Xem mẫu

  1. BÁO CÁO TRƯỜNG HỢPP Báo cáo loạt ca bệnh hiếm gặp: Ung thư buồng trứng trong thai kì Nguyễn Hồng Hoa1, Phạm Duy Hùng2 1 Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh 2 Bác sĩ nội trú, Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh doi:10.46755/vjog.2021.2.1220 Tác giả liên hệ (Corresponding author): Nguyễn Hồng Hoa; email: drhonghoa@ump.edu.vn Nhận bài (received): 21/7/2021 - Chấp nhận đăng (accepted): 10/9/2021 Tóm tắt Đặt vấn đề: Ung thư buồng trứng rất hiếm khi xảy ra trong thai kỳ, có tỷ lệ từ 0,2 - 3.8/100000 thai kỳ. Siêu âm là một công cụ có giá trị trong dự đoán bản chất lành hay ác tính của khối u buồng trứng dựa vào những mô hình IOTA. Chưa đủ bằng chứng để áp dụng mô hình tiên đoán lành ác các khối bướu buồng trứng trong thai kỳ. Mục tiêu của nghiên cứu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, hình ảnh siêu âm, phương pháp điều trị, kết cục sản khoa của các trường hợp ung thư buồng trứng trong thai kỳ. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo hồi cứu được thực hiện từ tháng 01/2019 đến tháng 12/2020 tại Bệnh viện Từ Dũ. Từ hồ sơ bệnh án, chúng tôi xác định các trường hợp có chẩn đoán khối u buồng trứng trong thai kỳ loại trừ các trường hợp có biến chứng và được phẫu thuật với kết quả giải phẫu bệnh là bướu ác tính. Kết quả: Chúng tôi thu thập 3 trường hợp ung thư buồng trứng trong thai kỳ trong thời gian từ tháng 01/2019 đến tháng 12/2020. Các thai phụ đều ở độ tuổi dưới 30 và được phẫu thuật cắt khối bướu trong thời gian tam cá nguyệt thứ hai (TCN II) của thai kỳ. Đặc điểm chung trên siêu âm của cả 3 trường hợp: khối bướu đều có kích thước lớn (>100 mm) và có mô đặc với bờ không đều. Hai trong ba trường hợp có tăng sinh mạch máu mức độ 3. Khi áp dụng mô hình chẩn đoán, hai trường hợp thuộc nhóm có nguy cơ ác tính theo quy tắc đơn giản nhưng cả ba trường hợp có nguy cơ ác tính theo mô hình ADNEX, tương ứng với nhóm O-RADS 4 hoặc 5. Kết cục thai kỳ: có 2 trường hợp thai đủ tháng, sinh thường và 1 trường hợp chấm dứt lúc thai 35 tuàn và đều có hóa trị trong thai kỳ. Kết luận: Sử dụng các mô hình tiên đoán của nhóm IOTA như: quy tắc đơn giản, ADNEX, phân nhóm O-RADS có thể có giá trị cao trong phân định nguy cơ ác tính của khối bướu buồng trứng trong thai kỳ. Hóa trị có thể được thực hiện trong thai kỳ khi có chỉ định. Hóa trị có thể thực hiện trong thai kỳ và kết cục cho thai bước đầu ghi nhận khả quan. Từ khóa: Ung thư buồng trứng trong thai kỳ, qui tắc đơn giản, ADNEX, IOTA, O-RADS. Cases study in rare disease: Ovarian cancer during pregnancy Nguyen Hong Hoa1, Pham Duy Hung2 1 Obstetrics and Gynecology Department, the Medical and Pharmacy University at Ho Chi Minh City 2 Internal practitioner in Obstetrics and Gynecology Department, Medical and Pharmacy University at Ho Chi Minh City Abstract Background: Ovarian cancer is a rare disease during pregnancy, and it is estimated that 1 to 30 in 1,000 pregnant women are affected. An ultrasound is the value method for predicting the ability of malignant