Xem mẫu

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012

17 KHẢO SÁT KIẾN THỨC CHĂM SÓC TRẺ BỊ SỐT CỦA CÁC BÀ MẸ
VÀ NHẬN XÉT TÁC DỤNG HẠ NHIỆT CỦA PHƯƠNG PHÁP CHƯỜM
BẰNG NƯỚC ẤM CHO TRẺ KHI SỐT CAO
TẠI BỆNH VIỆN VIỆT NAM CU BA
Trần Thị Lan Phương*

TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá tác dụng của phương pháp chườm ấm khi trẻ sốt cao trong thời gian đến khám và nằm
viện, đồng thời khảo sát kiến thức nhận biết và cách xử trí chăm sóc của các bà mẹ đối với trẻ khi sốt cao.
Đối tượng phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang có can thiệp. Đối tượng của
nghiên cứu là tất cả các trẻ nhi bị sốt đến khám và điều trị tại khoa Nhi bệnh viện Việt Nam Cu Ba.
Kết quả: Kết quả cho thấy có sự thay đổi có ý nghĩa thống kê khi ta chọn những trẻ sốt cao trên 390C nhưng
chưa dùng thuốc hạ sốt trước đó 6 giờ và chia hai nhóm ngẫu nhiên để nghiên cứu: Nhóm một chỉ dùng thuốc hạ
nhiệt Paracetamol. Nhóm hai: kết hợp dùng thuốc Paracetamol với chườm cơ thể bằng nước ấm. Theo dõi nhiệt
độ của hai nhóm này sau 15 phút thấy nhóm một giảm 1,1 ± 0,3 độ; nhóm 2 là 0,4 ± 0,3 độ. So sánh sự giảm
nhiệt độ của hai nhóm sau 30 phút thấy nhiệt độ giảm trung bình của nhóm một là 2,3 ± 0,5, nhóm hai là 1,8 ±
0,6.
Kết luận: Chườm ấm kết hơp với uống thuốc hạ sốt có tác dụng giảm nhiệt tốt hơn so với chỉ dùng uống
thuốc hạ sốt đơn thuần.
Từ khóa: Chườm ấm cho trẻ- sốt cao.

ABSTRACT
KNOWLEDGE SURVEY OF CARING FOR CHILDREN WITH FEVER OF MOTHERS AND
ANTIPYRETIC EFFECT OBSERVATION OF HOT THERAPEUTIC COMPRESS APPLIANCE
METHOD FOR CHILDREN WITH HIGH FEVER AT PEDIATRICS VIET NAM - CU BA HOSPITAL
Tran Thi Lan Phuongl* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 112 - 125
Objectives: Evaluating effect of Hot therapeutic compress appliance method when children being high fever
during examination and treatment in the hospital, at the same time, knowledge survey of mother’s recognition
and behaviour to children with high fever.
Methods: Interfered research design of horizontal description. Subject of the research is all children with
fever that examine and treat at Pediatrics of Vietnam - Cuba Hospital.
Results: Shown that there are significant changes to statistics when selecting children with fever above 390C
but have not used febrifuge before that 6h at least and separating two random group for research: group 1 only
uses febrifuge of Paracetamol. Group 2 combines using Paracetamol with Hot therapeutic compress appliance.
Monitoring temperature of these two groups after 15 minutes, group 1 reduces 1.1 ± 0.3 degrees; group 2 is 0.4 ±
0.3 degrees. Comparising temperature decrease of two groups after 30 minutes, result shown that average decrease
temperature of group 1 is 2.3 ± 0.5, group 2 is 1.8 ± 0.6.
Conclusions: Hot therapeutic compress appliance combined with take febrifuge has antipyretic effect better
than only taking simple febrifuge.
* Trường Đại Học Thăng Long Hà Nội
Tác giả liên lạc:ĐD Trần Thị Lan Phương, ĐT:0982951089,

