Xem mẫu
- Tổng quan về hoạt động thần kinh cao
cấp và tư duy
Bài từ Tủ sách Khoa học VLOS.
Một câu hỏi được đặt ra từ tiêu đề của bài này là phải chăng có nhiều loại hoạt động của
hệ thần kinh? Câu trả lời là có hai loại hoạt động của hệ thần kinh: Hoạt động cao cấp và
hoạt động thấp cấp. Họat động thần kinh thấp cấp được tất cả hoặc hầu hết các loài động
vật có hệ thần kinh thực hiện, còn hoạt động thần kinh cao cấp chỉ được thực hiện trong
hệ thần kinh của một số loài động vật có mức tiến hóa cao thực hiện. Hoạt động thấp cấp
đã được nhà Bác học Páp lốp nghiên cứu từ đầu thế kỷ XX với nội dung cơ bản là nghiên
cứu về các phản xạ và các trạng thái của hệ thần kinh. Hai phương thức phản xạ và hai
trạng thái của hệ thần kinh được Páp lốp tìm ra là phản xạ không điều kiện và phản xạ có
điều kiện, trạng thái hưng phấn và trạng thái ức chế.Các phương thức hoạt động và trạng
thái này đều có trong mọi loài động vật bao gồm cả con người, nhưng nó không thể diễn
giải được những hoạt động khác của hệ thần kinh như sự suy nghĩ, tưởng tượng, sự hình
thành các giấc mơ, sự thông minh hay đần độn, sự khéo léo hay vụng về, các hoạt động
thần kinh chỉ có ở loài động vật này, ở cá thể này mà không có ở loài động vật khác hay
cá thể khácv.v…và đặc biệt là sự phức tạp trong hoạt động thần kinh của con người.
Những điều này là các bí ẩn cần được giải đáp. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về các
lĩnh vực này, trong đó nổi tiếng là công trình nghiên cứu về hiện tượng phân tâm của
Freud. Bằng sự quan sát tinh tường và nhạy cảm, Freud đã khám phá được rất nhiều hiện
tượng hoạt động thần kinh của bộ não người. Nhưng do sự phát triển khoa học chưa cao
của thời kỳ đó mà những giải thích về các hiện tượng đó của Freud còn mang nhiều tính
suy diễn chủ quan. Với lợi thế của sự phát triển khoa học và công nghệ cuối thể ký XX,
đã có nhiều công trình nghiên cứu về bộ não người nhờ sự trợ giúp của các phương tiện
kỹ thuật hiện đại. Nhưng các nghiên cứu đó chủ yếu đi tìm sự giải thích về từng hiện
tượng cụ thể do đó thiếu đi tính hệ thống. Hoạt động của hệ thần kinh mặc dù có nhiều sự
khác biệt nhưng chúng có tính hệ thống. Đây là điều cần được nhận thức đúng. Sự nghiên
cứu về hoạt động của các hệ thần kinh tiến hóa cao cần có sự xem xét toàn diện về mọi
biểu hiện của chúng như các hành vi, giấc mơ, các trạng thái mà chúng gây ra cho cơ thể
đến cấu trúc giải phẫu hoặc quan sát bằng các thiết bị khoa học…Khối lượng kết quả
nghiên cứu về hoạt động thần kinh sẽ rất lớn do tính phức tạp của nó. Trong loạt bài
trước đây các vấn đề về hoạt động cao cấp của hệ thần kinh và tư duy được đề cập riêng
biệt. Bài viết này là một sự nhìn nhận mang tính tổng quan về các hoạt động cao cấp và
tư duy trong mối quan hệ giữa các vấn đề đó.
Mục lục
• 1 Các hoạt động của hệ thần kinh
• 2 Các phương thức hoạt động của hệ thần kinh
o 2.1 Cấp thấp
o 2.2 Cấp cao
- • 3 Ảnh hưởng và tác dụng của các môi trường thần kinh tới các hoạt động thần
kinh
o 3.1 Phản xạ không điều kiện
o 3.2 Phản xạ có điều kiện
o 3.3 Phản ứng thần kinh
o 3.4 Hoạt động sáng tạo
o 3.5 Hoạt động trí tuệ
• 4 Tư duy
• 5 Vài lời cùng bạn đọc
Các hoạt động của hệ thần kinh
Hệ thần kinh là một bộ máy phức tạp trong cơ thể. Tuỳ theo mức độ tiến hoá mà nó thực
hiện các hoạt động để thực hiện chức năng của nó trong cơ thể. Các hoạt động của hệ
thần kinh bao gồm:
• Tiếp nhận kích thích thần kinh.Tiếp nhận kích thích thần kinh được tất cả các tế
bào thần kinh trong hệ thần kinh thực hiện. Nhưng chức năng này hiện tại chỉ xét
đến việc tiếp nhận các kích thích thần kinh đến từ ngoài hệ thần kinh, có nghĩa là
các kích thích do hệ thần kinh phát ra và tự tiếp nhận không được coi là chức
năng hay hoạt động chức năng của hệ thần kinh trong cơ thể. Để có cái nhìn toàn
diện về hoạt động thần kinh cần xác định rằng bất kỳ kích thích nào tác động lên
bất kỳ tế bào nào trong hệ thần kinh và làm cho chúng chuyển hoá chức năng
hoặc hoạt động đều đợc coi là các kích thích thần kinh.Các kích thích này bao
gồm các kích thích cơ học, lý học hay hoá học, chúng được các bộ phận tiếp nhận
kích thích thần kinh ( các cơ quan cảm giác) tiếp nhận. Nhưng cũng có các kích
thích được các tế bào thần kinh khác trong hệ thần kinh tiếp nhận. Các kích thích
dạng này do các hợp chất hoá học do máu đưa đến hệ thần kinh hoặc các tia
phóng xạ, sóng điện từ xâm nhập vào hệ thần kinh. Các kích thích dạng này
thường không rõ ràng và tạo nên sự mơ hồ trong hoạt động thần kinh.
• Ghi nhớ. Ghi nhớ là sự chuyển hoá tế bào thần kinh để ghi lại các kích thích thần
kinh. Hệ thần kinh có hai hệ thống tế bào ghi nhớ là hệ thống ghi nhớ bản năng và
hệ thống ghi nhớ mới. Hệ thống ghi nhớ bản năng được hình thành theo quy định
của hệ thống di truyền nhằm điều khiển các hoạt động mang tính bản năng của cơ
thể, hệ thống ghi nhớ mới là hệ thống ghi lại các kích thích thần kinh do hệ thần
kinh tiếp nhận trong quá trình hình thành và phát triển của hệ thần kinh, bao gồm
cả những kích thích do hệ thần kinh tạo ra và tự tiếp nhận.
• Tái hiện ghi nhớ. Tái hiện ghi nhớ là sự kích hoạt các tế bào thần kinh đã chuyển
hóa ghi nhớ về sự tác động của các kích thích thần kinh lên chúng. Để kích hoạt
các tế bào này cần có các kích thích thần kinh phù hợp với khả năng tiếp nhận của
chúng. Khi các tế bào này hoạt động, chúng sẽ thể hiện lại tác dụng của các kích
thích thần kinh đã làm chúng chuyển hoá dưới dạng tạo ra một kích thích thần
kinh mới. Các kích thích thần kinh kích hoạt các tế bào này có thể là các kích
thích đã làm chuyển hóa chúng hoặc các kích thích khác.
- • Nhận biết. Nhận biết là quá trình so sánh các thông tin về đối tượng đang được hệ
thần kinh tiếp nhận với các thông tin về đối tượng đã được ghi nhớ trong hệ thần
kinh (bao gồm cả ghi nhớ bản năng) để hệ thần kinh xác định đó là đối tượng đã
từng tạo ra kích thích lên hệ thần kinh hay đối tượng tiếp xúc lần đầu và đánh giá
ảnh hưởng, khả năng tác động của đối tượng và định ra phương thức phản ứng
của cơ thể tới đối tượng đó. Đối tượng được nhận biết khi lượng thông tin đang
được tiếp nhận bằng lượng thông tin đã ghi nhớ về đối tượng và ngược lại là
không được nhận biết. Khi lượng thông tin do đối tượng cung cấp và ghi nhớ ít
hơn lượng thông tin vốn có của đối tượng thì sự nhận biết có thể hoặc là sai lầm,
hoặc là nhận biết chỉ còn ý nghĩa phân biệt đối tượng đó với các đối tượng khác (
biết mà không hiểu). Quá trình nhận biết diễn ra đồng thời với quá trình tiếp nhận
thông tin.
• Nhận thức là sự nhận biết về đối tượng với lượng thông tin đang tiếp nhận ít hơn
lượng thông tin đã ghi nhớ về đối tượng. Đối tượng vẫn được hệ thần kinh nhận ra
với một lượng thông tin tối thiểu. Hoạt động nhận thức là hoạt động bổ xung, điều
chỉnh thông tin khi đối tượng không cung cấp đủ hoặc cung cấp sai, hoặc do hệ
thống cảm giác tiếp nhận sai thông tin. Để có thông tin bổ xung thì hệ thần kinh
phải có sự ghi nhớ đầy đủ thông tin về đối tượng. Nhưng trong thực tế điều này
khó xảy ra do khả năng tiếp nhận thông tin hạn chế của hệ thần kinh hoặc do sự
phức tạp của đối tượng, hệ thần kinh phải thực hiện ghi nhớ nhiều lần và từ nhiều
nguồn thông tin, liên kết các thông tin về đối tượng hoặc có thể thuộc về đối
tượng. Sự liên kết các thông tin do đối tượng cung cấp sau nhiều lần tác động lên
hệ thần kinh là quá trình ghi nhớ và nhận thức hướng đối tượng, còn quá trình liên
kết các thông tin do đối tượng cung cấp với các thông tin về các đối tượng khác
có liên quan và các thông tin có thể thuộc về đối tượng ( hay quá trình bổ xung
thông tin từ sự ghi nhớ đối tượng khác) là sự nhận thức sáng tạo. Sự nhận thức
sáng tạo giúp hệ thần kinh nhận thức được đối tượng khi đối tượng không thể trực
tiếp cung cấp đủ thông tin, còn nhận thức hướng đối tượng cần có đủ thông tin
được cung cấp trực tiếp. Nhận thức sáng tạo hiểu về đối tượng bằng thông tin về
đối tượng khác, còn nhận thức hướng đối tượng hiểu về đối tượng bằng chính các
thông tin của đối tượng, do đó nhận thức sáng tạo có thể hiểu (hoặc nắm được vấn
đề ) ngay lần đầu tiên tiếp xúc với đối tượng với lượng thông tin hạn chế, còn
nhận thức hướng đối tượng chỉ hiểu được đối tượng sau khi đã thu thập được
thông tin đạt đến mức độ nào đó tuỳ thuộc vào mức độ phức tạp của đối tượng (
gọi là mức độ hiểu biết về đối tượng). Quá trình nhận thức diễn ra đồng thời hoặc
sau khi kết thúc quá trình tiếp nhận thông tin
• Điều khiển hoạt động của cơ thể. Đây là chức năng chính của phần lớn các hệ
thần kinh. Hoạt động điều khiển cơ thể được hệ thần kinh thực hiện bằng cách tạo
ra các kích thích thần kinh hoặc các hợp chất hoá học tác động lên các bộ phận,
các cơ quan cần điều khiển để kích hoạt chúng hoạt động. Thông thường, giai
đoạn điều khiển hoạt động cơ thể là giai đoạn cuối của một quá trình hoạt động
thần kinh nào đó.
• Tư duy. Tư duy là một hoạt động cao cấp của hệ thần kinh. Chức năng của hoạt
động tư duy là giúp hệ thần kinh nhận thức được thế giới xung quanh và định
hướng hoạt động sinh tồn và phát triển.
- Các phương thức hoạt động của hệ thần
kinh
Phương thức hoạt động thần kinh là cách mà hệ thần kinh thực hiện các hoạt động của
nó. Điều này có nghĩa là một hoạt động thần kinh có thể được hệ thần kinh thực hiện
bằng một hoặc nhiều cách ( một hoặc nhiều phương thức)khác nhau. Các phương thức
hoạt động tạo ra các môi trường sinh học hay môi trường vật chất ( gọi là các môi trường
thần kinh) cho các hoạt động thần kinh và do đó chúng tạo nên các hiệu quả khác nhau
cho các hoạt động đó. Nếu có môi trường phù hợp thì hoạt động thần kinh có hiệu quả
cao, còn không phù hợp thì hiệu quả hoạt động thấp hoặc không thể thực hiện được. Có
năm phương thức hoạt động thần kinh:
Cấp thấp
• Phản xạ không điều kiện;
• Phản xạ có điều kiện.
Cấp cao
• Phản ứng thần kinh;
• Hoạt động sáng tạo;
• Hoạt động trí tuệ.
Năm phương thức hoạt động này tạo ra năm môi trường cho các hoạt động thần kinh. Các
môi trường cho hoạt động thần kinh còn có thể được gọi là các môi trường thần kinh. Các
phương thức hoạt động thần kinh được hình thành trong quá trình tiến hoá. Phản xạ
không điều kiện giúp cho sự sinh tồn nên nó có mặt trong tất cả các hệ thần kinh của
động vật đa bào. Phản xạ có điều kiện xuất hiện trong các hệ thần kinh đã có các tế bào
thần kinh ghi nhớ mới. Phản xạ có điều kiện hình thành khi có ít nhất một tế bào thần
kinh được chuyển hoá để ghi nhớ dưới tác động đồng thời của hai kích thích thần kinh
đến từ hai hệ thống cảm giác khác nhau để sau đó chỉ cần một trong hai kích thích đó
cũng kích hoạt chúng hoạt động. Phản ứng thần kinh là chuỗi các phản xạ có điều kiện
được hình thành khi một ( hoặc một nhóm) tế bào ghi nhớ mới ra đời (theo nghĩa chuyển
hoá) dưới tác động của nhiều kích thích thần kinh, trong đó có ít nhất một kích thích đến
từ tế bào thần ghi nhớ mới và các thích thần kinh thứ cấp do chúng tạo ra kích hoạt được
một hoặc một nhóm tế bào ghi nhớ giống nhau ( khi một kích thích làm chuyển hoá đồng
thời các tế bào này ). Sự kích hoạt các tế bào vì vậy không chỉ do các kích thích đến từ hệ
thống cảm giác mà còn đến từ các tế bào thần kinh đã giúp nó ghi nhớ. Trong môi trường
phản ứng thần kinh, các kích thích thần kinh được truyền dẫn theo các sợi thần kinh và
các tế bào thần kinh chỉ được kích hoạt bởi năng lượng từ kích thích thần kinh di chuyển
trong các sợi thần kinh này. Các sợi thần kinh này có thể được hình thành trước hoặc sau
quá trình chuyển hoá tế bào.Vì vậy các quá trình hoạt động thần kinh diễn ra nhanh và có
tính ổn định cao khi các tế bào thần kinh khó bị kích hoạt bởi các kích thích thần kinh
- khác (Phổ tiếp nhận kích thích thần kinh hẹp). Hoạt động sáng tạo hình thành khi một tế
bào ghi nhớ mới được hình thành từ tác động của nhiều kích thích thần kinh, trong đó có
ít nhất hai kích thích đến từ hai tế bào ghi nhớ mới và kích thích thần kinh do nó tạo ra
tham gia vào sự chuyển hoá của ít nhất hai tế bào thần kinh để sau đó nó kích hoạt được
các tế bào này hoạt động. Trong môi trường hoạt động sáng tạo, các kích thích thần kinh
cũng được dẫn truyền trong các sợi thần kinh, nhưng không hoàn toàn giống với sự
truyền dẫn theo một đường cố định trong phản ứng thần kinh, chúng có thể được đổi
hướng. Sự đổi hướng này là nguồn gốc của sự sáng tạo, các hành vi sai lạc và sự biến
dạng của các giấc mơ. Các liên kết thần kinh trong hoạt động sáng tạo là liên kết phức
hợp. Các tế bào ghi nhớ mới trong hoạt động trí tuệ cũng được hình thành như trong hoạt
động sáng tạo nhưng số lượng các kích thích thần kinh nhiều hơn và đặc biệt là sự xuất
hiện các liên kết ảo giữa các tế bào thần kinh, phổ tiếp nhận kích thích thần kinh của các
tế bào ghi nhớ mới là rộng hoặc rất rộng để nó có thể được kích hoạt bởi các kích thích
thần kinh không tham gia chuyển hoá chúng và chúng có khả năng kích hoạt ngược lại
các tế bào thần kinh đã làm chuyển hoá chúng. Vì vậy các kích thích thần kinh di chuyển
trong môi trường hoạt động trí tuệ có thể đi theo bất kỳ con đường nào được hình thành
bất chợt. Sự chuyển hoá để ghi nhớ của các tế bào thần kinh là gần giống nhau, cơ sở để
tạo nên sự khác nhau giữa các phương thức hoạt động thần kinh là các liên kết thần kinh
và phổ tiếp nhận kích thích thần kinh của các tế bào thần kinh.
Ảnh hưởng và tác dụng của các môi
trường thần kinh tới các hoạt động thần
kinh
Các hoạt động thần kinh diễn ra trong các môi trường thần kinh. Nếu hoạt động diễn ra
trong các môi trường cấp thấp thì chúng được gọi là các hoạt động cấp thấp, còn hoạt
động trong môi trường cấp cao thì được gọi là hoạt động cao cấp. Như vậy cùng một hoạt
động thần kinh có thể là cấp cao hoặc cấp thấp. Sở dĩ có hiện tượng này là do kết quả của
từng hoạt động trong từng môi trường là khác nhau. Xem xét cụ thể của từng hoạt động
trong từng môi trường khác nhau sẽ thấy được điều này:
Phản xạ không điều kiện
Môi trường phản xạ không điều kiện là môi trường của các hệ thần kinh không có khả
năng ghi nhớ mới, vì vậy chỉ có hoạt động tiếp nhận kích thích thần kinh, nhận biết và
hoạt động điều khiển cơ thể diễn ra được trong môi trường này. Hoạt động nhận biết cũng
chỉ dừng ở mức nhận biết bản năng và dề bị nhầm lẫn.
Phản xạ có điều kiện
Là môi trường đã có các tế bào thần kinh ghi nhớ mới, vì vậy, ngoài các hoạt động như
phản xạ không điều kiện trên đây, hoạt động ghi nhớ và tái hiện ghi nhớ cũng được thực
- hiện trong môi trường này, nhưng sự tái hiện ghi nhớ chỉ được thực hiện khi có sự tác
động lặp lại của đối tượng gây nên sự ghi nhớ. Hoạt động nhận biết được nâng lên mức
cao hơn khi hệ thần kinh nhận ra được một số đối tượng của môi trường sống hiện tại khi
các tế bào ghi nhớ mới được kích hoạt. Một số quá trình hoạt động điều khiển có thể chịu
sự tác động của các tế bào thần kinh ghi nhớ mới và do đó có thể có những đáp ứng tốt
hơn với tác động của môi trường.