ovarian tumors based on models of the International Ovarian Tumor Analysis (IOTA). There is not enough evidence to support applying these models for predicting benign and malignancy ovarian tumors in pregnancy. Purpose: To describe clinical presentation, ultrasound characteristics, treatment methods and obstetric outcomes of ovarian cancer in pregnant women at Tu Du Hospital. Materials and methods: A retrospective study carried out in Tu Du Hospital between January 2019 and December 2020. From the clinical records, we identified all pregnant women with an ultrasound diagnosis of an ovarian tumor detected before delivery without complications and postsurgical histological diagnosis was malignant. Results: We collected three malignant tumors. In all cases, the age of pregnant women was under 30 and the gestational age when surgical procedure was performed was in the second trimester. All tumor diameters were above 100 mm and all surfaces of solid part were irregular. IOTA color score 3 was described in two cases. Using the simple risk criteria, two cases was classified as malignant. Using the Assessment of Different NEoplasias in the adneXa (ADNEX) model, malignant risk was high in all cases. Three of three tumors were classified as the Ovarian-Adnexal Reporting and Data System (O -RADS) 4 - 5. Two of them born at term but one case at 35 of gestational weeks. Two cases were thermotherapy during pregnancy. Nguyễn Hồng Hoa và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):61-66. doi:10.46755/vjog.2021.2.1220 61
  2. Conclusion: Both the Simple Rules, ADNEX scoring systems and O - RADS may be also used to predict malignant risk of ovarian tumor in pregnant women. Chemotherapy can be given during pregnancy when indicated. The outcome ò pregnancy is likely good and thermotherapy may be considered. Key words: ovarian cancer, simple rules, ADNEX, IOTA, O – RADS. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ca thứ 1 Tỷ lệ bướu buồng trứng (BBT) trong thai kỳ dao động Thai phụ 21 tuổi, PARA 0000, vào viện ngày trong khoảng từ 2,4-5,7% [1] trong đó chỉ có khoảng 5% 27/10/2020, mã số vào viện 079555, đến khám thai là ác tính [2]. Tiên lượng sống còn sau 5 năm đối với ung định kỳ với tuổi thai hiện tại 16 tuần và không có bất kỳ thư buồng trứng (UTBT) phụ thuộc vào giai đoạn bệnh triệu chứng nào đi kèm. Tiền căn chưa từng ghi nhận có từ 92% ở giai đoạn I đến 30% ở giai đoạn IV [3], chính vì bệnh lý nào trước đây. Bệnh nhân được chỉ định nhập vậy phương thức điều trị UTBT đang có chiều hướng thay viện với chẩn đoán BBT phải to/thai 16 tuần, được siêu đổi đó là vừa duy trì cho thai đủ khả năng nuôi sống vừa âm cùng ngày vào viện với kết quả: một thai sống trong điều trị bệnh. Hiện nay, siêu âm được xem là phương tiện tử cung 16 tuần; buồng trứng phải có khối echo kém, chẩn đoán đầu tay trong đánh giá khả năng lành tính hay kích thước 109x76x99 mm, có vách ngăn (< 10 vách), ác tính của BBT. Czekierdowski và cs [4] nghiên cứu giá không chồi, không bóng lưng, bên