112

Email:lanphuong_11@gmail.com

Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012

Nghiên cứu Y học

Key words: Hot therapeutic compress appliance for children with high fever.
đáp ứng đặc hiệu về mặt sinh học, qua trung
ĐẶT VẤN ĐỀ
gian và được kiểm soát bởi hệ thần kinh trung
Sốt là triệu chứng thường gặp ở trẻ em. Đây
ương. Trẻ được xem là có sốt khi nhiệt độ đo ở
là một phản ứng có lợi bảo vệ cơ thể trước sự
hậu môn là từ 38oC trở lên hoặc nhiệt độ đo ở
xâm nhập của các yếu tố lạ như vi rút, vi khuẩn,
hõm nách từ 37,5oC trở lên(2). Trẻ sốt cao khi
các tác nhân vật lý cũng như các yếu tố khác.
nhiệt độ đo ở hõm nách trên 39oC.
Tuy nhiên, bên cạnh ý nghĩa bảo vệ cơ thể, sốt
Cần phân biệt sốt với các nguyên nhân khác
(đặc biệt là khi trẻ sốt cao) có thể có những tác
gây tăng thân nhiệt như nhiễm nóng. Sốt là triệu
động bất lợi, gây rối loạn hoạt động của các cơ
chứng của nhiều bệnh lý liên quan đến nhiễm
quan như tim mạch, hô hấp, thần kinh, rối loạn
khuẩn hoặc không nhiễm khuẩn.
chuyển hoá, gây mất nước và các chất điện
Xác định trẻ sốt
giải… Đặc biệt, sốt cao có thể gây co giật, nguy
hiểm đến tính mạng trẻ và có thể có những di
Để xác định trẻ sốt, cách chính xác nhất là đo
chứng thần kinh sau này.
thân nhiệt cho trẻ bằng nhiệt kế.
Việc nhận biết trẻ sốt, xử trí và chăm sóc trẻ
sốt đúng cách sẽ làm giảm những tác động có
hại của sốt đối với trẻ. Đây là vấn đề tưởng như
đơn giản nhưng trên thực tế, có nhiều bà mẹ
chưa biết đánh giá con mình bị sốt, chưa biết
cách xử trí và chăm sóc khi trẻ sốt và cũng chưa
biết hết được tác hại của sốt đối với trẻ để biết
cách phòng ngừa. Với những trẻ có tiền sử co
giật do sốt hoặc trẻ sốt cao có nguy cơ co giật,
việc hạ nhiệt kịp thời là rất quan trọng.
Hiện nay, Paracetamol là loại thuốc hạ sốt
thường được sử dụng cho trẻ vì tính an toàn và
thuốc này hấp thu nhanh qua đường tiêu hoá.
Tuy nhiên, thuốc đạt được nồng độ đỉnh trong
huyết thanh cũng phải sau 30 – 60 phút. Bên
cạnh việc hạ sốt bằng Paracetamol, cần kết hợp
với phương pháp vật lý chườm ấm để hạ nhiệt
kịp thời, hạn chế nguy cơ giật cho trẻ.

Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát kiến thức nhận biết, xử trí và chăm
sóc trẻ sốt của các bà mẹ có con bị sốt đến khám
và điều trị tại khoa Nhi bệnh viện Việt Nam –
Cu Ba.
Nhận xét tác dụng của phương pháp chườm
ấm để hạ nhiết khi trẻ sốt cao.

TỔNG QUAN
Đại cương
Sốt là tình trạng tăng nhiệt độ của cơ thể do

Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa

Các vị trí đo thân nhiệt
Các vị trí có thể đo thân nhiệt cho trẻ là
miệng, hõm nách, hậu môn và màng nhĩ.

Đo thân nhiệt ở miệng

Trẻ được xác định là sốt khi nhiệt độ đo ở
miệng ≥ 37,8oC. Vị trí đo này có thể cho kết quả
chính xác nhưng dễ gây nguy hiểm cho trẻ vì có
thể trẻ cắn đầu nhiệt kế gây vỡ dẫn đến tình
trạng ngộ độc thuỷ ngân. Do đó, đo thân nhiệt ở
miệng chỉ nên áp dụng cho trẻ trên 5 tuổi và cần
sử dụng loại nhiệt kế có đầu cảm nhận nhiệt
bằng chất liệu mềm. Việc vệ sinh đầu nhiệt kế
trước và sau khi đo là rất cần thiết để tránh lây
nhiễm giữa các bệnh nhi.