Phản ứng thần kinh
Phản ứng thần kinh là sự phát triển cao hơn của phản xạ có điều kiện khi các tế bào thần
kinh ghi nhớ mới liên kết với nhau tạo nên các chuỗi ghi nhớ theo liên kết dọc ( xem Vai
trò của liên kết ghi nhớ trong hoạt động thần kinh. Khi một tế bào ở đầu chuỗi được kích
hoạt thì các tế bào tiếp theo trong chuỗi sẽ được kích hoạt theo để tái hiện lại chuỗi các
tác động từ môi trường ngoài lên hệ thần kinh. Do không có các mối liên kết với các
chuỗi khác nên liên kết thần kinh là liên kết đơn. Các hoạt động thần kinh chỉ diễn ra theo
các chuỗi đã được thiết lập đó nên khi có sự lặp lại hoạt động, kết quả hoạt động vẫn
giống với kết quả của lần đầu tiên và khó có sự can thiệp từ các quá trình hoạt động thần
kinh khác trừ trường hợp tạo ra ức chế hoặc kích thích bằng hoá chất. Các quá trình hoạt
động thần kinh diễn ra trong môi trường này là các quá trình được lập trình. Hoạt động
nhận thức cũng đã được thực hiện trong một số dạng hệ thần kinh nhưng chỉ là nhận thức
hướng đối tượng và trong những hệ thần kinh có dung lượng ghi nhớ đủ lớn. Tái hiện ghi
nhớ có thêm hình thức là giấc mơ. Phản ứng thần kinh là môi trường tạo nên sự thuộc
lòng các bài học, các thói quen khó thay đổi, sự bảo thủ, sự lặp lại chính xác các hành vi
đã được thiết lập qua rèn luyện. Hoạt động tư duy không thực hiện được trong môi
trường này.
Hoạt động sáng tạo
Hoạt động sáng tạo hình thành nên môi trường trong đó sự liên kết thần kinh là liên kết
phức hợp, vì vậy các kích thích thần kinh có thể đổi hướng di chuyển. Sự đổi hướng này
là nguồn gốc của nhiều vấn đề trong hoạt động thần kinh như ảo giác, hành vi sai lạc, khả
năng nhận thức nhanh, sự nhận thức sai lệch, sự biến dạng của các giấc mơ và sự sáng
tạo. Ảo giác trong hoạt động sáng tạo là sự thể hiện sai khác các thông tin do các giác
quan cung cấp. Nếu bộ não có khả năng hình thành nhiều hệ thống tiếp nhận thông tin
cùng một lúc và kiểm soát được quá trình tiếp nhận này thì bên cạnh một sự tiếp nhận
đúng xuất hiện các sự tiếp nhận sai. Sự kiểm soát sẽ xác định luồng thông tin nào là đúng
và luồng thông tin nào là do sự sáng tạo của hệ thần kinh tạo ra. Nếu khả năng kiểm soát
này không có hoặc bị mất có thể dẫn đến các phản ứng không phù hợp. Ảo giác này gọi
là ảo giác phân ly, còn ảo giác hội tụ hình thành khi hệ thần kinh tiếp nhận các thông tin
khác nhau nhưng đều đưa về sự thể hiện một đối tượng. Ảo giác hội tụ giúp cho hệ thần
kinh nhận ra đối tượng khi đối tượng đó thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau và nhận lầm
đối tượng khi đối tượng đó có nhiều biểu hiện giống với đối tượng do hệ thần kinh xác
định. Ảo giác phân kỳ dễ được nhận ra hơn ảo giác hội tụ bởi có nhiều đối tượng xuất
hiện đồng thời trong não, còn ảo giác hội tụ chỉ làm xuất hiện một đối tượng. Cũng cần
lưu ý rằng các ảo giác này là ảo giác do việc xử lý thông tin của bộ não. Trong ảo giác
- phân kỳ, cảm giác thật tiếp nhận từ hệ thống cơ quan cảm giác thường rõ hơn ảo giác, ảo
giác hội tụ thường mạnh hơn cảm giác thật đến mức làm lu mờ hoặc mất cảm giác thật,
còn ảo giác do hệ thống cảm giác tạo ra thường làm sai lệch các thông tin về đối tượng
trước khi được bộ não tiếp nhận. Hành vi sai lạc xuất hiện do sự phân kỳ của các luồng
thần kinh trong đó có luồng dẫn đến việc thực hiện một hành vi nào đó không phù hợp
với hiện tại. Sự nhận thức không chỉ bao gồm nhận thức hướng đối tượng, mà còn có sự
nhận thức sáng tạo. Nguyên nhân của sự biến dạng các giấc mơ trong hoạt động sáng tạo
là do sự chuyển hướng của luồng kích thích thần kinh có tác động của một kích thích từ
bên ngoài và sự chuyển hướng đó không dẫn đến đúng các phần tử ghi nhớ các kích thích
bên ngoài đó. Sự xuất hiện ảo giác, các hành vi sai lạc, sự biến dạng của các giấc mơ
phản ánh về khả năng sáng tạo của hệ thần kinh hay hệ thần kinh đó có khả năng sáng
tạo, có môi trường sáng tạo. Khả năng này cũng cho thấy có thể can thiệp được từ bên
ngoài lên một quá trình hoạt động thần kinh đang diễn ra thông qua hệ thống các giác
quan bằng các thông tin phù hợp. Đây là cơ sở của nhiều phương pháp kích thích sự sáng
tạo. Điều kiện để hình thành nên một quá trình hoạt động sáng tạo cho hệ thần kinh là:
1.Hệ thần kinh đó phải có khả năng sáng tạo hay có môi trường cho hoạt động sáng tạo.
