Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĂN ĐỒNG KHOA GDTC - QP, AN BÀI GIẢNG THỂ DỤC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THỂ DỤC 2 ThS. Nguyễn Xuân Thưởng 1
  2. LỜI NÓI ĐẦU Thể dục và phương pháp dạy học thể dục là môn học nghiên cứu những quy luật và những cơ sở chung nhất về phương pháp trong lĩnh vực thể dục thể thao (TDTT). Nhiệm vụ giảng dạy chủ yếu của môn Thể dục và phương pháp dạy học thể dục là: 1. Giúp cho sinh viên nắm được những cơ sở chung nhất về lý luận và phương pháp Giáo dục thể chất (GDTC), chủ yếu là dạy học động tác, rèn luyện thể lực và công tác GDTC trong nhà trường phổ thông. 2. Trên cơ sở đó, từng bước bồi dưỡng cho sinh viên năng lực vận dụng những kiến thức học được để phân tích, thực hiện những nhiệm vụ cụ thể có liên quan trong thực tiễn TDTT. Bài giảng Thể dục và phương pháp dạy học thể dục 2 có thể được sử dụng cho cả người dạy và người học. Khi biên soạn bài giảng này chúng tôi bám sát đề cương chi tiết môn học, mục tiêu đào tạo giáo viên, đồng thời căn cứ vào nội dung chương trình thể dục và phương pháp dạy học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Nội dung bài giảng gồm các phần chính: Các phương tiện, nguyên tắc và phương pháp giảng dạy thể dục cũng như đặc điểm hình thức tổ chức giờ GDTC. Nhận thức về nội dung và phương pháp giảng dạy cũng không ngừng biến đổi ngày một hoàn thiện hơn theo sự phát triển của xã hội, do đó sẽ được bổ sung dần trong quá trình sử dụng và phát triển. Mong quý đồng nghiệp góp ý bổ sung bài giảng để hoàn thiện hơn. TÁC GIẢ 2
  3. Chương 1. CÁC PHƯƠNG TIỆN GDTC 1.1. Bài tập thể chất 1.1.1. Đặc điểm chung 1.1.1.1. Khái niệm Bài tập thể chất (BTTC) là những hành động vận động chuyên biệt do con người sáng tạo ra một cách có ý thức, có chủ đích phù hợp với quy luật giáo dục thể chất (GDTC) để giải quyết nhiệm vụ của GDTC đáp ứng những nhu cầu phát triển thể chất và tinh thần của con người. Dấu hiệu bản chất nhất của BTTC là sự lặp lại, chỉ có thông qua lặp lại nhiều lần một hành động vận động nào đó mới có thể hình thành kỹ năng kỹ xảo vận động KNKXVĐ và làm phát triển các tố chất thể lực (TCTL). 1.1.1.2. Nguồn gốc của BTTC BTTC ra đời từ cổ xưa, nó gắn liền với lao động, nhân tố quan trọng nhất làm nẩy sinh BTTC là điều kiện sống vật chất và hoạt động của con người mà trước hết là lao động, hầu hết các BTTC có liên quan trực tiếp đến các tác động của lao động; ngoài ra các hoạt động quân sự, nghệ thuật, tôn giáo cũng ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển BTTC. Trong xã hội nguyên thủy các bài tập mang tính thực dụng trực tiếp. Các bài tập nẩy sinh và đáp ứng nhu cầu của lao động gọi là bài tập tự nhiên (đi, chạy, nhảy, leo trèo, mang vác...). Cùng với sự phát triển của xã hội thì bài tập tự nhiên mất dần tính phụ thuộc trực tiếp và nó dần dần được thay thế bằng các bài tập phân tích. Bài tập phân tích là các bài tập được sáng tạo ra để giải quyết nhiệm vụ giáo dục, giáo dưỡng và chữa bệnh. 1.1.1.3. Bài tập thể chất là phương tiện chuyên môn cơ bản nhất của GDTC Mặc dù BTTC được hình thành trên cơ sở tác động của lao động và có những điểm đồng nhất với lao động về những biến đổi sinh lý, sinh hóa diễn ra trong cơ thể, nhưng hai hiện tượng này không cùng bản chất. - Các bài tập thể chất khác với các hoạt động bình thường của con người, trong 3
  4. đó có hoạt động lao động. Khác nhau ở đối tượng tác động, ở tính mục đích, tính qui luật và khác nhau ở sự tác động lên cơ thể con người. + Đối tượng tác động: Bài tập thể chất đối tượng là con người, còn lao động đối tượng tác động là tự nhiên ( cây, cỏ, đất....) + Mục đích: Bài tập thể chất giải quyết các nhiệm vụ sư phạm và phục vụ lao động (Sức khỏe và phát triển con người toàn diện), còn lao động giải quyết các nhiệm vụ của lao động với mục đích là đem lại hiệu quả kinh tế, vật chất. + Qui luật: Bài tập thể chất thực hiện theo qui luật của giáo dục thể chất, còn lao động thực hiện theo qui luật của lao động (giá cả, cung cầu, cạnh tranh...) + Sự tác động: Lao động tác động chủ yếu phiến diện dễ gây bệnh