Xem mẫu
- Bệnh đục thể thuỷ tinh người già
Mái tóc bạc dần theo năm tháng, từng chiếc răng chia tay với ta thật lặng lẽ, khớp
xương đau mỏi và không theo sự điều khiển của ta nữa, đôi mắt ngày càng mờ mịt.
Một “thực đơn” không dễ chịu của tuổi sau 50. Thế mà đôi mắt trẻ lại như tuổi 30
lại là việc trong tầm tay nhờ những tiến bộ không ngừng của ngành nhãn khoa.
Bệnh khởi phát như thế nào?
Ở tuổi 45 chúng ta tạm hài lòng với đôi kính đọc sách. Đến tuổi 60 rất nhiều
người cần thêm một đôi kính nhìn xa nữa. Có vẻ phiền phức hơn nhiều. Nhưng
không lâu sau đó việc đeo kính không còn tác dụng nữa. Sức nhìn ngày càng giảm
sút. Đục thể thuỷ tinh bắt đầu quấy rầy chúng ta rồi đấy. Thế nào là đục thể thuỷ
tinh? Thể thuỷ tinh là một thấu kính trong suốt ở bên trong con mắt. Nó góp 1/3
vào năng lực hội tụ của nhãn cầu. Công suất hội tụ của thể thuỷ tinh được đảm bảo
khi nó còn trong suốt, các mặt cong và độ dầy còn nằm trong giới hạn sinh lý.
Ngoài ra thể thuỷ tinh còn có chức năng lọc tia tử ngoại – tia có hại có trong phổ
bức xạ của mặt trời. Khi các phân tử prôtêin không hoà tan bị tích tụ trong thể
thuỷ tinh cùng với tuổi tác thì tính trong suốt của nó không còn nữa, các tia sáng
khi đi qua vùng bị đục sẽ bị tán xạ mạnh gây giảm thị lực. Đục thể thuỷ tinh được
coi là đáng kể khi nó làm giảm thị lực xuống còn < 3/10.
Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ?
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra đục thể thuỷ tinh thế nhưng đục thể thuỷ tinh do
tuổi già chiếm tới 99%. Đục thể thuỷ tinh liên quan đến tuổi già khi nó xuất hiện
sau tuổi 65. Có rất nhiều yếu tố nguy cơ trong đó yếu tố tuổi tác được quan tâm
nhiều nhất. Các yếu tố khác cũng được nhắc đến như di truyền, môi trường, hoá
- sinh… được coi gây nên sự khác biệt về độ mẫn cảm với đục thể thuỷ tinh giữa cá
thể này với cá thể kia. Chúng ta có thể kể tới một loạt nguyên nhân khả dĩ: phơi
nhiễm quá nhiều với tia tử ngoại, rối loạn dinh dưỡng, ỉa chảy mất nước, tiểu
đường, thiếu hụt các yếu tố chống oxi hoá. Hút thuốc, uống rượu, cũng như việc
lạm dụng một vài loại thuốc là nguyên nhân được nhiều người biết đến.
Vài điều về dịch tễ học
Đục thể thuỷ tinh là nguyên nhân phổ biến nhất gây mù loà trên thế giới. Có
khoảng 25 đến 50 triệu người trên toàn cầu có thị lực < 1/20 là do đục thể thuỷ
tinh. Sau 60 tuổi thì tỷ lệ đục thể thuỷ tinh tăng rõ rệt do nhiều yếu tố cộng hưởng
như các bệnh tại mắt và toàn thân, chấn thương, điều trị bằng corticoide kéo dài …
Theo Framingham Eye Study trên phạm vi rộng cho thấy tỷ lệ đục thể thuỷ tinh ở
tuổi 55 đến 64 tuổi là 4,5%, ở tuổi 65 đến 74 tuổi là 18% và tới 45,9% ở tuổi từ 75
đến 84.
Các biểu hiện của bệnh
Giảm thị lực là triệu chứng quan trọng nhất. Thường là nhìn mờ cả hai bên khá cân
xứng. Đục thể thuỷ tinh gây ảnh hưởng đến việc nhìn xa trước tiên sau đó là đến
nhìn gần, trừ một thể đục đặc biệt là đục dưới bao sau thể thuỷ tinh. Khi đó thị lực
nhìn gần bị ảnh hưởng trước tiên. Mức độ giảm thị lực cũng rất khác biệt, từ mức
còn một vài phần mười đến mức chỉ còn nhận biết được ánh sáng. Đục thể thuỷ
tinh làm tăng độ tụ của nó. Điều này giải thích tại sao một số người già tự nhiên lại
đọc được sách mà không cần kính khi họ bị đục thể thuỷ tinh. Một số bệnh nhân
khác than phiền vì cảm giác nhìn đôi, nhìn thấy nhiều vật cùng một lúc, nhìn như
qua sương mù …tất cả những khó chịu đó được giải thích là do thể thuỷ tinh bị
đục đã làm tán xạ các tia sáng đi qua nó.
- Thăm khám kỹ càng hơn chúng ta sẽ thấy nhiều bệnh nhân có rối loạn về sắc giác,
nhất là việc nhìn nhận màu xanh. Bên cạnh đó, thị trường, khả năng nhận định độ
tương phản, khả năng nhìn ban đêm …cũng có những tổn hại nhất định.
