ” Tách ra : những lần rút kinh nghiệm từ những thất bại bước đầu và khắc phục chúng. Thực tế khách quan cho ta thấy thành công chỉ có thể có được qua những lần rút kinh nghiệm, khắc phục những thất bại bước đầu. Thực tế khách quan cho ta thấy thành công chỉ có thể có được qua những lần rút kinh nghiệm từ những thất bại bước đầu và khắc phục chúng. e­ Không phân định rõ mối quan hệ giữa các vế câu hoặc giữa câu với câu: VD1: Vì phong trào “ba đảm đang” đang phát triển sôi nổi khắp nơi nên chị em phụ nữ của chúng ta đã đóng góp rất nhiều thành tích to lớn vào công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, xây dựng Tổ Quốc giàu mạnh. + Lỗi : Cho vế 1 là nguyên nhân của vế 2 + Nguyên nhân: Không phân định rõ mối quan hệ giữa các vế câu + Cách sửa: Thay bằng cặp quan hệ từ “Nhờ­nên” Nhờ phong trào “ba đảm đang” được phát động khắp nơi nên chị em phụ nữ của chúng ta đã có cơ hội đóng góp được rất nhiều thành tích to lớn… Bỏ quan hệ từ “vì”, thay bằng “hưởng ứng” Hưởng ứng phong trào “ba đảm đang” đang phát triển sôi nổi khắp nơi nên chị em phụ nữ của chúng ta đã đóng góp rất nhiều thành tích to lớn vào công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, xây dựng Tổ Quốc giàu mạnh. VD2: Đức tính của người phụ nữ trong phong trào “ba đảm đang” đã được phát huy cao độ từ những đức tính sẵn có mà chị Dậu đã mang lấy đến nay hai mươi bảy năm chẵn là bài học quý báu tuy đối với nay thì đức tính đó chưa đầy đủ, hoàn chỉnh. + Lỗi : Chập cấu trúc câu. + Nguyên nhân: Không phân định rõ mối quan hệ giữa câu với câu + Cách sửa: Tách thành 2 câu Đức tính của người phụ nữ trong phong trào “ba đảm đang” là sự phát huy cao độ phẩm chất sẵn có ở chị Dậu từ mươi bảy năm về trước. Đức tính đó là một bài học quý, tuy chưa phải là đầy đủ, hoàn chỉnh đối với thời đại hiện nay. 2/ Lỗi về liên kết câu trong văn bản: a­ Lỗi liên kết nội dung: ­ Lỗi liên kết chủ đề: VD1: Ðọc tác phẩm Tắt đèn, chúng ta thấy: người nông dân Việt Nam dưới chế độ thực dân phong kiến đã bị áp bức, hành hạ hết sức tàn tệ. Gia đình chị Dậu không một ai là không bị hành hung. Anh Dậu đang ốm liệt giường liệt chiếu cũng bị trói bị đánh đập dã man. Cái Tí bé bỏng cũng bị roi đòn. Tên lí trưởng còn bắt dân nộp lễ vật khi đến xin con dấu vào đơn. Trong VD1, câu thứ nhất nêu lên một nhận định mang tính chất khái quát, trong đó, đối tượng nhận định chính là “người nông dân Việt Nam dưới chế độ thực dân phong kiến, nội dung nhận định là đã bị áp bức, hành hạ hết sức tàn tệ”. Câu thứ hai liên hệ đến một đối tượng khác: Gia đình chị Dậu. Ðối tượng mới này có quan hệ chặt chẽ với đối tượng cũ, được nêu trong câu thứ nhất; đó là mối quan hệ cái chung ­ cái riêng. Cũng theo chiều hướng ấy, câu thứ ba liên hệ đến Anh Dậu, câu thứ tư liên hệ đến Cái Tí bé bỏng. Ðó là các thành viên trong gia đình chị Dậu. Như vậy, câu thứ nhất, thứ hai, thứ ba và thứ tư liên kết chặt chẽ với nhau về chủ đề (và lô­gích). Nhưng câu thứ năm lại đề cập đến Tên lí trưởng, một đối tượng không có quan hệ chặt chẽ với các đối tượng cũ, đã được nêu ra: người nông dân Việt Nam dưới chế độ thực dân phong kiến, Gia đình chị Dậu, Anh Dậu, Cái Tí bé bỏng. Có thể sửa chữa bằng cách cắt bỏ câu cuối VD2: Bên cạnh chị Út, còn có biết bao người phụ nữ Việt Nam anh hùng khác. Ðó là chị Sứ, người con gái xứ Hòn bất khuất. Chị đã tô thêm vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam với phẩm chất anh hùng, bất khuất trung hậu đảm đang. Ngày xưa, nhà thơ Xuân Diệu (?) đã từng mơ ước: Ví đây đổi phận làm trai được. Nhưng bây giờ chị Út không những thừa kế được sự bất khuất của người xưa mà còn được sự giúp đỡ của thời đại. Chị vượt hơn người xưa về mọi mặt. Chị không cần như Xuân Diệu mơ ước đổi phận làm trai mới nên sự nghiệp mà chị cứ làm đàn bà, người mẹ sáu con, nhưng sự nghiệp anh hùng của chị chẳng phải chàng trai nào cũng sánh kịp. Trong VD2, câu thứ nhất vừa nhắc lại đối tượng đã được bàn luận trong phần văn bản trước: chị Út Tịch, vừa giới thiệu một đối tượng mới, mang tính chất khái quát: ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn