Xem mẫu
- Văn học tư duy về cái khả nhiên
Bản chất nhận thức của văn học đã được biết đến từ lâu. Hễ nói
đến văn học là người ta không quên nói tới các chức năng nhận
thức, giáo dục, thẩm mĩ.Lí luận văn học ngày nay đã đặt đúng vị
trí thẩm mĩ lên hàng đầu, song bản chất nhận thức của văn học
vẫn là điều khẳng định. Vấn đề là cần xác định bản chất ấy như
thế nào cho phù hợp với đặc trưng của văn học.
Giải thích nhận thức văn học trực tiếp bằng lí thuyết nhận thức
làm nảy sinh quan niệm cho rằng hình tượng văn học với tư
cách sản phẩm nhận thức nghệ thuật là sự thống nhất sinh động
giữa cái chung với cái riêng, cái cá biệt. Trong điều kiện tối ưu,
- nhà văn sáng tạo được các nhân vật điển hình, ở đó cái chung rất
nổi bật, khái quát, còn cái riêng độc đáo, cá biệt, không lặp lại.
Quan niệm ấy tuy có cơ sở nhưng vẫn còn không ít nhược điểm.
Nó không cho thấy mối liên quan gắn bó giữa điển hình với lí
tưởng và tình cảm, cảm hứng của nhà văn. Nó cũng không giải
thích được sự đa dạng của văn học. Bởi vì, nếu tiêu chí nhận
thức văn học là cái điển hình thì đối với mỗi loại người trong xã
hội chỉ cần sáng tạo được một điển hình là đủ, không nhất thiết
cần có nhiều điển hình. Càng nhiều điển hình thì tính điển hình
của chúng sẽ giảm sút. Đó là chưa kể có khi cái điển hình được
hiểu là cái tất yếu đã được tổng kết, biến văn học thành sáng tác
minh hoạ cho lí luận. Gần đây có một số nhà lí luận muốn khắc
phục các nhược điểm trên đã đề xướng lí thuyết về phản ánh
thẩm mĩ, trong đó sự phản ánh văn học gắn liền với lí tưởng
thẩm mĩ và giá trị luận. Nhưng lí thuyết này lại chưa giải thích
được cơ chế nội tại của tư duy văn học, tức là mối quan hệ giữa
nhận thức và lí tưởng, tưởng tượng cho nên quan niệm này cũng
chưa đi xa hơn cách hiểu truyền thống bao nhiêu.
- Nghiên cứu bản chất nhận thức của văn học, theo chúng tôi, nhất
thiết đòi hỏi phải chỉ ra đối tượng đặc thù của văn học, phải giải
thích cái lô gích vì sao nhận thức trong văn học lại cho phép nhà
văn hư cấu và gắn liền với lí tưởng thẩm mĩ về cuộc sống cũng
như tình cảm chủ quan của chủ thể nhận thức và sáng tạo, những
điều mà nhận thức khoa học nói chung không chấp nhận.
Câu trả lời thiết nghĩ, có thể tìm thấy ở gợi ý ban đầu của
Aristote từ trong sách Thi pháp học (Nghệ thuật thơ ca) của ông
viết cách đây 2300 năm trước công nguyên. Nói về nhiệm vụ
của nhà thơ ông viết: “Nhiệm vụ của nhà thơ không phải ở chỗ
nói về các sự việc đã thực sự xảy ra, mà là nói về cái có thể xảy
ra theo quy luật xác suất hay quy luật tất nhiên… Nhà sử học
nói về những điều đã xảy ra thực sự, còn nhà thơ thì nói về
những gì có thể xảy ra. Vậy nên thơ ca có ý vị triết học và
nghiêm chỉnh hơn lịch sử, vì thơ ca nói về cái chung mà lịch sử
lại nói về cái cá biệt” (1). Aristote đã nêu ra sự phân biệt rất
quan trọng: lịch sử – lĩnh vực của cái đã xảy ra, còn thơ ca (văn
học) – lĩnh vực của cái có thể xảy ra theo quy luật xác suất hay
- tất yếu. Sự phân biệt này cho ta thấy hai điểm. Một là không nên
hiểu tư tưởng văn học của Aristote một cách giản đơn thô thiển
chỉ là sự mô phỏng – bắt chước – sao chép cuộc sống đã có như
lâu nay nhiều người vẫn hiểu. Điều này nhà triết học Nga A. F.