Nếu không có khả năng này thì dù nó có ghi nhớ được rất nhiều thì cũng không tạo ra
được sự sáng tạo nào. 2. Có lượng ghi nhớ cần thiết về nhiều đối tượng liên quan hoặc có
những đặc điểm, tính chất giống nhau. Đây là yêu cầu về tri thức tối thiểu trong lĩnh vực
cần sáng tạo. 3. Có thông tin kích thích phù hợp. Sự phù hợp đảm bảo cho sự tiếp nhận và
kết nối thông tin. Môi trường này cho phép tất cả các hoạt động thần kinh diễn ra với các
giới hạn bởi liên kết thần kinh là liên kết thực. Các thói quen dễ được thiết lập và có thể
thay đổi được trong môi trường này. Môi trường hoạt động sáng tạo không cung cấp khả
năng tự nhận thức.
Hoạt động trí tuệ
Đây là hoạt động cao cấp nhất của hệ thần kinh cho nên không có nhiều hệ thần kinh thực
hiện được hoạt động này. Môi trường hoạt động trí tuệ được tạo ra bởi các tế bào thần
kinh có phổ tiếp nhận kích thích thần kinh rộng và các mối liên kết thần kinh kém bền
vững hoặc không có liên kết thực. Phổ tiếp nhận kích thích rộng khiến cho các tế bào
thần kinh dễ được kích hoạt bởi nhiều kích thích thần kinh khác nhau, trong đó có các
kích thích không làm chuyển hoá chúng. Sự tiếp nhận này mở ra khả năng kết nối các tế
bào, các phần tử ghi nhớ về các đối tượng, các vấn đề khác nhau mà không được thiết lập
trước từ bên ngoài, thậm trí đó là những đối tượng, những vấn đề tưởng chừng không có
quan hệ gì với nhau trong thực tế. Vì khả năng tạo được những liên kết này mà hoạt động
trí tuệ tạo nên được tầm nhìn rất rộng và khả năng bao quát lớn, tìm thấy các mối liên hệ
và sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các đối tượng khác nhau mà trước đó chưa được biết. Các
liên kết thần kinh kém bền vững nên rất dễ bị cắt đứt. Điều này gây khó khăn cho việc tái
hiện sự ghi nhớ các đối tượng, các sự việc có liên quan đến nhau. Đây là sự oái oăm của
hoạt động trí tuệ: những cái có liên hệ với nhau dễ bị cắt đứt liên hệ gây khó khăn cho
việc tái hiện lại ghi nhớ, còn những cái chưa được thiết lập mối liên kết lại được tạo ra (
tất nhiên là cũng dễ bị cắt đứt) dẫn đến sự thể hiện những cái không hoặc chưa có trong
thực tế. Vì việc cắt đứt các mối liên hệ cũ cũng dễ như việc tạo ra các mối liên hệ mới
cho nên các hoạt động thần kinh trong môi trường hoạt động trí tuệ liên tục thay đổi. Sự
bảo thủ hay các thói quen không tồn tại được trong môi trường này. Môi trường hoạt
- động trí tuệ là môi trường có nhiều hoạt động thần kinh được thực hiện những cũng làm
hạn chế một số hoạt động do tính chất của môi trường. Việc học thuộc lòng là một việc
vô cùng khó khăn trong môi trường hoạt động trí tuệ bởi các liên kết thần kinh kém bền,
các chuỗi thần kinh chỉ được thiết lập tạm thời trong khi yêu cầu của việc học thuộc lòng
là phải tái hiện đúng trình tự và đầy đủ những điều đã học ( Khả năng này chỉ có trong
các chuỗi thần kinh có liên kết bền vững). (Bài “Ý nghĩa triết học của mối quan hệ đặc
biệt giữa vật chất và năng lượng” đã nêu ví dụ về chuyện Nàng Tô thị để minh hoạ về ba
phương thức hoạt động cao cấp của hệ thần kinh). Có thể nói rằng môi trường hoạt động
trí tuệ ( hay môi trường tạo ra hoạt động trí tuệ) là nơi tạo ra các thái cực trong hoạt động
của hệ thần kinh, tư các tư tưởng siêu phàm đến sự hoang tưởng, từ khả năng ghi nhớ và
nhận thức rất nhanh đến việc nhanh quên, nơi tạo ra nhiều ý tưởng mới và sự ngớ ngẩn,
từ các phát minh vĩ đại đến các ý nghĩ điên rồ,v.v…Việc xem xét một số hoạt động thần
kinh cụ thể sẽ cho thấy điều này.
• Tiếp nhận kích thích thần kinh.
Cũng giống như trong các phương thức hoạt động thần kinh khác, hoạt động tiếp nhận
kích thích thần kinh là hoạt động cơ bản, nhưng do phổ tiếp nhận kích thích thần kinh
rộng nên khi có kích thích thần kinh từ bên ngoài, sẽ có rất nhiều các tế bào thần kinh ghi
nhớ mới được kích hoạt tạo ra nhiều luồng, nhiều con đường di chuyển của các kích thích
thần kinh. Điều này có thể tạo được sự nhạy cảm với một số vấn đề mới, nhiều mối quan
hệ giữa các đối tượng hiện tại giúp cho sự nhận thức sáng tạo thực hiện nhanh và phát
hiện được những nhân tố mới trong các kích thích, nhưng đồng thời cũng gây khó khăn
cho phản ứng tức thời của hệ thần kinh bởi có nhiều sự lựa chọn cùng xuất hiện, vì vậy
hệ thần kinh thiếu tính quyết đoán và do đó có thể có phản ứng chậm ( môi trường phản
ứng thần kinh làm việc này nhanh hơn bởi không có sự lựa chọn, dó đó có thể có những
phản ứng không phù hợp, còn khi có yêu cầu cần phải có phản ứng đúng trong nhiều
phản ứng có thể áp dụng thì hoạt động sáng tạo và trí tuệ sẽ làm tốt hơn ).
• Ghi nhớ.
Ghi nhớ trong môi trường hoạt động trí tuệ có thể phân chia làm ba thời kỳ: khi khối
lượng ghi nhớ còn ít và khối lượng ghi nhớ khá nhiều. Sự phân chia này mang thính
tương đối chỉ nhằm thể hiện về tính chất ghi nhớ chứ không xác định khối lượng tri thức.
Trong thời kỳ đầu, các đối tượng cần ghi nhớ tác động lặp lại chưa nhiều, cơ hội để các
thành phần của từng đối tượng được hệ thần kinh tiếp nhận và ghi nhớ vẫn còn nên các
đối tượng còn được ghi nhớ đầy đủ và các liên kết giữa các thành phần còn được duy trì.