nghề nghiệp, còn bài tập thể chất giải quyết được nhiệm vụ hoàn thiện thể chất cho con người, sửa chữa được các bệnh nghề nghiệp do lao động gây ra và còn là phương tiện nghỉ ngơi tích cực. - Các yếu tố môi trường (nước, không khí, ánh sáng) và các điều kiện vệ sinh tự nó không thể giải quyết được các nhiệm vụ của giáo dục thể chất mà nó chỉ có thể hỗ trợ cho các BTTC để đạt được hiệu quả cao hơn - Chỉ có bài tập thể chất mới có thể giải quyết độc lập các nhiệm vụ của TDTT, điều này được thể hiện rõ, nếu ta đem so sánh với các phương tiện khác thì: + Bài tập thể chất không những ảnh hưởng đến trạng thái chức năng của cơ thể mà còn ảnh hưởng đến nhân cách của con người. + Các bài tập thể chất nhằm hình thành một hệ thống các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết trong cuộc sống lao động, sinh hoạt, chiến đấu, thể thao. Đồng thời trang bị những tri thức cần thiết với mục đích để con người sử dụng có hiệu quả các phương tiện của giáo dục thể chất. + Các bài tập thể chất là đối tượng để giảng dạy nhằm mục đích hoàn thiện thể chất, giữ gìn và nâng cao sức khoẻ của con người một cách tích cực nhất, chủ động nhất. + Nó có thể thoả mãn được nhu cầu tự nhiên và nhu cầu có tính xã hội của con 4
  5. người nhờ sự phong phú về loại hình hoạt động và phù hợp với mọi lứa tuổi, giới tính. Như vậy nếu việc thực hiên các bài tập thể chất được tiến hành một cách khoa học thì sẽ cho phép giải quyết một cách đầy đủ các nhiệm vụ của giáo dục thể chất. 1.1.2. Nội dung và hình thức của bài tập thể chất 1.1.2.1. Nội dung Nội dung của BTTC bao gồm những động tác tạo nên bài tập đó và các quá trình cơ bản xảy ra trong cơ thể do việc thực hiện bài tập đó tạo nên. Các quá trình này diễn ra trong cơ thể rất phức tạp, đa dạng và có thể được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau: Tâm lý, sinh lý, sinh hóa, sinh cơ, sư phạm.... - Về mặt tâm lý: BTTC được xây dựng trên cơ sở những hoạt động vận động có ý thức. Đó là những hành vi vận động có chủ đích, liên quan đến nhiều quá trình tâm lý như biểu tượng vận động, hoạt động tư duy, xúc cảm... có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự biểu hiện ý chí, tình cảm, tính cách. - Về mặt sinh lý học: Nội dung của BTTC là những biến đổi các chức năng sinh lý của cơ thể khi thực hiện các bài tập, làm cho cơ thể chuyển sang hoạt động ở mức cao hơn so với yên tĩnh. Vì vậy mà thông qua sự tác động của BTTC sẽ hoàn thiện được chức năng cơ thể người tập. Những biến đổi sinh lý đó kích thích quá trình hồi phục và thích nghi của cơ thể trong và sau lúc thực hiện bài tập. Nhờ vậy BTTC đã trở thành một nhân tố có tác dụng mạnh mẽ tăng cường khả năng chức phận và hoàn thiện cấu trúc cơ thể. - Về mặt sư phạm: Điều quan trọng không chỉ là những biến đổi sinh lý, sinh hóa diễn ra trong cơ thể mà là xem xét tác dụng tổng hợp của các bài tập đó đối với việc phát triển các năng lực vận động của cơ thể và sự hình thành các kỹ năng kỹ xảo vận động (KNKX VĐ) cũng như tác dụng đến hành vi, nhân cách người tập. Điều chủ yếu nữa là hiểu được phương hướng tác dụng của bài tập đối với việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục và giáo dưỡng đặt ra. 1.1.2.2. Hình thức Hình thức của BTTC là cấu trúc bên trong và bên ngoài của nó. Hình thức của 5
  6. bài tập phụ thuộc vào đặc điểm của nội dung. - Cấu trúc bên trong của BTTC là mối liên hệ tác động giữa các quá trình sinh lý, sinh hóa, là sự phối hợp lẫn nhau giữa các quá trình đó khi thực hiện bài tập. - Cấu trúc bên ngoài của bài tập là hình dạng có thể nhìn thấy được, biểu hiện đặc trưng ở mối quan hệ giữa các thông số không gian, thời gian và lực của động tác thực hiện bài tập. Hình thức và nội dung của BTTC có mối quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó nội dung là mặt quyết định, nó đóng vai trò chủ đạo trong quan hệ với hình thức. Nội dung thay đổi thì hình thức cũng thay đổi theo. Ví dụ: Tốc độ thay đổi thì biên độ và tần số động tác có thể thay đổi theo. Hình thức cũng có ảnh hưởng đến nội dung, hình thức chưa hoàn thiện sẽ cản trở khả năng tối