Losev đã phân tích rõ trong công trình của ông về triết học cổ Hi
Lạp(2). Hai là Aristote cho thấy lĩnh vực quan tâm của văn học
không phải là hiện thực đã và đang tồn tại, mà là lĩnh vực của
những cái có thể xảy ra. Theo chúng tôi, đó là một tư tưởng rất
sâu sắc, có thể lấy làm điểm xuất phát để tìm hiểu đặc trưng
nhận thức của văn học.
Triết học duy vật biện chứng từ lâu cho thấy, hiện thực và khả
năng là một cặp phạm trù của sự thống nhất đối lập, chuyển hoá
cho nhau. Từ điển triết học của Rodental chủ biên, viết: “Hiện
thực là bất cứ khách thể nào (sự vật, trạng thái, tình huống) đã
tồn tại với tính cách là kết quả của một khả năng nào đó”. “Khả
năng biểu hiện khuynh hướng phát triển khách quan nằm trong
những hiện tượng đang tồn tại”(3). Khả năng tiềm tàng trong
hiện thực (tiềm lực), và trong những điều kiện nhất định nó có
- thể chuyển hoá thành hiện thực, song không thể gọi khả năng là
hiện thực, bởi vì cái gì là khả năng thì không phải là hiện thực
và ngược lại cũng vậy, cái gì đã là hiện thực thì không còn là
khả năng. Như thế, có thể nói, theo Aristote thì văn học không
phản ánh hiện thực, mà chỉ là sự tư duy về những khả năng của
hiện thực, hoặc nói theo lối đã quen, văn học chỉ phản ánh các
khả năng của hiện thực.
Kiến giải của Aristote buộc ta phải suy nghĩ tới phạm trù khả
năng trong triết học, và mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật với
cái khả năng. Mặc dù mọi lĩnh vực kiến thức của con người đều
có phần khám phá cái khả năng, song muốn hiểu bản chất của
văn học không thể không nghiên cứu nội dung, đặc điểm của
phạm trù quan trọng này. Điều đáng tiếc là phạm trù này cho
đến nay trong phạm vi triết học thường chưa được phát triển
đúng mức phải có. Trong khi nhấn mạnh tới sự thống nhất mâu
thuẫn của chúng, người ta phân biệt “khả năng thực tế” với “khả
năng trừu tượng” và quan tâm trước hết đến khả năng thực tế,
còn khả năng trừu tượng (khả năng hình thức), những khả năng
- không có điều kiện chuyển hoá thành hiện thực trong thực tế,
những khả năng đã mất thì ít có ý nghĩa và dĩ nhiên là không
được quan tâm. Như thế, văn học, nhất là văn học hiện thực chủ
nghĩa, theo lí thuyết nói trên, chỉ quan tâm đến hiện thực với các
khả năng thực tế mà thôi. Thực ra điều đó không hoàn toàn
đúng. Đối với nhu cầu sáng tạo và đời sống tinh thần của con
người thì cái khả năng là quan trọng nhất, bất kì là khả năng
nào. Con người khác con vật ở chỗ biết sáng tạo ra của cải vật
chất, biến đổi tự nhiên và biến đổi cả bản thân mình, do đó
ngoài thực tại ra, mọi cái khả năng đối với nó đều có ý nghĩa
sống còn, bởi có khả năng là có viễn cảnh, có đổi thay, có chân
trời. Mọi khả năng của hiện thực, dù là khả năng trừu tượng,
thậm chí khả năng khó tin như người lấy tiên, người lấy ma,
người chết sống lại… đều có tác dụng mở rộng không gian nhận
thức thế giới, nhận thức hiện tại. Nhà triết học Đức M.
Heidegger cho rằng thơ sáng tạo tồn tại, thơ nói về cái “vô”.
“Vô” không phải là không có gì mà là vô hạn. Vô hạn là trạng
thái tự do vượt lên cái hữu hạn, mà trạng thái ấy chỉ có thể có
trong thế giới tinh thần. Vì thế theo Haidegger thơ không phải là
- đồ trang sức bề ngoài, không phải cảm xúc, tình cảm nhất thời,
không phải thứ tiêu khiển, mà là một nền tảng được hun đúc của
lịch sử. Ông nói con người “tràn đầy thành quả lao động, nhưng
vẫn ngự trị trên mặt đất một cách thi vị” (4). Cái thi vị ở đây là
sự tồn tại hướng tới cái vô hạn. Hiểu như vậy, cái khả năng đáp
ứng được nhu cầu vươn lên cái vô hạn của con người, cho nên
trở thành đối tượng của văn học.
