Xem mẫu

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 

AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM TẠI CÁC BẾP ĂN TẬP THỂ,  
KHU CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM – SINGAPORE  
TỈNH BÌNH DƯƠNG, NĂM 2013 
Lê Thị Ngọc Ánh*, Lê Hoàng Ninh* 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Tại Việt Nam các vụ ngộ độc thực phẩm trên 30 người mắc thường xảy ra tại các bếp ăn tập 
thể (BATT). Năm 2012, tỉnh Bình Dương có đến 75% các vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra tại BATT. 
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ các BATT tại khu công nghiệp Việt Nam‐ Singapore đạt các điều kiện về VSATTP 
và tỉ lệ nhân viên có kiến thức, thực hành đúng về VSATTP. Xác định mối liên quan giữa các điều kiện VSATTP 
với loại hình và quy mô bếp, giữa kiến thức và thực hành với các đặc tính của mẫu nghiên cứu. 
Phương  pháp  nghiên  cứu:  Một  nghiên  cứu  cắt  ngang  được  thực  hiện  trên  tất  cả  người  chế  biến  (432 
người) tại toàn bộ 48 BATT có tổ chức nấu ăn tại chỗ trong khu công nghiệp Việt Nam‐ Singapore, tỉnh Bình 
Dương. Chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi để phỏng vấn trực tiếp kiến thức của người chế biến và bảng kiểm để quan 
sát thực hành của người chế biến, bảng kiểm để quan sát trực tiếp các điều kiện vệ sinh của BATT. Chúng tôi sử 
dụng phép kiểm chi bình phương để xác định mối liên quan giữa các biến số. 
Kết  quả:  Chỉ có 10,4% BATT đạt các điều kiện về VSATTP. Trong số 432 người được phỏng vấn, tỉ lệ 
nhân viên có kiến thức và thực hành đúng về VSATTP lần lượt là 9,3% và 8,6%. Về tỉ lệ kiểm soát thực phẩm 
đầu vào, những bếp có loại hình hợp đồng nấu có tỉ lệ đạt cao hơn so với những bếp có loại hình tự tổ chức nấu 
(PR=1,4; KTC 95% (1,1‐2,1)), những bếp có quy mô lớn có tỉ lệ đạt cao hơn so với những bếp có quy mô nhỏ hơn 
(PR=1,3; KTC 95% (1,1‐1,7)). Những người đã tập huấn về VSATTP có tỉ lệ kiến thức đúng cao hơn so với 
những người chưa được tập huấn 8,9 lần (PR=8,9; KTC95% (1,2‐63,6)) và có tỉ lệ thực hành đúng cao hơn 8,2 
lần (PR=8,2, KTC 95% (1,2‐58,9)). Ngoài ra, nhân viên làm việc ở bếp hợp đồng nấu có tỉ lệ kiến thức đúng cao 
hơn 3,9 lần so với nhân viên làm việc ở bếp tự tổ chức nấu (PR=3,9; KTC 95% (1,2‐12,3)). 
Kết luận: Tỉ lệ BATT đạt các điều kiện về VSATTP rất thấp, do đó các cơ quan quản lý cần tăng cường hơn 
công tác thanh, kiểm tra VSATTP tại các BATT, đặc biệt là đối với những bếp có loại hình tự nấu hoặc bếp có 
quy  mô  nhỏ (dưới  500  suất  ăn/ngày).  Bên  cạnh đó, tỉ  lệ nhân viên  có  kiến  thức  đúng  và  thực  hành đúng về 
VSATTP rất thấp nên công tác tập huấn kiến thức VSATTP cần được đẩy mạnh nhiều hơn, đặc biệt là đối với 
nhân viên làm việc ở những bếp có loại hình tự tổ chức nấu. 
Từ khóa: An toàn vệ sinh thực phẩm, bếp ăn tập thể 