đa của cơ thể. Ngược lại, hình thức hoàn thiện sẽ tạo điều kiện khả năng sử dụng có hiệu quả hơn các năng lực thể chất. Ví dụ: Hai người có tốc độ chạy như nhau, người có kỹ thuật hoàn thiện hơn sẽ tiêu hao năng lượng ít hơn. Ý nghĩa tương đối độc lập của hình thức biểu hiện: Các bài tập có nội dung khác nhau nhưng hình thức bên ngoài lại tương tự nhau như chạy và đi bộ thể thao. Ngược lại, các bài tập có hình thức khác nhau nhưng có nội dung tương tự như nhau. Ví dụ: Chạy, bơi, đua xe đạp... có cùng cường độ sinh lý (công suất). Như vậy, tác động của BTTC đối với cơ thể mang tính chất cụ thể trong từng trường hợp. Tùy thuộc vào nội dung và hình thức của mỗi BTTC mà tác động đến con người ít hay nhiều. Mặt khác, BTTC cũng có thể dẫn đến tiêu cực cho sức khỏe con người nếu sử dụng chúng không đúng quy luật. 1.1.3. Kỹ thuật của bài tập thể chất Kỹ thuật của BTTC là cách thức thực hiện động tác mà nhờ đó nhiệm vụ vận động được giải quyết với hiệu quả tương đối cao hơn. Kỹ thuật của BTTC không phải là bất biến, nó luôn được bổ sung và hoàn thiện do ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về những quy luật chuyển động, hoàn thiện phương pháp huấn luyện, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, ở một chuẩn mực nào đó 6
  7. còn được quy định bởi sự hoàn thiện dụng cụ tập luyện. Khi phân tích BTTC, thường chia thành: - Nguyên lý kỹ thuật: Là tổng hòa những khâu, những điểm trong cấu trúc động tác, động lực học và nhịp điệu cần thiết để giải quyết nhiệm vụ vận động. Nếu thiếu một khâu nào đó thì nhiệm vụ vận động không được giải quyết. - Khâu chính (then chốt) của kỹ thuật: Là phần quan trọng nhất, quyết định cách thức thực hiện nhiệm vụ vận động, nếu thay đổi nó thì tác dụng của bài tập cũng thay đổi theo. Việc thực hiện khâu chính của bài tập diễn ra trong thời gian ngắn kết hợp với tập trung sức. Khâu chính của bài tập là bắt buộc. - Khâu chi tiết của kỹ thuật: Là khâu thứ yếu của động tác, không gây nên phá vỡ cơ chế cơ bản của động tác. Các chi tiết của kỹ thuật ở các vận động viên có thể khác nhau tùy theo đặc điểm cấu trúc cơ thể. Việc sử dụng đúng đắn đặc điểm cá nhân là thể hiện kỹ thuật cá nhân. Bắt chước kỹ thuật cá nhân của các VĐV ưu tú một cách thiếu suy nghĩ, không phù hợp với đặc điểm cá nhân có thể ảnh hưởng xấu tới thành tích thể thao. 1.2. Các nhân tố môi trường tự nhiên và vệ sinh 1.2.1. Môi trường (Nước, không khí, ánh sáng) Nước, không khí và ánh sáng cũng là những phương tiện không kém phần quan trọng để củng cố, tôi luyện cơ thể và nâng cao khả năng hoạt động thể lực của con người trong quá trình GDTC. Các nhân tố môi trường được sử dụng theo nhiều phương hướng như: - Bổ sung, tăng cường và hợp lý hóa tác dụng của BTTC. - Sử dụng như là một phương tiện độc lập để tôi luyện cơ thể và củng cố sức khỏe. 1.2.2. Yếu tố vệ sinh Yếu tố vệ sinh cũng được xem như là một phương tiện bổ sung của GDTC. Việc tuân thủ theo các quy tắc vệ sinh trong các quá trình GDTC ở mức đáng kể quyết định hiệu quả của GDTC. Điều quan trọng là đảm bảo yêu cầu vệ sinh của chế độ lượng vận 7
  8. động và nghỉ ngơi, vệ sinh dinh dưỡng cũng như thúc đẩy quá trình hồi phục sau buổi tập, ngoài ra nó còn có tác dụng phòng bệnh và củng cố sức khỏe. Câu hỏi ôn tập và thảo luận Câu 1. Chứng minh rằng BTTC là phương tiện chuyên môn cơ bản của GDTC. Câu 2. Nguồn gốc của BTTC? Sự khác nhau giữa BTTC và lao động? Câu 3. Trình bày hình thức và nội dung của BTTC. Câu 4. Thế nào là kỹ thuật của BTTC ? Hãy phân tích cấu trúc kỹ thuật của BTTC. Chương 2. PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TDTT 2.1. Cơ sở cấu trúc của phương pháp giáo dục thể chất 2.1.1. Lượng vận động và quãng nghỉ là các thành tố cơ bản của phương pháp GDTC Một trong những cơ sở quan trọng nhất của tất cả các phương pháp giáo dục thể chất là điều chỉnh lượng vận động (LVĐ) kết hợp với quãng nghỉ. Phương pháp giáo dục thể chất: Là cách thức sử dụng bài tập thể chất hợp lý nhằm tạo nên sự thích ứng của cơ thể với tập luyện, phát triển và hoàn thiện khả năng vận động và tố chất thể lực. Lượng