Xem mẫu
- Yêu Nữ
Hắn đứng chân trần trên cát, dưới ánh nắng nóng bức và mùi tanh nồng
của hải cảng, dưới tấm bạt mỏng của một quầy cà phê nhỏ. Chiếc quần
màu hung cũ mèm của hắn ngắn tới chỗ mắt cá chân, hai bàn chân hắn
dài chai sạm và nứt nẻ, những ngón tay mềm mại trước đây giờ đã thô
ráp như đá.
Chiếc sơ-mi hắn mặc có màu xanh nhạt hài hoà với sắc trời bạc
phếch trong nắng hè chói chang. Hắn đưa cánh tay phải ra một cách
ương ngạnh và khó chụ, như muốn yêu cầu khách tới thăm các viện bảo
tàng phải bố thí mới được chiêm ngưỡng. Những tiếng lắp bắp ngô nghê
bật ra từ cái miệng mở to, để lộ hai hàm răng trắng loá của hắn.
Gã câm điếc à?
Gã không điếc đâu.
Jean Demetriadis, chủ nhân của các xưởng sản xuất xà phòng lớn trên
đảo, lợi dụng lúc hắn đang lơ đãng nhìn về phía biển, thả một đồng
drachme (tiền Hi Lạp cổ) xuống nền quán trơn nhẵn. Tiếng leng keng rất
- khẽ và gần như tắt ngay do lớp cát mịn vương trên nền quán vẫn chui
vào đôi tai của gã hành khất. Hắn nhặt vội đồng bạc kim loại trắng rồi
lập tức đứng lại như cũ, trầm tư và buồn rầu, như con hải âu đậu trên bến
cảng.
Gã không điếc đâu - Jean Demetriadis lập lại rồi đặt xuống trước mặt
mình một ly nước bã nhớt và đen đã uống gần một nửa. Gã hành khất
Panegyotis này đã bị câm lúc mười tám tuổi vì đã gặp lũ ma Nerayder.
Một nụ cười mỉm hiện trên đôi môi Panegyotis khi hắn nghe nhắc
đến tên mình. Hắn tỏ ra không hiểu ý nghĩa lời nói của người kia, người
mà hắn lờ mờ nhận là người bảo trợ của mình, nhưng hắn chỉ cảm nhận
được qua giọng nói, chứ không phải ngôn từ. Hài lòng vì biết người ta
đang nói về mình hắn càng hy vọng được thêm một lần bố thí nữa nên
lặng lẽ chìa tay ra phía trước, giống như vẻ sợ sệt của con chó khi nó khẽ
chạm chân vào gối ông chủ để nhắc ông ta đừng quên cho nó ăn.
Hắn là con trai của một trong những gia đình nông dân khá giả nhất
làng tôi - Jean Demetriadis nói tiếp - họ là những người giàu thực sự.
Cha mẹ hắn có những cánh đồng mênh mông, một ngôi nhà lỗng lẫy
bằng đá khối, một vườn cây ăn trái xum xuê, một vườn rau xanh tốt, một
- chiếc đồng hồ báo thức đặt trong bếp, một ngọn đèn cháy sáng suốt ngày
đêm trước bức tường treo đầy ảnh thánh, nghĩa là họ có đủ thứ cần thiết.
Người ta có thể nói về Panegyotis là, trước mặt hắn lúc nào cũng có ổ
bánh mì nóng giòn cho đến trọn đời. Đối với hắn con đường đã mở sẵn ở
phía trước dù là con đường Hi Lạp bụi cát, gập gềnh sỏi đá, nhưng vẫn
có tiếng chim hót véo von. Hắn đã hứa hôn với con gái của vị bác sĩ thú
y, một cô bé ngoan làm việc trong xưởng của tôi; vì hắn rất đẹp trai nên
có hàng đống nhân tình ở cái xứ sở đầy những cô gái thèm khát yêu
đương này; người ta còn đồn rằng hắn đã vụng trộm với vợ của ông linh
mục; mà nếu như điều đó có thật thì ông linh mục cũng chẳng trách hắn
vì ông vốn không mấy yêu phụ nữ và cũng chẳng quan tâm gì đến vợ
mình, vả lại cô nàng luôn tỏ ra sẵn sàng với bất kỳ ai. Các vị thử hình
dung hạnh phúc của thằng Panegyotis xem: nào là tình yêu của những
người đẹp, sự ghen tỵ của bọn đàn ông và đôi khi cả sự thèm khát của họ
nữa, nào là chiếc đồng hồ bạc và hàng ngày lại thay một chiếc sơ mi
trắng tinh, nào là đĩa cơm chiên thịt vào bữa trưa và nước màu xanh lam
ngát hương xức trước bữa ăn tối. Nhưng hạnh phúc vốn thật mong
manh: khi nó không bị con người hay hoàn cảnh phá huỷ thì lại bị những
- bóng ma đe doạ. Có thể quý vị còn chưa biết hòn đảo của chúng tôi vốn
lắm chuyện bí ẩn. Ma ở đây không giống với lũ ma quỷ phương Bắc của