Nhưng với đặc điểm phổ tiếp nhận kích thích thần kinh rộng, cho nên các tế bào hoặc
nhóm tế bào ghi nhớ về một đối tượng có thể bị phân tán tạo thành thế các tế bào thần
kinh gần nhau có thể không cùng ghi nhớ về một đối tượng và không nằm trong một
chuỗi liên kết thần kinh. Điều này tạo nên cơ hội cho liên kết ảo thực hiện kích hoạt các
tế bào thần kinh không nằm trong một chuỗi liên kết. Phổ tiếp nhận rộng tạo nên khả
năng sẽ có nhiều tế bào thần kinh chuyển hóa nên đối tượng dễ được bộ não ghi nhớ hay
nói cách khác, trong thời kỳ đầu, môi trường hoạt động trí tuệ tạo ra khả năng ghi nhớ
cao cho bộ não. Nhưng cũng vì điều này mà khi khối lượng ghi nhớ đủ nhiều thì bộ não
gặp rắc rối cho việc ghi nhớ mới. Có hai sư rắc rối xảy ra là khi bộ nhớ đã sử dụng hết, hệ
- thần kinh chỉ còn bộ nhớ tạm nên mọi sự ghi nhớ sẽ nhanh chóng bị rơi vào quên lãng (
quên vì không ghi nhớ được). Sự rắc rối thứ hai là mặc dù bộ nhớ vẫn còn, nhưng khi có
sự tiếp nhận đối tượng mới, các tế bào đã ghi nhớ về các đối tượng cũ khác có thế hoạt
động để thông báo là đối tượng đã được ghi nhớ ( điều này xảy ra khi đối tượng mới có
nhiều đặc điểm giống với các đối tượng đã được ghi nhớ trước đó) tạo nên sư ghi nhớ giả,
sự ghi nhớ mới không được thực hiện nên sự lãng quên cũng diễn ra nhanh. Thời kỳ thứ
ba là sự hình thành các liên kết bền vừng giữa các điểm ghi nhớ. Các liên kết này được
tạo ra khi các quá trình hoạt động thần kinh được lặp lại giống nhau nhiều lần. Qua trình
này tạo ra tính ổn định cho các hoạt động thần kinh và do khả năng kích hoạt lẫn nhau rất
cao giữa các tế bào thần kinh cho nên số lượng các sợi liên kết sẽ rất lớn. Khi các sợi liên
kết này hình thành thì hệ thần kinh sẽ chuyển từ phương thức trí tuệ sang phương thức
sáng tạo.
Một tính chất quan trọng cho sự hình thành môi trường hoạt động trí tuệ là các liên kết
thần kinh không bền vững. Các liên kết thần kinh giữa hệ thống cảm giác với các tế bào
ghi nhớ mới bị cắt đứt làm cho việc tái hiện ghi nhớ bằng kích thích bên ngoài khó được
thực hiện hoặc được thực hiện nhưng không như mong muốn, cái cần nhớ lại không hiện
ra còn cái không có yêu cầu lại xuất hiện. Đây là cơ chế của sự hình thành của cái gọi là
tiềm thức. Tiềm thức là sự ghi nhớ đã được thực hiện nhưng chúng bị quên lãng. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến quên lãng nhưng riêng trong môi trường trí tuệ thì sự quên
lãng có nguyên nhân liên kết thần kinh chưa được tạo ra hoặc bị cắt đứt.
• Tái hiện ghi nhớ. Do hai yếu tố liên kết thần kinh chưa được tạo ra hoặc có thể đã
bị đứt kết hợp với yếu tố phổ tiếp nhận kích thích thần kinh rộng cho nên việc tái
hiện ghi nhớ trong môi trường hoạt động trí tuệ tạo nên những điểm khác với
trong môi trường phản ứng thần kinh và hoạt động sáng tạo. Các tế bào thần kinh
ghi nhớ mới được kích hoạt với phần lớn các kích thích thần kinh không tạo ra nó
và các kích thích thần kinh mới ( kích thích thứ cấp) do chúng tạo ra có thể kích
hoạt nhiều tế bào thần kinh khác nhau và có thể chính tế bào thần kinh được
chuyển hóa do tác dụng của chúng lại không được kích hoạt. Phương thức này tạo
một ưu thế lớn là đặt đối tượng được ghi nhớ vào những mối quan hệ mới mà
trong thực tế chưa có hoặc chưa xuất hiện để xem xét vai trò, vị trí, khả năng
tương tác, ảnh hưởng qua lại giữa các đối tượng đó, từ đó xác định mối quan hệ
có thể giữa các đối tượng đó, tìm ra các mối quan hệ mới giữa các đối tượng, phát
hiện ra các đối tượng mới trên cơ sở phân tích các mối quan hệ đó. Đây là khả
năng ảo hóa và hiện thực hóa các mối quan hệ giữa các đối tượng cần xem xét.
Khả năng ảo hóa cao làm xuất hiện các giấc mơ xa lạ hay các giấc mơ mà người
mơ chưa từng thấy hoặc chỉ thấy một chi tiết rất nhỏ trong thực tế. Giấc mơ cũng
là một sự tái hiện ghi nhớ. Các giấc mơ trong môi trường trí tuệ không phải là sự
biến dạng như trong môi trường sáng tạo mà là sự phát triển của một quá trình
hoạt động thần kinh và là quá trình hoạt động thần kinh không kiểm soát dựa trên
các liên kết ảo hoặc có một phần liên kết thực. Do yếu tố liên kết ảo nên nếu hệ
thống ghi nhớ tạm của hệ thần kinh không hoạt động để ghi nhớ lại các diễn biến
xảy ra thì người mơ sẽ không thể nhớ lại được nội dung của giấc mơ mà chỉ biết
mình đã mơ. Còn các giấc mơ diễn ra trong môi trường các liên kết thực sẽ được
tái hiện lại dễ dàng hơn mặc dù có sự biến dạng. Điều này cũng tương tự như sự
- xuất hiện của các ý tưởng. Các ý tưởng xuất hiện trong môi trường sáng tạo và
môi trường trí tuệ, nhưng các ý tưởng trong môi trường sáng tạo thường xuất hiện
khi có kích thích làm chuyển hướng luồng kích thích thần kinh (tạo nên các cảm
hứng sáng tạo), được chọn lọc và dựa trên các liên kết thực trong hệ thần kinh nên
chúng dễ dàng được nhớ lại, còn các ý tưởng trong môi trường trí tuệ nảy sinh rất
bất chợt và cũng rất nhanh chóng biến mất nhiều khi để lại chỉ là sự tiếc nuối. Để
có thể nhớ lại được các ý tưởng này thì cách duy nhất là nhanh chóng ghi lại (dù
là sơ lược) lên giấy.