vận động: Là chỉ sự định lượng (mức độ) tác động của bài tập thể chất lên cơ thể làm thay đổi trạng thái chức năng của các hệ cơ quan trong cơ thể người tập. Sự tác động của LVĐ dẫn đến những biến đổi chức năng trong cơ thể như trạng thái trước, trong vận động và dẫn đến mệt mỏi. Mệt mỏi sau vận động không mất đi hoàn toàn mà để lại những dấu vết và diễn ra quá trình hồi phục và thích nghi. Quá trình tích lũy những dấu vết, những biến đổi thích nghi đó sẽ làm phát triển thể chất người tập. Lượng vận động bao gồm LVĐ bên trong và LVĐ bên ngoài: - Lượng vận động bên trong: Là mức độ biến đổi sinh lý, sinh hóa trong cơ thể người tập khi thực hiện bài tập. - Lượng vận động bên ngoài: Là những thông số bên ngoài, là những chỉ số về 8
  9. mặt số lượng bài tập. LVĐ bên ngoài bao gồm 2 thành phần cơ bản: + Khối lương vận động: Là độ dài thời gian tác động, là tổng số lần vận động thể lực hay thực hiện động tác và nhiều thông số khác nữa. + Cường độ vận động: Là sự tác động của bài tập lên cơ thể trong một đơn vị thời gian nào đó, ở một thời điểm cụ thể tạo ra mức độ căng thẳng về trạng thái chức năng các hệ cơ quan trong cơ thể. Các chỉ số tối đa của khối lượng và cường độ có quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau. LVĐ có cường độ tối đa chỉ kéo dài trong một số ít giây. Ngược lại, LVĐ có khối lượng tối đa chỉ có thể được thực hiện với cường độ thấp Hiệu quả của LVĐ tỉ lệ thuận với khối lượng và cường độ của nó, khối lượng vận động và cường độ vận động càng tăng thì mức độ biến đổi sinh lý, sinh hóa trong cơ thể càng mạnh và ngược lại, nghĩa là thích nghi của cơ thể càng lớn và ngược lại. Nhưng nếu sử dụng một LVĐ lâu dài có hệ thống thì cơ thể có những biến đổi thích nghi và sẽ không gây nên những thay đổi mạnh mẽ như trước nữa, vì vậy để tạo nên sư biến đổi thường xuyên trạng thái chức năng của cơ thể thì phải thay đổi điều chỉnh LVĐ. LVĐ ổn định hoặc biến đổi tạo ra sự thích ứng của cơ thể là cơ sở của phương pháp GDTC. Vậy LVĐ chính là thành tố cơ bản của phương pháp GDTC. Quãng Nghỉ: Là thời gian nghỉ giữa các lần thực hiện bài tập. LVĐ trong buổi tập có thể liên tục hay ngắt quãng vì vậy quãng nghỉ ngắn hay dài khi kết hợp với LVĐ cũng là thành tố cơ bản của phương pháp GDTC, vì nó cũng tạo nên những biến đổi khác nhau về trạng thái chức năng của cơ thể. (Quãng nghỉ cũng có thể thụ động hay tích cực) Thời gian quãng nghỉ khác nhau được xác định theo mục đích buổi tập và các qui luật của quá trình hồi phục cơ thể. Có 3 loại quãng nghỉ: - Quãng nghỉ đầy đủ: Là quãng nghỉ đảm bảo cho LVĐ tiếp theo được thực hiện vào thời điểm mà khả năng vận động thể lực được hồi phục về mức ban đầu. Thường được sử dụng trong 9
  10. huấn luyện kỹ thuật động tác. - Quãng nghỉ ngắn: Là LVĐ tiếp theo được thực hiện vào thời điểm các chức năng riêng lẻ hoặc toàn bộ cơ thể chưa hồi phục đầy đủ. Thường dùng để huấn luyên các tố chất thể lực. - Quãng nghỉ vượt mức: Là LVĐ sau được thực hiện vào thời điểm cơ thể diễn ra pha hồi phục vượt mức ban đầu. 10
  11. Hiệu quả sử dụng một loại quãng nghỉ nào đó không cố định, mà tùy theo quãng nghỉ và trình độ tập luyện thì hiệu quả của LVĐ cũng thay đổi. Từ quãng nghỉ vượt mức có thể trở thành quãng nghỉ đầy đủ hoặc quãng nghỉ ngắn. Như vậy, do quãng nghỉ khác nhau cũng tạo nên hiệu quả tác động khác nhau, do đó quãng nghỉ cũng là thành tố cơ bản của phương pháp GDTC. 2.1.2. Cách tiếp thu và định mức lượng vận động Ngoài vấn đề điều chỉnh lượng vận động và quãng nghỉ, cơ sở của các phương pháp GDTC còn là những cách thức hợp lý trong tiếp thu hành động vận động và hình thức định mức chúng (tổ chức và điều chỉnh). Nhìn chung, có hai cách thức tiếp thu động tác: Tiếp thu từng phần và tiếp thu toàn thể. Tùy theo đặc điểm động tác, trình độ chuẩn bị thể lực hiện tại của người tập và những điều kiện khác mà mỗi cách tiếp cận động tác đều là hợp lý. Trong giáo dục TCVĐ cũng tồn tại hai cách tác động - tác động chọn lọc và tác động tổng hợp tới các chức năng khác nhau của cơ thể. Căn cứ vào đặc điểm định mức hoạt động của người tập, thực tế các phương pháp GDTC chỉ gồm hai loại: Phương pháp bài tập định mức và các phương pháp trò chơi, thi đấu. 11