trong có phần echo trị Simple Rules và ADNEX Model trong đánh giá khối dày giống mô đặc, kích thước 72x55x62 mm, bờ phần u phần phụ được phát hiện trong thời kỳ mang thai và đặc không đều, tăng sinh mạch máu mức độ 2, không có kết quả bước đầu cho thấy: việc nhận diện trực quan dịch ổ bụng; BBT được phân loại bướu đa thùy đặc (hình khối bướu thực hiện bởi chuyên gia siêu âm có độ nhạy 1). Các xét nghiệm sinh hóa với CA 125: 58,50 U/ml, và độ đặc hiệu là 89% và 70%; với Simple Rules thì độ HE4: 31,3 pmol/L, ROMA 2,8%. Bệnh nhân được phẫu nhạy là 100%, độ đặc hiệu là 37%; và ở mức nguy cơ ác thuật nội soi bóc bướu vào ngày 30/10/2020, ghi nhận tính >20%, mô hình ADNEX có độ nhạy 78% và độ đặc có vỡ bướu lúc bóc, kết quả giải phẫu bệnh lý là bướu hiệu 70%. Chúng tôi báo cáo đặc điểm lâm sàng, chẩn quái không trưởng thành độ 2 (IMMATURE TERATOMA đoán và điều trị của 3 trường hợp ung thư buồng trứng GRADE 2). Sau đó, bệnh nhân được phẫu thuật lần thứ trong thai kỳ tại Bệnh viện Từ Dũ để từ đó đánh giá độ tin hai nội soi cắt phần phụ phải, mạc nối lớn, xếp giai đoạn cậy của các mô hình siêu âm trong dự đoán khả năng ngày 11/11/2020 lúc thai 18 tuần. Kết quả mô học của ác tính. phần phụ phải và mạc nối lớn không ghi nhận tế bào ung Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, sinh hóa, siêu âm, thư và được chẩn đoán ung thư buồng trứng giai đoạn điều trị, kết cục sản khoa và các mô hình tiên đoán lành IC. Bệnh nhân được hóa trị liệu 03 chu kỳ với Etoposid tính, ác tính theo hệ thống IOTA các trường hợp ung thư (100 mg/m2) và Cisplatin (20 mg/m2), bắt đầu lúc thai 24 buồng trứng. tuần 3 ngày, mỗi chu kỳ cách nhau 03 tuần và chu kỳ cuối lúc thai 30 tuần. Thai phụ được mổ sanh lúc 37 tuần, bé 2. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU trai, cân nặng 2,1kg, bé được theo mẹ sau sanh. Tiêu chuẩn chọn mẫu: Các thai phụ có bướu buồng - Với kết quả siêu âm ở trên, áp dụng quy tắc đơn trứng được phẫu thuật điều trị tại Bệnh viện Từ Dũ có kết giản của IOTA, bướu được phân loại là ác tính với không quả giải phẫu bệnh lý là ác tính trong thời gian từ tháng có quy tắc lành tính nào và có 1 quy tắc ác tính M4 ( 01/2019 đến tháng 12/2020. Loại trừ các trường hợp có bướu đa thùy đặc, không đều, kích thước ≥ 100 mm). ung thư khác đi kèm. Tính toán mô hình ADNEX với kết quả nguy cơ ác tính là Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo loạt ca hồi cứu 38,6% (hình 2,3). Với nguy cơ ác tính từ mô hình ADNEX Cách tiến hành nghiên cứu: là 38,6%, BBT này được phân vào nhóm O-RADS 4. - Lập danh sách các trường hợp có mã ICD D39.1 - Hóa trị đã được thực hiện cho đến khi thai đủ trưởng nghĩa là có BBT và được phẫu thuật từ phần mềm quản thành (37 tuần). lý của bệnh viện trong thời gian từ 01/01/2019 đến Ca thứ 2 31/12/2020. Thai phụ 28 tuổi, PARA 1011 (01 lần sanh thường - Chọn ra các trường hợp thỏa mãn tiêu chuẩn chọn thai đủ tháng, 01 lần phá thai nội khoa), vào viện ngày mẫu đưa vào nghiên cứu. 16/10/2020, mã số vào viện 076098, đến khám thai định Đạo