nó
Thật vậy, nếu hiện thực là sự thực hiện của một trong những khả
năng của hiện thực, thì nó luôn luôn là hữu hạn, còn khả năng là
vô hạn. Hiện thực gồm tất cả những cái đang có trong hiện tại
hữu hạn. Trái lại khả năng là vô hạn. Bởi cái hiện thực có thể có
khả năng là không hiện thực. Cái khả năng cũng có thể là cái
không có khả năng. Cái tất yếu cũng có thể không tác động mà
bị chi phối bởi cái ngẫu nhiên. Cái hiện thực đã thành quá khứ
cũng hàm chứa nhiều khả năng. Đằng sau mỗi cái dĩ nhiên đã
thành quá khứ có vô vàn cái khả năng đã không còn cơ hội trở
thành hiện thực. Nhưng những khả năng đã mất, không còn hiệu
lực thực tế ấy vẫn còn ý nghĩa như là những bài học cho tương
lai. Con người vẫn thường nhớ và hối tiếc những việc đã qua.
- Ấy là hối tiếc những khả năng tốt đẹp đã bị phí hoài, những cơ
hội nghìn năm đã ra đi không trở lại. Nhà lí luận văn học Nga
Iu. Lotman khi bàn về lịch sử đã nói rất chí lí: “Lịch sử chỉ là
một trong vô vàn con đường có thể đi. Mỗi con đường đã đi
đồng thời là một sự đánh mất các con đường khác” (5). Những
khả năng đã mất không phải là vô nghĩa đối với cuộc sống con
người, chúng vẫn tiếp tục là đề tài bàn luận, suy nghĩ để lựa
chọn con đường tối ưu cho cuộc đời. Và bên trong mỗi cái hiện
thực đang tồn tại lại có vô vàn khả năng có thể xảy ra mà không
phải bao giờ con người cũng nắm bắt được hết. Đồng thời cùng
với một khả năng có thể xảy ra lại có vô vàn khả năng đa dạng,
đa chiều có thể xảy ra tiếp sau đó. Các khả năng trừu tượng, phi
lí cũng không phải là vô nghĩa. Chúng mở rộng tư duy để hiểu
những khả năng, giống như cái ảo giúp hiểu thêm cái thực, cái
âm giúp hiểu thêm cái dương! Khả năng luôn luôn phong phú
hơn hiện thực và chính nó mở rộng không gian cho tư duy, cho
lựa chọn và cho phát triển. Trong triết học chúng ta thường đánh
giá rất cao cái tất yếu. Lịch sử chỉ phát triển theo cái tất yếu và
theo triết học mác xít, con người chỉ có được tự do khi nhận
- thức được cái tất yếu ấy. Nhưng khoa học tự nhiên hiện đại đã
cho thấy một bức tranh khác. Theo nhà vật lí Prigoring “Các quá
trình được dự báo vận động theo các quy luật đã tính trước. Rồi
sau đó xuất hiện cái điểm, khi sự vận động đạt đến chỗ không
thể dự báo, và đó là chỗ giao nhau của ít nhất là hai, mà thực tế
là của vô vàn con đường. Nếu trước đó chúng ta cho rằng có thể
tính được xác suất gặp một đường nào đó, nhưng chính ở đó,
theo Prigoring, tính xác suất không tác động, mà lại do cái ngẫu
nhiên tác động”(6). Nhưng ở đâu có cái ngẫu nhiên tác động thì
ở đó có không gian của những cái khả năng mà con người không
thể lường trước được.
Khả năng là khuynh hướng, xu thế chuyển biến, vận động, phát
triển của hiện thực, là viễn cảnh của tồn tại con người. Con
người sẽ ra sao, cuộc sống sẽ ra sao, xã hội sẽ về đâu,… những
câu hỏi lớn về hiện tại và tương lai đặt ra từ thời xa xưa mà tôn
giáo, triết học và nghệ thuật đều có sứ mệnh trả lời cho mỗi
người. Các khả năng, do vậy làm thành đối tượng nhận thức cao
- nhất của con người. Nhận thức khoa học lịch sử xét cho cùng
cũng là nhằm dự báo khả năng cho tương lai.