  12. Mỗi phương pháp đều có giá trị riêng, nhưng không có ý nghĩa duy nhất. Chỉ đạt được hiệu quả tập luyện khi biết khéo léo sử dụng tất cả các phương pháp kể trên phù hợp đặc điểm phương tiện, đặc điểm người tập và điều kiện buổi tập. 2.2. Phương pháp tập luyện có định mức chặt chẽ Đặc điểm của phương pháp này là hoạt động của người tập được tổ chức, quản lý và điều hành một cách chi tiết. Sự định mức thể hiện ở những điểm sau: - Định mức trước chương trình động tác (quy định trước thành phần các động tác, thứ tự lặp lại...) - Việc thực hiện lượng vận động và quãng nghỉ cũng được định trước. - Sử dụng các điều kiện bên ngoài, các dụng cụ tập luyện cũng được định trước ( kế hoạch, phương tiện, sân bãi, dụng cụ tập luyện...) Ý nghĩa của việc định mức là ở chỗ đảm bảo điều kiện tối ưu cho tiếp thu kỹ năng, kỹ xảo vận động mới và phát triển các tố chất thể lực. 2.2.1. Phương pháp tập luyện trong quá trình học động tác 2.2.1.1. Phương pháp phân đoạn (Phân chia hợp nhất). Thường được sử dụng trong trường hợp đối với động tác hoặc tổ hợp những động tác cần học có thể phân chia thành các phần tương đối độc lập mà không ảnh hưởng đến cấu trúc động tác và các bài tập có kỹ thuật khó, phức tạp. 2.2.1.2. Phương pháp tập luyện hoàn chỉnh (Nguyên vẹn). Trong trường hợp việc phân chia nhỏ động tác mà gây nên những tác động lớn đến cấu trúc động tác và các bài tập dễ đơn giản thường sử dụng phương pháp tập luyện hoàn chỉnh. Tuy nhiên đối với những động tác phức tạp vẫn có thể sử dụng phương pháp tập luyện nguyện vẹn, nhưng thường phải kết hợp với việc sử dụng các bài tập bổ trợ, dẫn dắt. 2.2.2. Các phương pháp tập luyện định mức lượng vận động và quãng nghỉ Các phương pháp này nhằm hoàn thiện kỹ năng kỹ xảo vận động và phát triển các tố chất vận động. Căn cứ vào mục đích sử dụng và phụ thuộc vào đặc điểm định hướng và biến thiên các thông số bên ngoài của lượng vận động mà sử dụng cho hợp lý 12
  13. 2.2.2.1. Phương pháp tập luyện lặp lại ổn định theo chế độ lượng vận động liên tục và ngắt quãng Trong quá trình tập luyện lặp lại ổn định, động tác được lặp lại không có sự thay đổi đáng kể về cấu trúc và các thông số bên ngoài của lượng vận động. Phương pháp này được sử dụng trong giáo dục tất cả các tố chất vận động. a. Phương pháp tập luyện ổn định liên tục Đặc điểm của phương pháp này là không có sự thay đổi đáng kể về cấu trúc động tác, về lượng vận động và về các điều kiện để tiến hành tập luyện. Phương pháp này thường được sử dụng trong giáo dục sức bền. Một trong những phương pháp điển hình là phương pháp đồng đều (Ví dụ chạy Việt dã). b. Phương pháp tập luyện ổn định ngắt quãng Là phương pháp tập luyện lặp lại động tác với quãng nghỉ tương đối ổn định. Thời gian quãng nghỉ tùy thuộc vào mục đích tập luyện mà ta có thể chọn quãng nghỉ đầy đủ, quãng nghỉ ngắn hay quãng nghỉ vượt mức. Ví dụ: Trong giáo dục sức bền thường chú trọng quãng nghỉ ngắn. 2.2.2.2. Phương pháp tập luyện biến đổi theo chế độ lượng vận động liên tục và ngắt quãng Tùy từng trường hợp mà thay đổi các thông số vận động, thay đổi cách thức thực hiện động tác, thay đổi quãng nghỉ và các điều kiện bên ngoài. Bản chất của vấn đề là đặt ra những yêu cầu mới cao hơn để kích thích sự phát triển các chức năng cơ thể, đồng thời mở rộng tính linh hoạt của kỹ xảo vận động và hoàn thiện kỹ xảo vận động a. Phương pháp tập luyện biến đổi liên tục Chủ yếu áp dụng cho các bài tập có chu kỳ. Phương pháp điển hình của nhóm phương pháp này là bài tập biến tốc. b. Phương pháp tập luyện biến đổi ngắt quãng - Có thời gian nghỉ ngắn hay dài tùy theo bài tập. - Đặc điểm tiêu biểu của phương pháp này là luân phiên có hệ thống giữa lượng 13