đức nghiên cứu: Nghiên cứu này được thông kỳ với tuổi thai hiện tại 17 tuần và không có bất kỳ triệu qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học chứng đi kèm. Tiền căn có điều trị lao hạch cách nay Đại học Y Dược TP. HCM, số 704/HĐĐĐ-ĐHYD, ngày 4 năm. Bệnh nhân được nhập viện với chẩn đoán BBT 12/10/2020. trái to/thai 17 tuần, với kết quả siêu âm: một thai sống trong tử cung 17 tuần; cạnh trái tử cung có khối echo 3. KẾT QUẢ kém, kích thước 108x70x105 mm, bờ ngoài đều, bờ trong Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi đã thu thập thành bướu không trơn láng, không vách ngăn, không được 3 trường hợp ung thư buồng trứng trong thai kỳ chồi, không bóng lưng, bên trong có phần mô đặc, mật như sau: độ không đồng nhất, kích thước 63x41x62 mm, tăng sinh 62 Nguyễn Hồng Hoa và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):61-66. doi:10.46755/vjog.2021.2.1220
  3. mạch máu mức độ 3, không dịch ổ bụng; BBT được phân lý nào trước đây. Bệnh nhân được nhập viện với chẩn loại bướu đơn thùy đặc. đoán BBT trái to nghĩ ác tính/thai 14 tuần. Thai phụ được Bệnh nhân được phẫu thuật nội soi bóc bướu vào siêu âm ngày 01/12/2020 vào viện với kết quả: một thai ngày 20/10/2020, ghi nhận có vỡ bướu lúc bóc, kết quả sống trong tử cung 13 tuần; hố chậu phải có khối echo giải phẫu bệnh lý là bướu tuyến dịch nhầy giáp biên ác hỗn hợp, dạng mô đặc, kích thước 170x56x103 mm, kèm carcinom trong biểu mô buồng trứng (kết luận sau bờ ngoài giới hạn không rõ, không bóng lưng, tăng sinh hội chẩn là bướu buồng trứng dịch nhầy giáp biên ác). mạch máu mức độ 3, không dịch ổ bụng; BBT được phân Bệnh nhân được phẫu thuật lần thứ hai nội soi cắt phần loại bướu đặc. phụ trái, mạc nối lớn, xếp giai đoạn ngày 06/11/2020 lúc Các xét nghiệm sinh hóa với CA 125: 42,20 U/ml, thai 19 tuần, với kết quả mô học của phần phụ trái và mạc HE4: 74,3 pmol/L, AFP: 24 ng/ml, ROMA 18,06%. Bệnh nối lớn không ghi nhận tế bào ung thư và được chẩn đoán nhân được chụp MRI ngày 10/12/2020 với kết quả nghĩ ung thư buồng trứng giai đoạn IC. Thai phụ không có hóa BBT phải ác tính. và được phẫu thuật mở cắt phần phụ trị liệu và sanh thường 01 bé gái lúc 39 tuần, cân nặng phải, mạc nối lớn, xếp giai đoạn ngày 14/12/2020 lúc 2,7kg, bé theo mẹ sau sanh. thai 15 tuần. Kết quả giải phẫu bệnh lý là bướu tế bào - Áp dụng quy tắc đơn giản của IOTA, bướu được hạt thể người lớn và được chẩn đoán ung thư buồng phân loại là không xác định với không có quy tắc lành trứng giai đoạn IA. Thai phụ được hóa trị với 03 chu kỳ tính và quy tắc ác tính nào. Tính toán mô hình ADNEX với Etoposid (100 mg/m2) và Cisplatin (20 mg/m2) từ lúc kết quả nguy cơ ác tính là 37,2%, và BBT được phân vào thai 27 tuần và kết thúc lúc thai 35 tuần. Kết cục thai kỳ nhóm O-RADS 4. với sanh thường 01 bé trai lúc 38 tuần, cân nặng 2,7kg, - Thai phụ không thực hiện hóa trị và diễn tiến thai kỳ bé theo mẹ sau sanh. tự nhiên tới sinh thường. - Áp dụng quy tắc đơn giản, bướu được phân loại là ác Ca thứ 3 tính với không có quy tắc lành tính nào