Đo thân nhiệt ở hậu môn
Nhiệt độ hậu môn phản ánh nhiệt độ trung
tâm của cơ thể. Trẻ được coi là sốt khi nhiệt độ
hậu môn ≥ 38oC. Khi đo thân nhiệt ở hậu môn,

113

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012

cần chú ý bôi vaselin vào đầu nhiệt kế, nhẹ
nhàng và thận trọng đưa từ từ đầu nhiệt kế vào
hậu môn bé. Động tác này nếu làm mạnh hoặc
vội vàng có thể làm tổn thương niêm mạc hậu
môn hoặc có thể làm thủng trục tràng. Nhiệt kế
dùng để đo đường hậu môn cần được đánh dấu
riêng, tránh dùng lẫn để đo đường miệng. Sau
khi đo cần vệ sinh sạch sẽ nhiệt kế.

Đo thân nhiệt ở nách
Vị trí này thường được các bà mẹ sử dụng
nhiều vì thuận tiện và dễ đo. Nhiệt độ hõm
nách là nhiệt độ ngoại vi của cơ thể, do đó, trẻ
được coi là sốt khi nhiệt độ ở hõm nách >
37,5oC. Khi đo cần lưu ý đặt đầu nhiệt kế vào
giữa hõm nách.
Đo thân nhiệt ở tai (màng nhĩ)
Nhiệt độ màng nhĩ là nhiệt độ trung tâm
cơ thể, giống như nhiệt độ đo ở hậu môn.
Hiện nay trên thị trường có loại nhiệt kế đo ở
tai cho kết quả nhanh và ít gây khó chịu cho
trẻ. Tuy nhiên, số đo có thể dao động nếu cha
mẹ đặt nhiệt kế không đúng vị trí hoặc trẻ < 3
tháng có lỗ tai quá nhỏ.
* Thân nhiệt của trẻ có thể đo ở nhiều vị trí
khác nhau nhưng điều quan trọng là phải biết
đo đúng cách và khi theo dõi thân nhiệt cho trẻ
cần nhất quán về dụng cụ đo và nơi lấy nhiệt.

Cách đo thân nhiệt các bà mẹ hay làm khi
trẻ sốt
Khi trẻ sốt, nhiều bà mẹ đo thân nhiệt cho
con bằng nhiệt kế nhưng cũng không ít các bà
mẹ cảm nhận nhiệt độ của con mình bằng cách
sờ tay lên trán hoặc người con. Cách đo này
không chính xác do chủ quan của từng người.
Hơn nữa, với cách đo này, các mẹ không thể biết
con mình sốt bao nhiêu độ để xử trí kịp thời.

Cơ chế bệnh sinh của sốt
Cơ chế gây sốt
Những chất gây sốt ngoại sinh (các vi sinh
vật và độc tố của chúng) kích thích những tế bào
của vật chủ phóng thích ra những chất gây sốt
nội sinh. Chất gây sốt nội sinh gây sốt bởi sự
khởi đầu những thay đổi chuyển hóa của trung

114

tâm điều nhiệt nằm ở vùng hạ đồi. Sự tổng hợp
Prostaglandine- E2 có vai trò quan trọng sự
nâng lên của điểm ngưỡng nhiệt.
Khi điểm ngưỡng nhiệt của vùng hạ đồi
được nâng lên, sẽ hoạt hóa bộ phận tác động
điều hòa thân nhiệt: Quá trình tạo nhiệt (tăng
trương lực cơ, ớn lạnh) và bảo tồn nhiệt (co
mạch) sẽ chiếm ưu thế hơn quá trình thải
nhiệt (dãn mạch, đổ mồ hôi) cho đến khi nhiệt
độ của máu tưới vùng hạ đồi đạt tới điểm
ngưỡng nhiệt mới.