  14. vận động và nghỉ ngơi. Trong đó lượng vận động và quãng nghỉ đều có thể thay đổi. 2.2.2.3. Phương pháp tập luyện tổng hợp Trên thực tế các phương pháp thường được kết hợp với nhau trong quá trình giáo dục thể chất thành phương pháp tổng hợp. Ví dụ: Chạy 100m lần 1 nghỉ 10 phút, lần 2 nghỉ 8 phút, lần 3 nghỉ 6 phút... Có nhiều phương án để kết hợp; một số phương pháp điển hình sau: a. Phương pháp tập luyện lặp lại tăng tiến Có đặc điểm lặp lại lượng vận động trong mỗi lần tập nhưng lại tăng lượng vận động đó ở những lần tập sau. Ví dụ: Trọng lượng tạ không thay đổi trong một tổ nhưng lại được tăng lên ở tổ tập sau ( lần 1 cho gánh tạ 50kg trong 02 phút, lần hai 60kg trong 3 phút, lần ba 70kg 4 phút... b. Phương pháp tập luyện lặp lại với quãng nghỉ giảm dần Có đặc điểm lượng vận động ổn định nhưng quãng nghỉ giảm dần làm biến đổi mạnh mẽ trong cơ thể khi thực hiện bài tập. Ví dụ: Chạy 4x100m; lần 1 nghỉ 12p, lần 2 -10p, lần 3- 8p, lần 4- 6p... c. Phương pháp tập luyện vòng tròn Quá trình thực hiện các bài tập theo thứ tự từng nhóm với những bài tập đã được lựa chọn và hợp nhất lại thành bài tập liên hợp. Các bài tập được thực hiện theo từng trạm kế tiếp nhau theo dạng vòng tròn. Tại mỗi trạm, người tập thực hiện một loạt các bài tập nhất định. Số lần lặp lại ở mỗi trạm được xác định theo đặt điểm người tập, thông thường được lặp lại bằng 1/2 hay 1/3 đến 2/3 số lần lặp lại tối đa. Phương pháp này nhằm giáo dục các tố chất thể lực, thường sử dụng các bài tập có kỹ thuật đơn giản và người tập đã nắm vững kỹ thuật bài tập trước đó - Các dạng cơ bản của phương pháp tập luyện vòng tròn: + Theo phương pháp tập kéo dài liên tục: Phát triển sức bền chung. + Theo phương pháp giãn cách với quãng nghỉ ngắn: Phát triển sức bền tốc độ và sức mạnh bền. 14
  15. + Theo phương pháp giãn cách với quãng nghỉ đầy đủ: Phát triển sức mạnh và tốc độ. 2.3. Phương pháp trò chơi và phương pháp thi đấu 2.3.1. Phương pháp trò chơi Phương pháp trò chơi không nhất thiết phải gắng với một trò chơi cụ thể nào đó như bóng đá, bóng chuyền.... hoặc các trò chơi vận động đơn giản. Về nguyên tắc, phương pháp trò chơi có thể được sử dụng trong bất kỳ bài tập thể lực nào, tất nhiên chúng phải được tổ chức phù hợp với đặc điểm của phương pháp trò chơi. 2.3.1.1.Đặc điểm của phương pháp trò chơi - Tổ chức theo chủ đề: Hoạt động của người chơi được tổ chức tương ứng với chủ đề giả định hoặc có tính chất hình ảnh. - Phong phú về phương thức để đạt được mục đích: Hầu như bao giờ cũng có nhiều cách để chiến thắng được luật chơi cho phép. - Là một hoạt động độc lập, sáng tạo, có yêu cầu cao về sự nhanh trí, khéo léo của người chơi. - Tạo nên sự đua tranh căng thẳng giữa các cá nhân hoặc giữa các nhóm người và tạo nên cảm xúc mạnh mẽ (thể hiện rõ các phẩm chất cá nhân) Nhược điểm: Khả năng điều chỉnh lượng vận động bị hạn chế và việc chương trình hóa ở mức tương đối. 2.3.1.2.Ý nghĩa tác dụng Củng cố và hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo vận động, phát triển các tố chất thể lực, giáo dục tính kỷ luật, tính đồng đội và những phẩm chất khác. 2.3.2. Phương pháp thi đấu Trong giáo dục thể chất, phương pháp thi đấu được sử dụng dưới hai hình thức: - Hình thức tương đối đơn giản: Được sử dụng các dạng như đấu tập, thi thử (có thể sử dụng thi đấu ngay cả những bài tập riêng lẻ) nhằm kích thích hứng thú và tính tích cực của người tập. - Hình thức phát triển phức tạp: Được sử dụng như một hình thức tương đối độc 15
  16. lập như thi kiểm tra, các cuộc thi đấu thể thao chính thức.... 2.3.2.1. Đặc điểm cơ bản của phương pháp thi đấu - So sánh sức lực trong điều kiện đua tranh thứ bậc, vị trí để đạt được thành tích cao nhất. Yếu tố đua tranh trong thi đấu cũng như điều kiện tiến hành tổ chức cuộc thi sẽ tạo nên cảm xúc sinh lý đặc biệt làm tăng thêm tác dụng bài tập. Sự đua tranh giữa các cá nhân hoặc giữa tập thể diễn ra một cách gay gắt, vì vậy nó đòi hỏi phát huy tính tập thể, tính kỷ luật và sự nỗ lực ý chí cao độ. - Phương pháp thi đấu còn có đặc điểm chuẩn hóa đối tượng thi, quy tắc thi và phương thức đánh giá thành tích. - Hạn chế sự điều chỉnh lượng vận động. 2.3.2.2. Ý nghĩa tác dụng - Được sử dụng để giải quyết các nhiệm vụ khác nhau như: Phát triển các tố chất thể lực, củng cố và hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo vận động và năng lực thể hiện chúng