và có một quy tắc Thai phụ 28 tuổi, PARA 0000 vào viện ngày ác tính là M1 (bướu đặc với bờ không đều). Tính toán mô 10/12/2020, mã số vào viện 092238, đến khám thai định hình ADNEX với kết quả nguy cơ ác tính là 51,3% và BBT kỳ với tuổi thai hiện tại 14 tuần và không có bất kỳ triệu được phân nhóm O-RAD chứng nào đi kèm. Tiền căn chưa từng ghi nhận có bệnh - Thai phụ có điều trị hóa chất sau mổ. Bảng 1. Bảng tóm tắt đặc điểm các ca ung thư buồng trứng trong thai kỳ Tuổi thai Tuổi thai lúc Quy tắc ADNEX Phương Kết quả giải phẫu O-RADS phụ mổ (tuần) đơn giản (%) pháp PT bệnh Nội soi bóc Quái không trưởng Ca thứ 1 21 16 Ác tính 38,6 O-RADS 4 bướu thành Không xác Nội soi bóc Bướu dịch nhầy Ca thứ 2 28 17 37,2 O-RADS 4 định bướu giáp biên ác Mổ mở cắt Tế bào hạt thể Ca thứ 3 28 14 Ác tính 51,3 O-RADS 5 PP và mạc người lớn nối lớn Nhận xét: Cả ba trường hợp các thai phụ đều ở độ tuổi rất soi cắt phần phụ có bướu, mạc nối lớn khi có kết quả trẻ (dưới 30 tuổi) và có hai người là con lần đầu. giải phẫu bệnh lý là ác tính. Trường hợp còn lại, được mổ - Các bệnh nhân đều phẫu thuật trong tam cá nguyệt mở cắt phần phụ có bướu, mạc nối lớn ngay từ đầu. Sau 2 của thai kỳ và cả ba đều tình cờ phát hiện bướu qua đó, có hai trường hợp được thực hiện thêm hóa trị trong siêu âm, không có ghi nhận triệu chứng cơ năng. thai kỳ. - Cả ba trường hợp bướu trên siêu âm đều có kích - Cả ba trường hợp đều sanh đủ tháng với 02 trường thước lớn (>100 mm), có mô đặc với bờ không đều, hợp sanh thường, cân nặng bé sau sanh đều thấp hơn không bóng lưng, không có dịch ổ bụng, có hai trường 3kg, tuy nhiên không có trường hợp nào nhập sơ sinh. hợp tăng sinh mạch máu mức độ 3. - Các trường hợp có ghi nhận chỉ dấu sinh học với kết 4. BÀN LUẬN quả chỉ tăng nhẹ hay bình thường, kết quả chỉ số ROMA Tuổi các bệnh nhân trong nghiên cứu có trung vị là với nguy cơ ác tính là thấp. 28, tương đồng với nghiên cứu của tác giả Czekierdowski - Chỉ có hai trường hợp được phân loại là ác tính theo (2021) [4] nhưng nhỏ hơn rất nhiều so với tuổi trung bình quy tắc đơn giản của nhóm IOTA nhưng cả ba trường của ung thư buồng trứng (đa số dao động trong khoảng hợp đều có nguy cơ ác tính cao (>10%) khi tính toán với 50-60 tuổi). Tình trạng này có thể liên quan tới loại tế bào mô hình ADNEX. Hai trường hợp phân nhóm O-RADS 4, 1 ung thư hoặc yếu tố di truyền của các bệnh nhân này. trường hợp phân nhóm O-RADS 5. Trong 3 bệnh nhân thì chỉ có 1 trường hợp là ung thư tế - Hai trường hợp mổ nội soi bóc bướu, và sau đó nội bào biểu mô còn lại là có nguồn gốc từ tế bào mầm và tế Nguyễn Hồng Hoa và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):61-66. doi:10.46755/vjog.2021.2.1220 63