Các giai đoạn của quá trình sốt
Giai đoạn tăng thân nhiệt (sốt lên)
Trong giai đoạn này, sản nhiệt tăng và thải
nhiệt giảm làm mất cân bằng nhiệt (sinh
nhiệt/thải nhiệt > 1). Cơ thể phản ứng giống như
bị nhiễm lạnh.
Biểu hiện của phản ứng tăng thân nhiệt là
sởn gai ốc, tăng chuyển hóa và tăng chức năng
hô hấp, tuần hoàn, mức hấp thu oxy có thể tăng
gấp 3 hay 4 lần bình thường. Đồng thời có phản
ứng giảm thải nhiệt, gồm co mạch da (da nhợt,
giảm tiết mồ hôi), do đó, bệnh nhân thường tìm
tư thế phù hợp và đòi đắp chăn. Trường hợp
chất gây sốt có tác dụng mạnh, bệnh nhân có thể
thấy rùng mình, ớn lạnh, rét run, khiến thân
nhiệt tăng rất nhanh. Giai đoạn này, việc sử
dụng các thuốc hạ nhiệt hầu như không có tác
dụng, chườm lạnh cũng ít hiệu quả, chỉ làm mất
thêm năng lượng của cơ thể.
Giai đoạn thân nhiệt ổn định ở mức cao (sốt đứng)
Giai đoạn này sản nhiệt không tăng hơn
nhưng thải nhiệt bắt đầu tăng lên (mạch da dãn
rộng) đạt mức cân bằng với tạo nhiệt (sinh
nhiệt/tạo nhiệt = 1) và đều ở mức cao. Tuy nhiên
chưa có mồ hôi. Tùy theo số lượng và hoạt tính
của chất gây sốt, trạng thái và tuổi của người
bệnh mà thân nhiệt chỉ tăng ít: sốt nhẹ (38oC),
hoặc tăng nhiều: sốt vừa (38oC – 39oC), sốt cao
và rất cao (39oC- 41oC). Thân nhiệt trong giai
đọan “sốt đứng” có thể ổn định (gọi là sốt liên
tục) hoặc thay đổi (sốt dao động), thậm chí tạm
về bình thường (sốt cách quãng: Cơn sốt cách

Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012

Nghiên cứu Y học

nhau một hay vài ngày). Tất cả phụ thuộc vào
loại vi khuẩn với chất gây sốt đặc trưng của mỗi
loại.

trong máu giảm, làm giảm sự sinh sản của vi
khuẩn vì vi khuẩn tăng nhu cầu về sắt khi ở
nhiệt độ cao(2).

Biểu hiện của giai đoạn này: Da từ tái trở
nên đỏ, nóng nhưng khô (không mồ hôi); thân
nhiệt ngoại vi tăng do mạch ngoại biên bắt đầu
giãn (giúp thải nhiệt); hô hấp, tuần hoàn và sự
hấp thu oxy đều giảm so với giai đoạn đầu
nhưng vẫn ở mức cao gấp 1,5 hay 2 lần so với
bình thường, thân nhiệt vẫn duy trì ở mức cao.
Lúc này có thể làm tăng thải nhiệt như dùng
thuốc hạ sốt để hạn chế, nếu thân nhiệt đe dọa
lên quá cao.

Các bất lợi của sốt

Giai đoạn thân nhiệt trở về bình thường (sốt lui).
Sự sản nhiệt ở giai đoạn này bị ức chế dần
để trở về bình thường và thải nhiệt tăng rõ (sinh
nhiệt/thải nhiệt < 1). Nhờ vậy thân nhiệt trở về
bình thường.
Biểu hiện: Giai đoạn này cơ thể phản ứng
giống như nhiễm nóng giai đoạn đầu. Có thể
thấy sự hấp thu oxy và mức chuyển hóa trở về
mức tối thiểu, có giãn mạch ngoại vi, vã mồ hôi,
tăng bài tiết nước tiểu (do đó có thể gặp biến
chứng như tụt huyết áp nếu gặp điều kiện thuận
lợi như đứng dậy đột ngột, vận cơ đột ngột;
hoặc có thể giảm thân nhiệt nhanh và nhiễm
lạnh nếu gặp điều kiện thuận lợi, như gió lùa,
tiếp xúc lạnh, tắm lạnh)(3).