trong những điều kiện phức tạp. - Có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục các phẩm chất đạo đức, ý chí, tinh thần trách nhiệm, đồng thời có sự ganh đua trong thi đấu dễ hình thành nên những nét tính cách ích kỷ, háo danh, hiếu thắng vì vậy phải có phương pháp giáo dục đúng đắn. 2.4. Phương pháp sử dụng lời nói và trực quan 2.4.1. Phương pháp sử dụng lời nói Bằng lời nói để truyền thụ kiến thức cho người học, kích thích tư duy và điều khiển việc thực hiện chúng. Phương pháp lời nói còn được sử dụng để phân tích, đánh giá kết quả và điều chỉnh hành vi người học. Phương pháp lời nói cũng rất cần thiết trong quá trình nhận thức, tự đánh giá, tự điều chỉnh hành động Do có chức năng đa dạng mà lời nói được sử dụng trong nhiều phương pháp khác nhau: Phân tích, giảng giải, chỉ thị, mệnh lệnh, đàm thoại... 2.4.1.1. Đặc trưng của nhóm phương pháp này là phương pháp giảng giải 16
  17. Giảng giải là dùng lời nói để phân tích về nội dung cơ bản, trọng tâm, phương hướng chuyển động, phân tích các mấu chốt kỹ thuật, các mối quan hệ bên ngoài, các cử động liên tục... qua đó hình thành biểu tượng chung về động tác, đi đến việc thực hiện hoàn chỉnh kỹ thuật TDTT. 2.4.1.2. Yêu cầu khi giảng giải Giảng giải là giúp học sinh quan sát một cách có mục đích, hiểu và nắm được từng phần kỹ thuật động tác, cho nên lời nói giảng giải phải ngắn gọn dễ hiểu, chuẩn xác về nội dung, chính xác về thuật ngữ, nhấn mạnh được điểm chủ yếu, khâu then chốt của kỹ thuật động tác và phải sinh động giàu hình tượng. 2.4.2. Phương pháp trực quan Quá trình nhận thức của con người = trực quan - tư duy - thực tiễn. Trực quan có hai loại: Trực quan trực tiếp và trực quan gián tiếp. Tùy từng trường hợp cụ thể trong GDTC mà sử dụng trực quan trực tiếp hoặc trực quan gián tiếp cho phù hợp. Đặc trưng của nhóm phương pháp này là phương pháp làm mẫu. Làm mẫu là giáo viên thực hiện động tác để học sinh quan sát, giúp các em thấy được kết cấu, hình dáng, đường đi và thứ tự các cử động của động tác. Phương pháp này giúp học sinh vừa quan sát vừa tư duy nhằm đạt được hiệu quả cao trong quá trình thực hiện động tác. Yêu cầu khi làm mẫu: - Động tác làm mẫu phải hoàn chỉnh, đẹp, chính xác vì mục đích làm mẫu là để học sinh xem rồi bắt chước làm theo. - Những động tác mới, phức tạp phải làm mẫu từ 2-3 lần: + Lần 1: Làm hoàn chỉnh toàn vẹn động tác để học sinh có biểu tượng chung về động tác đó. + Lần 2: Làm chậm, có thể kết hợp với giảng giải. + Lần 3: Thực hiện như lần 1. - Khi làm mẫu phải chọn vị trí thích hợp sao cho tất cả học sinh đều nhìn thấy 17
  18. các chi tiết của động tác. - Tùy theo động tác và đối tượng cụ thể mà chọn phương hướng làm mẫu cho phù hợp.(làm mẫu chếch, nghiêng, soi gương…..) - Làm mẫu có thể kết hợp với giảng giải để nhắc nhở học sinh quan sát những khâu chủ yếu của động tác. - Khi làm mẫu không để học sinh quay mặt ngược hướng gió, hướng mặt trời hoặc hướng có những hoạt động khác. - Khi hướng dẫn thực hiện, giáo viên có thể dùng tín hiệu như vỗ tay, lời hô, còi… để giúp học sinh hình thành cảm giác, nhịp điệu đúng. Câu hỏi ôn tập và thảo luận Câu 1. Chứng minh rằng lượng vận động và quãng nghỉ là các thành tố cơ bản của phương pháp GDTC. Câu 2. Trình bày các phương pháp tập luyện có định mức chặt chẽ? Hãy thiết kế một bài tập liên hợp trong phương pháp tập luyện vòng tròn. Câu 3. Thế nào là phương pháp trò chơi và phương pháp thi đấu? Đặc điểm và ý nghĩa tác dụng của chúng trong giảng dạy TDTT? Câu 4. Phương pháp sử dụng lời nói và trực quan trong giáo dục thể chất? Các phương pháp đặc trưng của chúng? Cau 5. Thiết kế sơ đồ các phương pháp GDTC. Chương 3. NGUYÊN TẮC GIẢNG DẠY TDTT 3.1. Nguyên tắc phát huy tính tích cực tự giác tập luyện 3.1.1. Khái niệm Tính tích cực của người tập TDTT thường thể hiện qua hoạt động tự giác, gắng sức nhằm hoàn thành những nhiệm vụ học tập, được bắt nguồn từ thái độ học tập tốt, cố gắng nắm được những KNKX cùng hiểu biết có liên quan phát triển thể chất và tinh thần. Tự giác được hiểu là tự ý thức của bản thân người học trước nhiệm vụ đặt ra, từ đó người học tập trung cao độ sức lực và ý chí để hoàn thành tốt nhiệm vụ. 3.1.2. Những yêu cầu để đảm bảo tính tự giác tích cực 18