ABSTRACT 
FOOD SAFETY AT CANTEENS IN VIETNAM – SINGAPORE INDUSTRIAL PARK,  
BINH DUONG PROVINCE, 2013 
Le Thi Ngoc Anh, Le Hoang Ninh  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 332 – 340 
Background:In Viet Nam,the majority of food poisoning outbreaksaffecting over 30 people usually occurat 
canteens. In 2012, there were 75% foodpoisoning cases happening at canteens in Binh Duong province. 
Objectives:To determine the proportion of canteens in the Vietnam‐Singapore Industrial park which attain 
* Viện Y tế công cộng TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: Ths. Lê Thị Ngọc Ánh       ĐT: 0976119309

332

Email: lengocanh309@yahoo.com

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
the food safety standards and the proportionof food‐handlers with right knowledge and practicesoffood safety. To 
identify the relationship between the sanitary conditions of food safety and the type and scale of canteens;between 
the knowledge and practicesof food handlers and their characteristics. 
Methods:  The descriptive cross‐sectional study was performed on allfoodhandlers (432 people) ofthe entire 
48  canteenswhose  cooking  is  organized  on  the  spot  in  Vietnam‐Singapore  Industrial  parks  in  Binh  Duong 
province. We used questions to interview directly the foodhandlers’ knowledgeand usedachecking table toobserve 
sanitary  conditions  of  thesecanteens  and  of  the  foodhandlers’practices.We  used  chi‐squared  test  to  measure  the 
relationship between variables. 
Results:  Only  10.4%  canteensattainted  the  conditions  of  food  safety.  In  432  interviewees,  theproportions 
offoodhandlers with the right knowledge and practicesin food safety account for 9.3% and 8.6% respectively. In 
terms of the rate of food control input, that of canteens belonging to the contracted cooking type was higher than 
that of canteens ofthe self‐organized cooking type (PR = 1,4, 95% CI (1,1‐ 2,1 )), the large scale canteens (over 500 
meals/day)  achieved  a  higher  rate  than  did  smaller  scale  canteens  (PR=1,3,  95%  CI  (1,1‐  1,7)).  The  propotion 
ofpeople who had participated in training on food safety outmatched that of those who had never attended by 8,9 
times in terms of right knowledge (PR = 8,9, 95% CI (1,2‐ 63,6)) and the rate of right practice outdid by 8,2 times 
(PR = 8,2, 95% CI (1,2‐ 58,9)). Additionally, foodhandlers who work at canteens of the contracted cooking type 
had  the  propotion  of  right  knowledge  that  was  3,9  timeshigher  than  those  who  work  at  canteens  of  the  self‐
organized cooking type (PR = 3,9, 95% CI (1,2 –12,3)). 
Conclusion:The  proportion  of  canteens  attaining  food  safetywasnoticeably  low.  To  cope  with  this, 
management agencies need to strengtheninspection of foodsafety atcanteens, especiallythe canteensbelonging 
to  the  self‐organized  cooking  type  orsmall  in  scale  (under  500  meals/day).Moreover,  the  proportion  of  food‐
handlers  with  right  knowledge  and  practices  in  food  safetywas  low  as  well,  thus  trainingshould  be 
promoted, especially for people who work in canteens of the self‐organized cooking type.  
Keywords:foodsafety, canteens 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Vệ  sinh  an  toàn  thực  phẩm  là  một  trong 
những vấn đề y tế công cộng lớn được các quốc 
gia  quan  tâm.  Tại  Việt  Nam,  từ  năm  2001‐2010 
đã  xảy  ra  1.892  vụ  ngộ  độc  thực  phẩm,  với 
55.381 người mắc và 514 người tử vong, trong đó 
các  vụ  ngộ  độc  lớn  thường  xảy  ra  tại  các 
BATT(1,4,9).  Tỉnh  Bình  Dương  là  tỉnh  có  tốc  độ 
phát triển kinh tế cao, là nơi tập trung nhiều khu 
công nghiệp lớn. Năm 2012, tỉnh đã xảy ra 4 vụ 
ngộ  độc  thực  phẩm,  với  142  người  mắc  và  03 
người tử vong, trong đó có 01 vụ (với 61 người 
mắc)  xảy  ra  tại  1  BATT  trong  khu  công  nghiêp 
Việt Nam ‐ Singapore, nguyên nhân là do vi sinh 
vật(3).  Thực  phẩm  có  thể  bị  ô  nhiễm  vào  chuỗi 
thức ăn từ trong quá trình sản xuất, chế biến đến 
khi ăn, do nhiều nguyên nhân. Trong đó có thể 
do điều kiện bếp ăn chưa được đảm bảo vệ sinh 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