Ý nghĩa sinh học của sốt
Sốt là một đáp ứng có lợi cho cơ thể bởi vì
các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng:
Khi sốt, khả năng tiêu diệt vi khuẩn tăng.
Hoạt động đề kháng của cơ thể tăng: Tăng
hoạt động của hệ miễn dịch, tăng hiện tượng
thực bào, tăng hoạt động diệt khuẩn của bạch
cầu đa nhân trung tính, tăng tổng hợp
interferon, tăng tổng hợp kháng thể. Tuy nhiên
ở nhiệt độ cao (từ 40oC trở lên), tác dụng này có
thể không có và đôi khi hiệu quả ngược lại.
Giảm lượng sắt trong huyết thanh (do tăng
hấp thu sắt vào hệ võng nội mô và giảm hấp thu
sắt từ ruột vào máu) đồng thời tăng lượng
protein gắn sắt, feritin. Vì vậy, nồng độ sắt tự do

Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa

Các rối loạn chuyển hoá trong sốt
Chuyển hóa năng lượng
Trong sốt có tăng chuyển hóa và qua đó
tăng tạo năng lượng để chi dùng cho các nhu
cầu tăng sản nhiệt (không qua ATP) và tăng
chức năng một số cơ quan (qua ATP). Tuy nhiên
mức tăng này không lớn. Tăng thân nhiệt lên 1
độ mới làm tăng chuyển hóa lên 3-5%. Cơ chế
chủ yếu tiết kiệm năng lượng trong sốt là giảm
thải nhiệt. Nhờ vậy cơ thể chỉ cần sản nhiệt gấp
2-3 lần trong vòng 10-20 phút là đủ tăng thân
nhiệt lên 39oC hay 40oC, sau đó mức tăng
chuyển hoá chủ yếu để tăng chức năng cơ quan
hơn là để duy trì thân nhiệt cao.
Chuyển hóa Glucid
Glucid là năng lượng chủ yếu sử dụng ở giai
đoạn đầu của sốt (thương số hô hấp = 1,0). Có
thể thấy Glucose huyết tăng lên (đôi khi đến
mức có Glucose niệu), dự trữ Glycogen ở gan
giảm đi và có thể cạn kiệt nếu sốt cao 40oC và
cơn sốt kéo dài trên 4 giờ. Lúc này cơ thể tự tạo
Glucid từ Protid (ở gan) để có thể khai thác năng
lượng từ Lipid. Trường hợp sốt cao và kéo dài
có thể làm tăng acid lactic trong máu, nói lên sự
chuyển hóa yếm khí của Glucid.
Chuyển hóa Lipid
Lipid luôn luôn bị huy động trong sốt, chủ
yếu từ giai đoạn hai, nhất là khi nguồn Glucid
bắt đầu cạn. Có thể thấy nồng độ acid béo và
triglycerid tăng trong máu. Chỉ khi sốt cao kéo
dài, mới có rối loạn chuyển hoá Lipid, đó là tăng
nồng độ cetonic – chủ yếu do thiếu Glucid – góp
phần quan trọng gây nhiễm acid trong một số
cơn sốt.
Chuyển hóa Protid
Tăng tạo kháng thể, bổ thể, bạch hầu, enzym
làm cho sự huy động dự trữ Protid tăng lên
trong sốt là điều không tránh khỏi. Có thể thấy

115

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012

nồng độ urê tăng thêm 20-30% trong nước tiểu ở
một cơn sốt thông thường. Ngoài ra, trong một
số trường hợp sốt Protid còn bị huy động vì độc
tố, và nhất là để trang trải nhu cầu năng lượng
(khi nguồn Glucid cạn kiệt). Đó là các cơ chế
quan trọng gây suy mòn trong một số trường
hợp sốt.
Chuyển hóa muối nước và thăng bằng acid – base

Khi trẻ sốt cao, các mạch ngoại vi thường co
lại làm tay chân trẻ lạnh và nổi vân tím trên da.
Thay đổi chức năng hô hấp
Hệ hô hấp hoàn toàn đảm nhiệm chức năng
tăng thông khí. Tuy nhiên ngoài tác dụng giúp
thải một số nhiệt, tăng thông khí ở nhiệt độ cao
cũng góp phần làm mất một lượng nước đáng
kể (khô miệng và mũi họng, khát).