Nghệ thuật là sáng tạo những thế giới tưởng tượng không có
thực, nhằm thể hiện quan niệm nhà văn về cuộc sống, thể hiện
những ý nghĩa của hiện thực được nhà văn phát hiện. Tính chất
của cái khả nhiên cho phép nghệ thuật có thể tưởng tượng, hư
cấu, tạo ra những những thế giới chưa từng có. Các hình tượng
văn học kiệt xuất xưa nay, Hămlet, Đôn Kihôtê, Gia Cát Lượng,
Quan Vũ, A Q, Kiều, Chí Phèo, Lão Hạc, Xuân Tóc Đỏ… đều
thế. Hiện thực với tư cách là sự thực hiện của những khả năng,
nó là sự thật, là vật chất, nó có tính ngoan cố không cho phép ai
có thể bóp méo, cắt rời, nhào nặn để sáng tạo nên bất cứ hình
tượng nào. Bởi như thế là bóp méo, xuyên tạc thực tế. Khi người
ta nói nhào nặn chất liệu của hiện thực để sáng tạo nghệ thuật,
thì thực chất là nói về việc nhào nặn chất liệu có tính khả năng,
chứ không phải nhào nặn hiện thực như nó vốn có. Chỉ có tính
khả năng là cái có tính mềm dẻo, tính co dãn cho phép có thể
nhào nặn để làm nên sản phẩm mới bằng hư cấu, tưởng tượng.
- Cái khả năng còn cho phép người ta được tự do lựa chọn những
yếu tố phù hợp với lí tưởng và thị hiếu thẩm mĩ nhằm thể hiện
quan niệm sống của mình. Khả năng khi đang là những khuynh
hướng tiềm tàng trong hiện thực, nếu không có con người biết
phát hiện ra thì nó vẫn chìm khuất trong thực tế. Khả năng là
phương diện dành riêng cho con người tự do phát hiện và gắn
liền với tính tích cực tư duy, sáng tạo của nó. Ở đây cái khả
năng cho phép thống nhất các hiện tượng đời sống với lí tưởng
và sáng tạo, thống nhất cái khả nhiên với cái thẩm mĩ. Do thế cái
khả năng mới là đối tượng đặc thù của nhận thức văn học.
Cái khả năng với tính chất của nó có thể tác động đến tư tưởng,
tình cảm con người rất mãnh liệt. Chẳng hạn khả năng trừng
phạt là một nhân tố ngăn ngừa tội phạm mạnh hơn là sự trừng
phạt tàn khốc thực tế. Khả năng về sự khổ cực, nghèo túng, đói
kém, bệnh tật, khả năng bị khinh bỉ, chê cười thường làm nảy
sinh niềm sợ hãi nhiều hơn là các trạng thái đó trong thực tế. Sợ
- hãi là chức năng của cái khả năng đau đớn hay mất mát cũng
giống như mong muốn là chức năng của các khả năng hưởng
thụ. Nhà lí luận văn học Nga M. Epstein trong Triết học về cái
khả năng nhận xét: “Nói chung, nếu chúng ta nhớ lại lịch sử, thì
cái khả năng cũng có ảnh hưởng đến hành vi và tình cảm con
người không ít hơn cái hiện thực. Cái tiềm năng có sức tác động
mạnh mẽ khi nó vẫn là tiềm năng, có thể nói là tác động đến con
người một cách “phi hiện thực”. Niềm tin và sự nghi ngờ, niềm
khát khao và nỗi sợ hãi, hi vọng và thất vọng, sự dũng cảm và sự
hèn nhát, sự thánh thiện và sự điên cuồng và những trạng thái
cảm xúc hay đạo đức thường được gợi lên không phải bằng tình
trạng thực tế của sự vật mà là bằng cái khả năng của chúng. Đó
là khả năng Chúa còn hay là không, khả năng tôi được cứu hay
là bị hại.”(7) Cả dân tộc Việt đi vào hai cuộc kháng chiến không
cân sức bằng niềm tin vào khả năng chiến thắng chứ không phải
chỉ bằng hiện thực khổ đau. Văn học phản ánh sâu sắc cái khả
năng chính là do cội nguồn tác động lớn lao của cái khả năng
đối với đời sống con người. Dù kết thúc có hậu hay kết thúc bi
- kịch văn học đều đặt con người đứng trước sự thể nghiệm, suy
tư và lựa chọn về khả năng.