quý vị, nghĩa là chỉ xuất hiện lúc nửa đêm và ban ngày sống ở nghĩa địa
đâu. Bọn ma ở đây không thèm khoát tấm choàng trắng và chúng thì có
da thịt hẳn hoi. Nhưng chúng nguy hiểm hơn cả những hồn ma người
chết, những người ít ra đã từng biết sống, biết đau khổ là thế nào. Những
con ma Nereyder ở nơi này vừa trong trắng lại vừa xấu xa, khi thì bảo vệ
lúc thì phá huỷ con người. Những vị thần đã chết từ lâu và các bảo tàng
chỉ còn giữ lại những cái xác bằng cẩm thạch của họ. Rồi, một buổi sáng
tháng Bảy, hai con cừu của cha Panagyotis giở chứng quay cuồng. Nạn
dịch lan rất nhanh trong đàn thú và mảnh sân đất nện trước nhà chẳng
bao lâu đã biến thành nơi cách ly bầy gia súc bị bệnh. Ngay giữa trưa
nóng bỏng Panegyotis một mình đi tìm vị bác sĩ thú y ở bên kia sườn núi
Xanh Êli, trong một làng nhỏ cạnh bờ biển. Đến chiều tối hắn vẫn chưa
về. Cha Panegyotis rất lo cho hắn; người ta đã sục sạo khắp làng và các
thung lũng lân cận, nhưng đều vô ích; suốt đêm đám phụ nữ cầu nguyện
tại ngôi nhà thờ trong làng, nơi chỉ là một kho chứa cỏ được thắp sáng
bằng vài chục ngọn nến. Tối hôm sau, vào giờ nghỉ, cánh đàn ông ngồi
- bên bàn ở sân làng trước một ly cà phê, một cốc nước và một thìa mứt,
thì thấy hắn, một gã Panegyotis khác lạ, thay đổi tới mức như vừa từ cõi
chết trở về. Đôi mắt hắn lấp lánh như chỉ còn tròng trắng, hai tháng sốt
rét cũng không thể làm cho hắn vàng khè như thế. Một nụ cười làm méo
xệch cặp môi của hắn khiến cho lời nói không thoát ra được. Tuy nhiên,
hắn vẫn chưa bị câm hoàn toàn. Những tiếng ngắc ngứ bật ra khỏi miệng
hắn như tiếng của một nguồn nước sắp tắt.
Ma Nereyder... Các cô... Nereyder... đẹp lắm... Trần truồng... Người
tóc vàng... Tóc vàng.
Đó là những lời duy nhất mà người ta có thể nghe hắn nói. Nhiều lần,
trong những ngày tiếp theo, người ta thấy hắn vẫn còn lẩm bẩm một
mình: "Tóc vàng... Người tóc vàng..." cứ như hắn đang vuốt ve một tấm
lụa. Rồi sau đó lịm tắt. Mắt hắn không còn lấp lánh nữa, cái nhìn trở nên
xa vắng và bất động một cách lạ lùng; hắn chiêm ngưỡng mặt trời không
chớp mắt; có lẽ hắn đã tìm thấy khoái cảm khi quan sát vầng thái dương
vàng chói ấy. Tôi có mặt ở làng trong mấy tuần đầu tiên phát bệnh của
hắn: không sốt, cũng chẳng có một triệu chứng gì là cảm nắng hay lên
cơn. Cha mẹ hắn đưa hắn đến một tu viện nổi tiếng ở gần đấy để trừ tà;
- hắn ngoan ngoãn, để mặc người ta muốn làm gì thì làm, nhưng từ lễ tế ở
nhà thờ, thuật xông khói hương lẫn những ma thuật của các mụ phù thuỷ
trong làng đều không thể tống ra khỏi hắn những nữ thần điên rồ xinh
đẹp. Rồi cuộc sống hắn cứ tuần tự trôi đi; hàng ngày hắn vẫn kiên nhẫn
tới nơi các nơi ma nữ hiện hình: ở đó có một nguồn nước mà đôi khi
những người đánh cá ghé lại lấy nước ngọt, một thung lũng sâu và một
nương cây vả, nơi bắt đầu một con đường chạy xuống biển. Người ta
nghĩ rằng sẽ thấy trong lớp cỏ gầy những dấu chân phụ nữ, những chỗ
cỏ rạp xuống do thân người đè lên. Họ hình dung ra cảnh cậu con trai
làng bị tiếng cười nói của phụ nữ đánh động, như người đi săn chợt nghe
thấy tiếng vỗ cánh; những cô gái xinh đẹp nâng cánh tay ngà lấm tấm
lớp lông tơ vàng ươm chắn ngang ánh mặt trời; bóng lá thấp thoáng trên
khuôn ngực trần, cặp vú trắng với đôi núm đỏ hồng chứ không phải màu
xanh tím; rồi Panegyotis hôn ngấu nghiến vào tóc họ, hắn có cảm tưởng
như đang nhấm nháp mật ong và rạo rực ham muốn khoái lạc. Loài ma
Nereyder đã dâng tặng chàng thanh niên cuồng si một thế giới đàn bà
khác hẳn với những cô gái trên đảo, và khác biệt với những con vật cái.