  4. bào hạt. Yếu tố di truyền đã không được ghi chép trong có dịch bụng trong nghiên cứu của chúng tôi, điều này có hồ sơ lưu. thể giải thích các trường hợp phát hiện trong giai đoạn Can thiệp phẫu thuật các BBT trong thai kỳ thường sớm, chưa ghi nhận có di căn ổ bụng. Tác giả Moro ghi nhận chỉ được khuyến cáo khi có biến chứng hoặc nghi ngờ có một trường hợp có dịch bụng trong ung thư di căn xa [8]. ung thư và thời điểm phẫu thuật vào tam cá nguyệt 2. Ba Chúng tôi áp dụng được quy tắc đơn giản cho 2/3 trường hợp trong nghiên cứu đều thực hiện can thiệp sau trường hợp (67%) nghiên cứu và dự đoán được khả năng tuần 12 của thai kỳ, nghĩa là vào thời điểm buồng trứng ác tính. Qui tắc đợn giản được phát triển bởi nhóm IOTA, không còn chức năng [5]. Tương tự, các nghiên cứu khác bao gồm có 5 đặc điểm lành tính (từ B1 đến B5), và 5 đặc phẫu thuật khối bướu được thực hiện trong 3 tháng giữa điểm ác tính (M1 đến M5) và gần 75% trường hợp BBT của thai kỳ, nghiên cứu của Czekierdowski là 21 tuần ở phụ nữ không mang thai có thể áp dụng được quy tắc [4], và nghiên cứu của Mascilini là 19 tuần [6]. Có lẽ thời này, với độ nhạy là 93%, độ đặc hiệu là 90%. Như vậy, qui điểm phẫu thuật sẽ tùy thuộc vào quyết định chủ quan tắc đơn giản sẽ có thể không phân định được bản chất của phẫu thuật viên khi có các dấu hiệu gợi ý của ung của khối bướu cả khi không và có mang thai. Khắc phục thư và loại trừ các khối bướu buồng trứng hình thành do khuyết điểm này, mô hình ANDEX cũng được phát triển hoạt động quá kích của buồng trứng. Cả hai trường hợp bởi nhóm IOTA, bao gồm 9 đặc điểm tiên lượng, trong phẫu thuật nội soi đều không có thực hiện sinh thiết tức đó có 6 đặc điểm về siêu âm. Tác giả Czekierdowski áp thì, đối với các trường hợp nghi ngờ bướu ác tính trước dụng mô hình ADNEX trên đối tượng BBT trong thai kỳ phẫu thuật nên được chỉ định thực hiện sinh thiết tức thì ghi nhận với ngưỡng cắt > 20%, mô hình có độ nhạy là góp phần trong việc điều trị đầy đủ ngay trong thì đầu. 78%, độ đặc hiệu là 70% [4]. Cả 3 trường hợp nghiên cứu Đặc điểm siêu âm của 3 trường hợp bướu ác tính của chúng tôi khi sử dụng mô hình ADNEX đều cho dự nghiên cứu đều có chung các đặc điểm: (1) kích thước đoán ác tính cao. Tuy nhiên, chúng tôi không lấy trị số của bướu khá lớn (trung vị: 109 mm), tương đồng với của CA125 đưa vào mô hình vì yếu tố thai kỳ nhưng thực nghiên cứu của tác giả Testa là 115 mm (7), nghiên cứu sự có nhiều nghiên cứu cho thấy giá trị tiên đoán lành của Czekierdowski là 90 mm [4], của Moro là 91,5 mm tính và ác tính của mô hình ADNEX có CA 125 và không [8]. Nghiên cứu của Testa cũng ghi nhận sự khác biệt có CA 125 là như nhau [9]. có ý nghĩa thống kê về kích thước lớn nhất giữa nhóm Hệ thống phân nhóm O-RADS được đồng thuận từ bướu lành tính và ác tính (89 mm so với 115 mm, P = các chuyên gia cho cả Châu Âu và Bắc Mỹ, dùng từ bộ 0,00001). (2) Thành phần đặc trên siêu âm khối bướu với dữ liệu lớn các nghiên cứu của nhóm IOTA giai đoạn 1-3 kích thước phần đặc lớn nhất có trung vị là 63 mm, tương để phân nhóm nguy cơ các BBT và có hướng quản lý đồng với nghiên cứu của Testa là 68,2 mm. Nghiên cứu cho từng phân nhóm O-RADS đi kèm. Các trường hợp của Testa cũng cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống trong nghiên cứu của chúng tôi, khi áp dụng phân nhóm kê giữa BBT lành tính và ác tính về kích thước lớn nhất