Khám bệnh khi đồng tử giãn tối đa các bác sĩ dễ dàng khẳng định chẩn đoán, đánh
giá mức độ và tình trạng đục thể thuỷ tinh. Đục do tuổi già thường là đục vỏ, nhân
và dưới bao trong đó dạng đục vỏ là phổ biến nhất. Bên cạnh việc quan sát thể
thuỷ tinh người ta cần chú ý phát hiện thêm các bệnh phối hợp: glôcôm, thoái hoá
hoàng điểm do tuổi già, bệnh võng mạc đái tháo đường, các dạng thoái hoá giác
mạc. Tốc độ đục thể thuỷ tinh rất thay đổi, đục hoàn toàn hay đục chín là cấp độ
cao nhất. Đục quá chín có thể gây phản ứng viêm màng bồ đào hay tăng nhãn áp.
Điều trị
Cho đến nay phương pháp điều trị có hiệu quả duy nhất vẫn là phẫu thuật. Phẫu
thuật thể thuỷ tinh đã có chừng hai thế kỷ nay, nhưng phương pháp đặt kính nội
nhãn (thể thuỷ tinh nhân tạo) mới được đề xướng từ năm 1949. Những thành tựu
to lớn thường bắt đầu bằng những quan sát tinh tế và sau đó được nhào nặn bởi
những khối óc chịu suy nghĩ. Việc phát minh ra thể thuỷ tinh nhân tạo cũng là một
trong những trường hợp như vậy. Một bác sĩ quân y người Anh tên là Ridley khi
quan sát những phi công bị vết thương mắt có dị vật nội nhãn là mảnh kính máy
bay (thuộc nhóm vật liệu Acrylat) thấy chúng “chung sống hoà bình” với chủ
nhân. Từ đó ý tưởng dùng kính nội nhãn chế từ Acrylat đã được đặt vào trong mắt
để thay thế cho thể thuỷ tinh bệnh lý đã được khơi mào. Sau này, về phương diện
vật liệu học, thể thuỷ tinh nhân tạo đã dần dần được cải biên sao cho dung nạp tốt,
bền vững, lọc được tia tử ngoại, ưa nước. Ngày nay, loại chế từ silicone, gấp được
và chịu nước, được đa số các phẫu thuật viên ưa dùng.
Lĩnh vực phẫu thuật này được ứng dụng sôi nổi nhất những thành tựu mới của
ngành nhãn khoa thế giới. Hàng loạt các kỹ thuật mổ mới đi kèm với nó là các
máy móc, phương tiện, vật tư tiêu hao ra đời trong vòng 20 năm trở lại đây. Đến
- giờ phút này, tại các trung tâm nhãn khoa lớn của nước ta, kỹ thuật mổ PHACO đã
trở thành phổ biến. Ưu điểm của nó đã quá rõ ràng: vết mổ nhỏ. Đặc biệt trong kỹ
thuật PHACO lạnh chỉ còn là 2mm, thị lực phục hồi nhanh chóng, xuất viện trong
ngày, tỷ lệ biến chứng ít. Chính vì vậy số lượng bệnh nhân được mổ đục thể thuỷ
tinh theo phương pháp này ngày càng tăng. Tất nhiên cũng cần nhắc tới một vài
yếu tố khác như tuổi thọ tăng và chỉ định mổ đã rộng rãi hơn nhiều so với trước.
Hàng năm tại Pháp có tới 380.000 người được mổ thể thuỷ tinh.
Những ai sẽ được mổ và cần chuẩn bị những gì?
Chỉ định mổ chủ yếu dựa vào mức độ giảm thị lực. Nhưng cần xác định rõ ràng
chính đục thể thuỷ tinh là nguyên nhân chính gây giảm thị lực chứ không phải là
những yếu tố bệnh lý khác. Khi khám bệnh các bác sĩ sẽ phải luôn cân nhắc có sự
tương hợp hay không giữa tính chất và mức độ đục thể thuỷ tinh với mức độ giảm
thị lực. Tựu trung, thị lực kém hơn 4/10 sẽ được xem xét để chỉ định phẫu thuật.
Cũng cần quan tâm đến những yếu tố khác như tuổi của người bệnh, tính chất
công việc, điều kiện sống, nhu cầu dùng mắt hàng ngày …để thúc đẩy hay trì hoãn
can thiệp phẫu thuật.
Một bệnh nhân trước khi phẫu thuật, ngoài việc được thăm khám về chuyên khoa
mắt kỹ càng, còn được truy tìm bệnh toàn thân. Điều này rất cần thiết cho quyết
định mổ, tiên lượng thị lực sau mổ, ngăn ngừa các biến chứng cũng như điều trị dự
phòng. Tại mắt chúng ta sẽ đi tìm những bệnh có liên quan đến tuổi tác như thoái
hoá hoàng điểm người già, bệnh võng mạc tiểu đường, cận thị …Trên toàn thân
chúng ta cần phát hiện các bệnh nội khoa như: cao huyết áp, tiểu đường, các ổ
viêm nhiễm. Điều này giải thích tại sao trước khi mổ chúng ta lại cầm trong tay tới
7-8 tờ xét nghiệm.
Kết quả của phẫu thuật và biến chứng có thể gặp
- Nếu không có các bệnh tại mắt khác thì có khoảng 95% bệnh nhân thu được thị
lực >5/10. Ngoài việc thị lực được cải thiện, còn có những lợi ích đáng kể khác
cho bệnh nhân: cải thiện khả năng nhận biết màu sắc, tăng khả năng đọc và nhìn
gần, tăng khả năng lao động, di chuyển và lái xe. Các biến chứng viêm nhiễm
thường nhẹ và kiểm soát được. Đáng ngại nhất là biến chứng xuất huyết nội nhãn
và viêm nội nhãn, tuy không gặp nhiều. Biến chứng muộn đục bao sau phải giải
quyết bằng laser YAG dần dần đã trở thành phổ biến cùng với số lượng đông đảo
bệnh nhân được mổ đặt thể thuỷ tinh nhân tạo.
nguon tai.lieu . vn