Tất nhiên, văn học không giản đơn chỉ là phản ánh các khả năng
của hiện thực. Làm như thế văn học sẽ chẳng khác gì chính trị,
tương lai học, xã hội học… Mọi người đều biết, tư duy chẳng
phải gì khác, mà là hành động xuyên qua hiện thực để tiến đến
các khả năng bị che giấu trong đó. Như thế, chỉ nói đến khả
năng là chưa đủ. Điểm đặc thù của văn học còn là sáng tạo
những cái khả nhiên của đời sống. “Cái khả năng” mà Aristote
nói đến trong bản dịch tiếng Việt nêu trên, theo Chu Quang
Tiềm, có thể dịch là “cái khả nhiên”, nghĩa là “cái có thể như
thế”. Hiện thực tồn tại trong dạng cái dĩ nhiên (cái đã có như
thế) và “cái tất nhiên” (cái bắt buộc phải như thế). Chỉ có trong
văn học cái khả năng đã chuyển hoá thành cái khả nhiên do nhà
văn sáng tạo dưới dạng hình tượng nghệ thuật. Mọi tác phẩm
văn học hư cấu – mọi hình tượng nghệ thuật có giá trị của nhân
loại xưa nay thực chất đều là những cái khả nhiên như vậy. Một
hình tượng người nông dân (như chị Dậu, anh Dậu trong Tắt
- đèn của Ngô Tất Tố) hay hình tượng Bác Hồ (chẳng hạn trong
thơ Tố Hữu, Minh Huệ, Chế Lan Viên…) đều là những cái khả
nhiên trong cảm thụ của tác giả. Không có cái khả nhiên duy
nhất. Hình tượng văn học với tư cách là cái khả nhiên còn giàu
tính khả năng hơn nữa, bởi ở đây còn có tính khả năng của sức
tưởng tượng mang tính cá thể của nhà văn.
Vậy cái khả nhiên văn học có giá trị nhận thức như thế nào? Về
mặt này văn học có đặc điểm nhận thức gần gủi với triết học.
Nhà triết học Bertrand Russell trong chương “Giá trị của triết
học” trong sách Những vấn đề triết học (1912) đã viết: “Mặc dù
triết học không thể nói với ta một cách chắc chắn câu trả lời
chân lí đối với các mối nghi ngờ do triết học gợi lên thì nó cũng
có thể đề xuất với ta nhiều khả năng, những khả năng ấy mở
rộng tư tưởng của ta và giải phóng ta khỏi sự chuyên chế của cái
thói quen. Bằng cách đó, trong khi giảm bớt tình cảm tin cậy của
ta đối với trạng thái sự vật như chúng đang có, triết học tăng
cường mạnh mẽ tri thức của ta về những trạng thái mà chúng có
thể xuất hiện…, nó đánh thức sự kinh ngạc của ta bằng cách cho
- thấy những sự vật quen thuộc qua các bình diện khác lạ. Cần
nghiên cứu triết học không phải nhằm để đưa ra các câu trả lời
xác định đối với các câu hỏi, bởi vì thông thường, không có câu
trả lời xác định nào có thể được coi là chân lí, mà là vì bản thân
các câu hỏi, bởi các câu hỏi đó mở rộng quan niệm của ta về
những gì có thể có, chúng làm phong phú sức tưởng tượng trí
tuệ của ta.”(8) Có thể nghĩ rằng, kiến giải của nhà triết học về
triết học cũng hoàn toàn phù hợp với bản chất của văn học.
Chúng ta không thể nói một cách chắc chắn hoàn toàn những gì
văn học biểu hiện là chân lí, bởi đó là nhận thức của nhà văn
trong những hoàn cảnh nhất định dưới hình thức hư cấu với rất
nhiều ngẫu nhiên. Nhưng ta có thể nói đó là những cái khả nhiên
do tác giả sáng tạo nhằm mở rộng tầm hiểu biết về cuộc sống,
giải thoát con người khỏi mọi thói quen trì trệ, mọi cái nhìn bề
ngoài, kích thích sự chú ý đến mọi biến dị và đa dạng của cuộc
đời. Nhưng đồng thời nhận thức văn học khác xa triết học, bởi
nhà văn không chỉ khái quát những khả năng mà còn sáng tạo
cái khả nhiên, là cái có gía trị thẩm mĩ ở chỗ nó gây khoái cảm
cho con người, kích thích và mài sắc không chỉ là tư duy, mà
- còn mài sắc cảm giác con người về sự đa dạng và khác lạ bất tận
của cuộc đời, nuôi dưỡng tình cảm và sự đánh giá có tính nhân
văn đối với mọi biến đổi của đời sống. Văn học khác hẳn khoa
học vì khoa học chủ yếu nhận thức cái quy luật, cái tất yếu, cái
dĩ nhiên của hiện thực dưới hình thức khái niệm, phạm trù, công
thức trừu tượng.
Nhìn nhận văn học từ phạm trù cái khả nhiên giúp chúng ta có
cơ sở để hiểu chức năng nhận thức đặc thù của nó, nhìn thấy cơ
chế bên trong của sự phản ánh thẩm mĩ và do đó có cơ sở đánh
giá đúng đắn đối với văn học.
Nguồn: lythuyetvanhoc.wordpress.com
nguon tai.lieu . vn