  19. 3.1.2.1. Giáo dục thái độ tự giác và hứng thú bền vững đối với mục đích tập luyện chung cũng như các nhiệm vụ cụ thể của buổi tâp Động cơ tham gia tập luyện là tiền đề cần thiết để đảm bảo thái độ tự giác. Động cơ tập luyện rất đa dạng, ở mỗi lứa tuổi, mỗi người khác nhau và mỗi giai đoạn khác nhau thì cũng khác nhau, vì vậy phải xây dựng động cơ đúng đắn cho người học. Do đó giáo viên TDTT phải biết hình thành cho học sinh hiểu được ý nghĩa chân chính của hoạt động TDTT, hiểu được bản chất xã hội của TDTT và TDTT như một phương tiện để phát triển cân đối toàn diện cơ thể, củng cố và nâng cao sức khỏe của chính mình và của xã hội. Hứng thú là hình thức biểu hiện của động cơ, đó là sự tập trung tích cực sự chú ý và ý nghĩ về một đối tượng, một hoạt động nhất định. Chính vì vậy, hứng thú giữ một vai trò quan trọng trong tích cực, tự giác học tập của học sinh. Nên việc xây dựng hứng thú tập luyện cho học sinh là cơ sở vững chắc phát huy tính tự giác tích cực. Hứng thú biểu hiện dưới hai hình thức: - Hứng thú nhất thời: Biểu hiện thái độ tự giác tích cực trong buổi tập khi có các hình thức tập luyện hợp lý hấp dẫn. Xây dựng hứng thú nhất thời bằng các biện pháp sau: + Tiến hành buổi tập sinh động, có sức lôi cuốn bằng các hình thức tổ chức buổi tập hợp lý. + Tăng cường các cuộc thi đấu nhỏ và sử dụng phương pháp trò chơi. + Sử dụng các hình mẫu trực quan, hợp lý, đẹp để tăng tính nghệ thuật của kỹ thuật động tác. - Hứng thú bền vững: Biểu hiện trong suốt quá trình học tập. Vì vậy, trong quá trình GDTC phải xây dựng hứng thú bền vững cho học sinh, tức là làm cho học sinh hiểu được ý nghĩa, tác dụng của luyện tập TDTT. Điều đó sẽ tạo cho họ có thái độ tự giác tích cực trong suốt quá trình tập luyện. 3.1.2.2. Kích thích việc phân tích một cách có ý thức, việc kiểm tra và dùng sức hợp lý khi thực hiện các bài tập thể chất 19
  20. - Ý thức về sự thực hiện của người tập phải được quan tâm thường xuyên trong quá trình giảng dạy, có thể tiến hành các cuộc kiểm tra, đánh giá nhận xét kịp thời về ý thức của người tập, tạo cho người tập có sự động não trong quá trình tập luyện, suy nghĩ về nguyên nhân của những lần thực hiện tốt và những lần thực hiện chưa tốt. Khi động tác đã trở thành kỹ xảo thì vẫn không quên vai trò của ý thức người tập với sự thực hiện để tiếp tục nâng cao chất lượng bài tập. - Kết quả của tập luyện còn phụ thuộc vào sự tự đánh giá của người tập về những chỉ số không gian, thời gian, dùng sức khi thực hiện động tác. Vì vậy người dạy phải luôn luôn giáo dục người học năng lực tự đánh giá, kiểm tra, thông báo cho họ biết những thông số khách quan để họ so sánh và tự điều chỉnh hành vi vận động của mình. 3.1.2.3. Giáo dục tính tự chủ, sáng tạo cho học sinh - Tính tự chủ, sáng tạo là cơ sở để nâng cao hiệu quả hoạt động vận động, vì vậy phải giáo dục cho học sinh những kỹ năng tự giải quyết các nhiệm vụ vận động và sử dụng một cách hợp lý các phương tiện, phương pháp GDTC. - Trong quá trình giảng dạy không chỉ dừng lại ở sự hoàn thành nhiệm vụ vận động mà phải hình thành cho học sinh phong cách thực hiện riêng tương xứng với khả năng của chính mình, hình thành động tác tốt nhất, đúng nhất nhưng ít tốn sức nhất. - Phải xây dựng mỗi giáo án TDTT là một giáo án hợp lý nhất về nội dung, hình thức, cách thức tiến hành nhằm tạo ra sự hứng thú cao cho học sinh. - Ngoài nhiệm vụ trên, thì GDTC còn được hiểu là một quá trình lao động căng thẳng và mệt mỏi diễn ra liên tục trong một thời gian dài, vì vậy đòi hỏi người học phải hình thành và nâng cao tinh thần bền bỉ, khắc phục khó khăn và tìm thấy niềm vui, niềm tin trong hoạt động, nhất là các bài tập phức tạp, đơn điệu. - Sự tự giác tích cực được nâng cao hơn nếu người dạy đánh giá đúng thành tích người học đạt được, có khen thưởng, động viên đúng lúc, phải xây dựng thành hệ thống tiêu chuẩn chuyên môn để đánh giá người tập. 3.2. Nguyên tắc trực quan trong tập luyện 20
nguon tai.lieu . vn