O-RADS từ nguy cơ ác tính của mô hình ADNEX, có hai phần đặc trong bướu (35 mm với 68,2 mm, P = 0,00079). trường hợp được phân nhóm O-RADS 4, nhóm có nguy Cả ba trường hợp đều ghi nhận phần đặc với bờ không cơ ác tính trung bình, với hướng quản lý là đánh giá bởi đều, đây cũng là một đặc điểm gợi ý ác tính trên siêu âm, chuyên gia siêu âm hoặc chụp MRI, và được quản lý bởi chúng tôi không ghi nhận các mô tả về bờ phần đặc của nhà phụ khoa với tư vấn của nhà ung thư phụ khoa hoặc BBT trên siêu âm trong các nghiên cứu tương tự. được quản lý bởi nhà ung thư phụ khoa. Trường hợp còn Nhưng có một số đặc điểm siêu âm không cùng ghi lại, được phân vào nhóm O-RADS 5, nhóm nguy cơ ác nhận trong 3 trường hợp nghiên cứu: (1) Chỉ 1 trường tính cao phải được quản lý bởi nhà ung thư phụ khoa. hợp trong nghiên cứu ghi nhận hình ảnh đa thùy (có Hóa trị trong thai kỳ còn đang là vấn đề được tranh vách ngăn < 10 vách ngăn). Tác giả Moro ghi nhận 100% luận, đa số là các báo cáo loạt ca với việc cân bằng giữa trường hợp đa thùy (< 10 vách) [8] trong khi tác giả Testa lợi ích sống còn cho thai phụ và hạn chế tác dụng phụ lại không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số lượng lên thai nhi. Hai trong ba thai phụ được chỉ định hóa trị vách ngăn ( 10 vách) và phân loại BBT bắt đầu trong tam cá nguyệt 2 và kết thúc trước 34 tuần đa thùy ở hai nhóm lành tính và ác tính, tuy nhiên đối thai kỳ. Điều này phù hợp với khuyến cáo của tác giả với phân loại BBT đa thùy đặc hay bướu đặc khác biệt Korenaga (2020) [10] với việc hóa trị nên được bắt đầu ở có ý nghĩa thống kê [7]. Điều này, cũng được ghi nhận thời kỳ tam cá nguyệt 2 tránh gây dị tật trong giai đoạn trong nghiên cứu của tác giả Czekierdowski. (2) Có 2/3 tam cá nguyệt 1 và kết thúc việc hóa trị trước tuổi thai trường hợp nghiên cứu ghi nhận có tăng sinh mạch máu 34 tuần hay trước thời điểm sanh 3 tuần để tránh nguy mức độ 3, không có trường hợp nào ghi nhận tăng sinh cơ suy tủy cho cả mẹ và thai. Các thai phụ được dùng mạch máu mức độ 1. Tác giả Testla ghi nhận sự khác phác đồ 03 chu kỳ Etoposid (100 mg/m2) và Cisplatin biệt có ý nghĩa thống kê về tăng sinh mạch máu mức độ (20 mg/m2) phù hợp với các khuyến cáo đối với các ung 4, giữa hai nhóm BBT lành tính và ác tính (P=0,0003) [7]. thư buồng trứng không có nguồn gốc từ biểu mô [11]. Nhưng với tăng sinh mạch máu mức độ I, tác giả Moro Hóa trị trong thai kỳ làm tăng nguy cơ sanh non, ghi nhận chỉ có 4,5% trường hợp BBT ác tính và tác giả chậm tăng trưởng, dị tật, suy tủy, thai lưu điều này có Czekierdowski không ghi nhận ác tính nào có tăng sinh thể giảm khi hóa trị được thực hiện trong thời kỳ tam cá mạch máu mức độ 1; (3) Không ghi nhận trường hợp nào nguyệt 2 [10], [11]. Kết cục sản khoa với cả ba trường hợp 64 Nguyễn Hồng Hoa và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):61-66. doi:10.46755/vjog.2021.2.1220