Việc không thiết lập được các liên kết thần kinh trong hoạt động trí tuệ là một yếu tố gây
khó khăn trong hoạt động thần kinh trong những giai đoạn nào đó trong cuộc đời như
chậm nói, khó nói, khó trình bày ý kiến, hành động không thuần thục và thiếu tự
tin...Những biểu hiện này cũng gần giống với các biểu hiện những bộ não khó ghi nhớ
hoặc không ghi nhớ được ( dẫn đến thiểu năng trí tuệ). Tuy nhiên có những điểm khác
nhau để phân biệt, đó là thiểu năng trí tuệ thường đi kèm các biểu hiện về bệnh lý, còn
năng lực trí tuệ không có biểu hiện của bệnh lý. Thiểu năng trí tuệ thường trơ ỳ với các
kích thích thần kinh, còn năng lực trí tuệ có thể làm xuất hiện sự say mê hoặc xúc cảm.
Các trạng thái này của thiểu năng trí tuệ sẽ ngày càng rõ hơn còn của năng lực trí tuệ sẽ
giảm dần và thay vào đó là sự thông minh. Vệc không thiết lập được các liên kết thần
kinh giữa các tế bào ghi nhớ mới làm cho các kinh nghiệm đã được tiếp thu không được
thể hiện hoặc thể hiện không chính xác, vì lý do này mà những người sở hữu năng lực trí
tuệ khó giành được giải thưởng trong các cuộc thi. Người sở hữu môi trường hoạt động
trí tuệ thậm trí không nhớ được và thuộc lòng các sản phẩm trí tuệ của chính mình, còn
những người sở hữu các môi trường phản ứng thần kinh và sáng tạo lại ghi nhớ các sản
phẩm trí tuệ của người khác rất tốt.Danh hiệu học tập xuất sắc không giành cho những
người mà bộ não chỉ có môi trường hoạt động trí tuệ.
Độc giả có thể dễ hình dung được về sự ghi nhớ và tái hiện ghi nhớ trong các môi trường
thần kinh qua ví dụ này: nếu các yêú tố của các đối tượng ngoài hệ thần kinh cần ghi nhớ
nói chung và tri thức nói riêng là các hạt trang sức, còn mối quan hệ giữa chúng là các sợi
liên kết để tạo thành chuỗi hạt trang sức thì môi trường phản ứng thần kinh sẽ tiếp nhận
nguyên trạng (để ghi nhớ ) và thể hiện nguyên trạng (tái hiện ghi nhớ) các chuỗi hạt trang
sức đó, môi trường hoạt động sáng tạo sẽ cắt các chuỗi thành từng đoạn rồi ghép nối các
đoạn từ các chuỗi khác nhau thành chuỗi mới, do đó sự tái hiện sẽ có thể có những thay
đổi, còn môi trường trí tuệ sẽ rũ tung các chuỗi thành các hạt rời để sau đó xâu lại thành
các chuỗi mới ( có thể với các sợi dây mỏng manh và dễ đứt). Sự tái hiện ghi nhớ trong
môi trường hoạt động trí tuệ sẽ không thực hiện được hoặc được thực hiện với nhiều thay
đổi so với những cái đã được tiếp nhận. Nếu có cuộc thi với yêu cầu trong thời gian ngắn
nhất ai có thể trưng ra được chuỗi ngọc thì người cầm chắc thất bại là hoạt động trí tuệ,
còn yêu cầu của cuộc thi là trong một khoảng thời gian nào đó người nào trưng ra được
một chuỗi hạt trang sức đẹp thì người dành phần thắng sẽ là hoạt động sáng tạo bởi phản
ứng thần kinh chỉ có các chuỗi cũ, còn trí tuệ sẽ không có chuỗi nào hoàn chỉnh. Hoạt
động trí tuệ chỉ có hy vọng dành phần thắng khi cuộc thi có yêu cầu trưng ra chuỗi trang
sức đẹp nhất, chưa từng có và không hạn chế về thời gian. Nhưng sẽ khó tìm được ban
giám khảo nào đủ kiên nhẫn để chấm cho những bài thi này. Điều này cũng cho thấy cơ
hội thành công nhiều nhất trong xã hội thuộc về những bộ não có năng lực hoạt động
- sáng tạo và mạnh mẽ. Sự ghi nhớ của các tế bào thần kinh là giống nhau, nhưng sự hành
xử với các điểm ghi nhớ đó thông qua các liên kết thần kinh là khác nhau trong từng môi
trường đã dẫn đến các kết quả hoạt động thần kinh khác nhau, hay các liên kết thần kinh
giữ vai trò quyết định đến tính chất của hoạt động thần kinh.
• Nhận biết và nhận thức. Môi trường trí tuệ sử dụng nhận thức cho hoạt động nhận
biết khi có nhiều tế bào ghi nhớ mới được kích hoạt để cung cấp nhiều thông tin
hơn lượng thông tin do hệ thống cảm giác tiếp nhận. Nhưng do sự ghi nhớ về từng
đối tượng là rời rạc, các liên kết thần kinh bị đứt nên môi trường trí tuệ cung cấp
được khả năng nhận biết và nhận thức những cái mới và làm suy giảm khả năng
nhận ra những cái cũ, các đối tượng này cũng được bộ não hành xử như là các đối
tượng mới gặp lần đầu. Môi trường này còn cung cấp một khả năng đặc biệt cho
hoạt động nhận thức, đó là khả năng tự nhận thức. Tự nhận thức là việc bộ não tự
xây dựng sự hiểu biết về đối tượng hoặc tìm ra các đối tượng nhận thức mới mà
không cần có các thông tin về đối tượng đó được cung cấp từ bên ngoài, bộ não tự
tìm kiếm thông tin về các đối tượng này trên cơ sở tạo mối liên kết các thông tin
của các đối tượng khác nhau đã được ghi nhớ. Trên cơ sở tự nhận thức, bộ não
chuyển sang tự ý thức.