Chuyển hóa muối nước: Ở giai đoạn đầu
thường ngắn chưa thấy rõ sự thay đổi, có thể
tăng mức lọc cầu thận do tăng lưu lượng tuần
hoàn nhưng từ giai đoạn 2, hormon ADH của
hậu yên và adosteron của thượng thận tăng tiết,
gây giữ nước và giữ natri (qua thận và tuyến mồ
hôi), nhưng có tăng bài tiết K và P. Có thể thấy
da khô, lượng nước tiểu giảm rõ nhưng đậm
đặc, tỷ trọng cao. Tình trạng ưu trương trong cơ
thể (do tích các sản phẩm chuyển hoá) và do
mất nước qua hơi thở làm bệnh nhân khát (đòi
uống). Ở giai đoạn 3 (sốt lui) ống thận và tuyến
mồ hôi được giải phóng khỏi tác dụng của ADH
và aldosteron nên có tăng bài tiết nước tiểu, vã
mồ hôi, thân nhiệt trở về bình thường.

Rối loạn chức năng tiêu hoá

Thay đổi chức năng các cơ quan trong sốt

Do tăng tuần hoàn qua thận và co mạch
ngoại vi nên giai đoạn đầu của sốt có tạm tăng
bài tiết nước tiểu. Ở giai đoạn hai có giảm rõ rệt
lượng nước tiểu và mồ hôi do tác dụng ADH. ở
giai đoạn ba hết tác dụng của ADH nên có tiết
nhiều nước tiểu và mồ hôi.

Thay đổi chức năng thần kinh
Sốt sẽ không gặp các triệu trứng thần kinh
như: nhức đầu, chóng mặt, lú lẫn chỉ thấy cảm
giác buồn ngủ- nói lên sự ức chế của vỏ não.
Tuy nhiên, cùng một thân nhiệt (39oC), người
sốt có các triệu chứng thần kinh nhẹ hơn và dễ
chịu đựng hơn so với khi nhiễm nóng; người
trưởng thành dễ chịu đựng hơn so với trẻ nhỏ
tuổi (ví dụ, người lớn không co giật khi sốt 40oC
hay 41oC, nhưng trẻ 2 tuổi có thể co giật ngay từ
39,5oC hoặc thấp hơn).
Thay đổi chức năng tuần hoàn
Hệ tim mạch hoàn toàn đáp ứng yêu cầu
trong sốt. Sốt 40oC hay 41oC chỉ làm tăng thêm
24 hay 30 nhịp tim.Trung bình tăng 1 độ trong
sốt là nhịp tim tăng thêm 8-10 nhịp/phút. Huyếp
áp không tăng. Tuy nhiên, ở giai đoạn ba, khi cơ
thể đào thải nhiều nước có thể biến chứng làm
tụt huyết áp nếu đứng dậy đột ngột.

116

Hệ tiêu hóa giảm chức năng toàn bộ nặng
hay nhẹ tùy mức tăng thân nhiệt trong sốt. Các
dấu hiệu của rối loạn tiêu hóa thường đến sớm
như:
+ Giảm tiết mọi dịch (nước bọt, dịch dạ dày,
tụy, mật, ruột) gây đắng miệng, lưỡi trắng, chán
ăn, khó tiêu.
+ Giảm co bóp và giảm nhu động khiến lâu
tiêu, đầy bụng, táo bón.
+ Giảm hấp thu. Hầu hết, khi hết sốt, chức
năng tiêu hóa mau chóng hồi phục, tăng cảm
giác ngon miệng.
Thay đổi tiết niệu

Thay đổi chức năng nội tiết
Nhiều tuyến nội tiết có vai trò quan trọng
trong cơ chế bệnh sinh của sốt, giúp thực hiện ý
nghĩa đề kháng và bảo vệ của sốt trước các tác
nhân có hại cho cơ thể như: Thyroxin, adrenalin,
noradrenalin làm tăng chuyển hóa. Aldosteron
và ADH làm tăng giữ nước và muối(3).

Xử trí sốt
Thuốc Paracetamol
Khi trẻ sốt > 38,5oC (nhiệt độ hõm nách), cần
cho trẻ uống thuốc hạ sốt.
Paracetamol là thuốc giảm đau hạ sốt, được
dùng phổ biến nhiều nhất vì được cho là an
toàn. Thuốc được hấp thu nhanh chóng qua

Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa

nguon tai.lieu . vn