  5. đều sanh đủ tháng và có 02 trường hợp sanh thường, dụng các mô hình chẩn đoán dựa vào siêu âm thì ADNEX đều này cho thấy các trường hợp thai phụ có ung thư và O-RADS đều có chung dự đoán khả năng ác tính trước buồng trứng và được hóa trị trong thai kỳ không phải là khi phẫu thuật và đưa ra quyết định xử trí hợp lý là phẫu chỉ định mổ lấy thai. Hai trường hợp hóa trị có 01 trường thuật trong thai kỳ. hợp có cân nặng bé lúc sanh dưới 2,5kg và 01 trường hợp dưới 3kg, tuy nhiên cả hai đều không cần nhập khoa sơ 5. KẾT LUẬN sinh. Cho thấy có thể hóa trị trong thai kỳ làm tăng nguy Nghiên cứu cho thấy khả năng có thể ứng dụng các cơ thai chậm tăng trưởng, tuy nhiên không làm tăng các mô tả, thuật ngữ, quy tắc đơn giản, mô hình tiên đoán kết cục sơ sinh xấu. ADNEX của nhóm IOTA, hệ thống phân nhóm nguy cơ Nghiên cứu hồi cứu với 3 trường hợp ung thư trong O-RADS, góp phần đưa ra quyết định can thiệp phẫu thai kỳ chưa mang lại những bằng chứng mạnh để đưa là thuật trong thai kỳ. Hóa trị có thể cân nhắc sử dung chiến lược tiếp cân nhưng cũng phần nào cho thấy khi áp trong thai kỳ cho đến khi thai có thể nuôi sống. Hình 1. Hình ảnh BBT phải đa thùy có phần đặc bên trong bướu với bờ không đều. Hình 2. Các yếu tố tiên đoán nguy cơ ác tính trong mô hình ADNEX. Hình 3. Nguy cơ tiên đoán của mô hình ADNEX. Nguyễn Hồng Hoa và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):61-66. doi:10.46755/vjog.2021.2.1220 65
  6. TÀI LIỆU THAM KHẢO 5. De Haan Jorine, Verheecke Magali, Amant Frédéric. 1. Ovarian endodermal sinus tumor associated with Management of ovarian cysts and cancer in pregnancy. pregnancy: review of the literature. Facts, views & vision in ObGyn. 2015; 7(1): 25. Farahmand SM, Marchetti DL, Asirwatham JE, Dewey 6. Mascilini Floriana, Savelli L, et al. Ovarian masses MRGynecol Oncol. 1991 May; 41(2):156-60. [PubMed] with papillary projections diagnosed and removed [Ref list] during pregnancy: ultrasound features and histological 2. Diagnosis and management of cancer during diagnosis”. Ultrasound in Obstetrics & Gynecology. pregnancy. Jacob JH, Stringer CA Semin Perinatol. 1990; 2017; 50 (1): 116-123. 14(1):79-87. 7. Testa Antonia Carla, Mascilini Floriana, et al. 3. Franciszek Dłuski D., Mierzyński R., et al. Ovarian Cancer Management of ovarian masses in pregnancy: patient and Pregnancy—A Current Problem in Perinatal Medicine: selection for interventional treatment. International A Comprehensive Review. Cancers. 2020; 12 (12): 3795. Journal of Gynecologic Cancer, 2020; ijgc-2020-001996. 4. Czekierdowski Artur, Stachowicz Norbert, et al. 8. Moro F., Mascilini F., et al. Ultrasound features and Sonographic Assessment of Complex Ultrasound clinical outcome of patients with malignant ovarian Morphology in Pregnant Women with the Use of IOTA masses diagnosed during pregnancy: experience of a Simple Rules Risk and ADNEX Scoring Systems. gynecological oncology ultrasound center, International Diagnostics. 2021; 5(1): 414. Journal of Gynecologic Cancer. 2019; 29(7): 1182-1194. 66 Nguyễn Hồng Hoa và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):61-66. doi:10.46755/vjog.2021.2.1220
nguon tai.lieu . vn