Các nường đã cho hắn cái mơn man mới lạ, sự mệt mỏi diệu kỳ và lấp
- lánh hạnh phúc. Người ta đồn rằng hắn vẫn không ngừng gặp các nường
vào những trưa nóng nực, lúc những con quỷ đẹp mê hồn ấy lang thang
tìm tình yêu: và dường như hắn đã mê tới mức quên cả mặt vị hôn thê,
mà mỗi lần gặp nàng hắn đều quay mặt như tránh một con khỉ đột; hắn
khạc nhổ khi vợ ông linh mục đi qua khiến bà phải khóc suốt vài tháng
mới bình tâm lại. Lũ ma ấy đã làm hắn mụ mẫm đi rồi lôi hắn vào vòng
xoáy trò chơi của chúng. Rồi hắn không làm việc nữa; hắn cũng không
bận tâm đến thời gian; hắn trở thành kẻ hành khất để có thể ăn bất cứ khi
nào hắn đói. Hắn lang thang trên đảo, cố tránh những con đường lớn;
hắn chui vào trong nương rẫy và rừng thông ẩm thấp; Người ta bảo rằng
một bông hoa nhài cài trên vách đá khô hoặc một viên sỏi trắng đặt dưới
gốc cây trắc bá đều là mật hiệu mà hắn có thể giải mã ra thời gian và địa
điểm của lần hẹn hò sắp tới với lũ ma xinh đẹp. Những người nông dân
cũng kháo nhau rằng hắn không hề già đi; họ khó lòng đoán được hắn
đang ở tuổi mười tám hay bốn mươi. Nhưng đầu gối hắn đã run, và hồn
phách hắn đã ra đi vĩnh viễn không bao giờ trở lại và cả tiếng nói nữa,
cũng sẽ không bao giờ xuất hiện trên đôi môi hắn.
Nhưng mà này, Jean, vợ Demetriadis nói một cách bực dọc, ông có
- cho rằng Panegyotis đã thực sự thấy con ma Nereyder không?
Jean Demetriadis không đáp, ông ta đang bận nhổm người trên ghế
để đáp lại lời chào kiêu hãnh của ba cô gái nước ngoài đang đi qua. Ba
cô gái Mỹ mặc y phục trắng nhún nhẩy đi trên bến cảng ngập nắng, theo
sau là một ông phu khuân vác già gập lưng dưới sức nặng của chiếc bao
tải thực phẩm mà các nàng vừa mua ở chợ; giống như những cô bé vừa
tan trường, họ nắm tay nhau bước đi. Một cô trong số họ để đầu trần, có
mấy cành sim nhỏ gài lên mái tóc hung, còn cô thứ hai đội chiếc mũ rơm
rộng vành kiểu Mêhicô, và cô thứ ba đội một chiếc khăn bông, đeo kính
râm to che gần kín mặt như một chiếc mặt nạ. Ba cô gái trẻ này muốn
định cư ở đảo, họ đã mua một ngôi nhà cách xa đường cái: ban đêm họ
dùng đinh ba bắt cá ngay trên con thuyền riêng của họ và vào mùa thu
họ đi săn chim cút. Họ không giao du với ai và tự lo liệu lấy cuộc sống;
họ sống cách biệt hẳn để tránh những lời dèm pha mà có lẽ họ còn khó
chịu hơn cả những điều vu khống. Tôi thử quan sát xem Panegyotis có
ném cái nhìn theo mấy cô gái không, nhưng vô ích; đôi mắt hắn lơ đãng,
trống vắng và không một chút loé sáng: rõ ràng hắn không thừa nhận
những con ma Nereyder của hắn mặc quần áo đàn bà. Đột nhiên, hắn cúi
- xuống nhanh nhẹn nhặt một đồng drachme mà chúng tôi vừa ném
xuống, và tôi nhận thấy có một vật duy nhất trên lớp lông thô của chiếc
áo thuỷ thủ mà hắn khoác hờ hững trên vai, một bằng chứng không thể
chối cãi được: đó là một sợi tơ, một sợi tơ mảnh của mái tóc vàng óng
đàn bà.
nguon tai.lieu . vn