hoặc có thể do người chế biến không tuân thủ tốt 
các  điều  kiện  vệ  sinh,  làm  nhiễm  bẩn  vào  thực 
phẩm  trong  quá  trình  sơ  chế,  nấu  nướng  và 
phân chia thức ăn hoặc do bảo quản thực phẩm 
không  đúng  cách.  Nghiên  cứu  này  được  thực 
hiện để tìm ra các điều kiện VSATTP chưa được 
đảm  bảo  của  BATT  cũng  như  của  người  chế 
biến, nhằm cung cấp thêm thông tin cho các nhà 
quản  lý  trong  công  tác  thanh  kiểm  tra  và  tập 
huấn kiến thức VSSATTP đạt hiệu quả hơn, góp 
phần ngăn ngừa các vụ ngộ độc thực phẩm khác 
có thể xảy ra. 

Mục tiêu nghiên cứu 
Xác định tỉ lệ các BATT tại khu công nghiệp 
Việt  Nam  ‐  Singapore,  tỉnh  Bình  Dương,  năm 
2013 đạt các điều kiện VSATTP. 
Xác  định  tỉ  lệ  nhân  viên  có  kiến  thức,  thực 
hành đúng về VSATTP.  

333

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
Xác  định  mối  liên  quan  giữa  các  điều  kiện 
VSATTP của BATT với loại hình và quy mô bếp  
Xác  định  mối  liên  quan  giữa  kiến  thức  và 
thực  hành  của  nhân  viên  chế  biến  với  các  đặc 
tính  của  mẫu  (tuổi,  giới,  trình  độ  học  vấn,  thời 
gian  làm  việc  trong  ngành,  tập  huấn  VSATTP, 
loại hình bếp, quy mô bếp) 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện 
vào tháng 5/2013, đối tượng là toàn bộ 48 bếp ăn 
tập thể có tổ chức nấu ăn tại chỗ trong khu công 
nghiệp  Việt  Nam  ‐  Singapore  I  và  II  tỉnh  Bình 
Dương và toàn bộ 432 nhân viên có trực tiếp tiếp 
xúc  với  thực  phẩm  tại  các  BATT  này.  Nghiên 
cứu sử dụng bộ câu hỏi phỏng vấn trực tiếp kiến 
thức của người chế biến, bảng quan sát điều kiện 
vệ sinh của bếp và bảng quan sát thực hành của 
người chế biến. 
Để  hạn  chế  sai  lệch  thông  tin  có  thể  xảy  ra 
khi  đến  thu  thập  số  liệu  tại  các  BATT,  đoàn 
nghiên  cứu  đã  nêu  rõ  lý  do  thu  thập  số  liệu 
nhằm  phục  vụ  cho  nghiên  cứu  khoa  học,  chứ 
không phải để thanh tra hay kiểm tra các cơ sở. 
Việc quan sát thực hành của từng nhân viên chế 
biến  và  quan  sát  điều  kiện  vệ  sinh  của  BATT 
được thực hiện trước khi phỏng vấn kiến thức. 
Số  liệu  sau  khi  thu  thập  được  làm  sạch  và 
nhập liệu bằng phần mềm EpiData 3.1 và phân 
tích bằng Stata 12.0. Các phương pháp thống kê: 
tỷ lệ %, tần số được sử dụng để mô tả đơn biến. 
Sử  dụng  phép  kiểm  chi  bình  phương  và  phép 
kiểm Fisher, với mức ý nghĩa p
nguon tai.lieu . vn