Quá trình tự nhận thức và tự ý thức diễn ra giống như chúng việc chúng có sẵn trong não
hoặc được đưa vào não không qua các giác quan tại những thời điểm nào đó trong quá
trình sinh trưởng và chi phối các hành vi. Việc ý thức tự nhiên nảy sinh trong não này đã
dẫn đến quan niệm cho rằng ý thức là một cái có trước khi bộ não được sinh ra và ở mức
rộng hơn, cao hơn khi quan niệm này chuyển thành nhận thức triết học của các trường
phái triết học duy tâm.
• Điều khiển hoạt động cơ thể.
Do có nhiều tế bào thần kinh ghi nhớ mới tham gia vào quá trình điều khiển hoạt động cơ
thể vì vậy nhiều hành động phức tạp có thể được thực hiện. Sự khéo léo trong những
trường hợp này không phải do sự rèn luyện đến thành thục mà bắt nguồn từ khả năng
điều khiển sự phức tạp. Nếu sự khéo léo hình thành do rèn luyện có tính ổn định và bền
vừng thì sự khéo léo do hoạt động trí tuệ là không ổn định và không bền vững, nó nhanh
được tạo ra và cũng nhanh chóng mất đi.
Các môi trường hoạt động thần kinh không có ranh giới riêng và chúng có xu hướng
chuyển hoá dần từ các phương thức hoạt động cao xuống các phương thức thấp hơn theo
tuổi tác. Sự hình thành năng lực hoạt động cá nhân chịu ảnh hưởng của tỷ lệ giữa các
phương thức đó trong bộ não. Các phương thức hoạt động này là sản phẩm của tự nhiên
nhưng chịu tác động của những cái được ghi nhớ trong não. Điều này thể hiện tính độc
lập tương đối của các phương thức hoạt động thần kinh với lượng tri thức và loại tri thức
được hệ thần kinh tiếp nhận và ghi nhớ. Lượng trí thức được tiếp nhận có xu hướng thúc
đẩy các phương thức hoạt động thần kinh theo hướng từ thấp lên cao theo khối lượng tri
thức. Đây là xu hướng ngược lại với xu hướng trên. Điều này nói lên rằng tri thức, dù
không mang tính quyết định vẫn giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của hệ thần kinh.
- Tư duy
Các bài Tư duy là gì và Nhận diện tư duy đã nói về vai trò của tư duy và các loại hình tư
duy. Phần viết này đề cập đến mối quan hệ của tư duy với các phương thức hoạt động
thần kinh và các mối quan hệ giữa các loại hình tư duy. Sẽ là phiến diện nếu nghiên cứu
về tư duy mà không đề cập đến cái tạo ra chúng là bộ não và cụ thể hơn là các phương
thức hoạt động thần kinh. Tư duy có nhiều loại, trong đó ba loại tư duy cơ bản là tư duy
kinh nghiệm, tư duy sáng tạo và tư duy trí tuệ. Ba loại tư duy này không gắn với ba
phương thức hoạt động cao cấp của hệ thần kinh mà chúng là các phương tiện chuyên trở
các loại tư duy khác ( các tư duy phân loại theo nội dung ) trong các môi trường thần
kinh. Chúng là các phương tiện của tư duy. Tư duy kinh nghiệm được so sánh với xe du
lịch hạng sang chỉ chạy trên các con đường nhựa phẳng phiu, còn tư duy sáng tạo là xe
việt dã để có thể chạy trên các con đường hoặc các địa hình mấp mô, còn tư duy trí tuệ là
chiếc tàu lượn để đưa tư duy phiêu du trên mọi sự ghi nhớ. Với các đặc điểm và tính chất
riêng biệt mà các phương tiện của tư duy có thể phù hợp hoặc không phù hợp, hoạt động
tốt hay không tốt trong từng môi trường thần kinh và cũng tuỳ theo môi trường sống mà
chúng được sử dụng hay không được sử dụng. Tư duy kinh nghiệm không chạy được
trong môi trường trí tuệ bởi môi trường này không có con đường nào. Nó chạy được
trong môi trường sáng tạo nhưng chỉ trong một số trường hợp bởi có nhiều chỗ trong môi
trường này là đường chưa được trải nhựa hoặc chưa có đường đi. Tư duy sáng tạo có thể
chạy trên cả ba môi trường, nhưng chúng chạy trong môi trường phản ứng thần kinh sẽ
chậm hơn tư duy kinh nghiệm, nó chạy được trong môi trường trí tuệ nếu vùng ghi nhớ
không phải là rừng rậm. Môi trường thích hợp nhất của tư duy sáng tạo là phương thức
hoạt động sáng tạo. Trong môi trường này, tư duy sáng tạo hoạt động hiệu quả hơn tư
duy kinh nghiệm bởi nó tìm ra được các con đường đi mới gần hơn. Tư duy trí tuệ là tư
duy tự do và nó cần được tự do. Nó có một số yêu cầu như cần có điểm xuất phát. Sẽ
chẳng có tư duy trí tuệ khi lượng tri thức chưa tích luỹ đạt mức tối thiểu. Nó sẽ không
đến được đích nếu nơi đó không có bãi đáp. ( tư duy kinh nghiệm sẽ không đến được đích
khi đích đó không đặt trên đường đi). Tư duy trí tuệ không thể bị giàng buộc ( bởi bất kể
kinh nghiệm, lý thuyết hay hệ tư tưởng nào). Dung lượng ghi nhớ càng nhiều và số lượng
các đối tượng ghi nhớ được càng lớn thì không gian cho tư duy trí tuệ càng rộng. Với ưu
thế tự do nên tư duy trí tuệ có thể nhìn hoặc đến với bất kỳ đối tượng được ghi nhớ nào
và bằng bất kỳ con đường nào do trí tuệ tạo ra. Tuy nhiên, do mang tính chất của tàu lượn
nên tư duy trí tuệ thường nhanh chóng chuyển từ mục tiêu này đến mục tiêu khác, từ
đường bay này đến đường bay khác, từ ý nghĩ này đến ý nghĩ khác ( Thần thoại Hy lạp đã
xác định được rằng vị thần có tốc độ nhanh nhất là thần suy nghĩ do ý nghĩa này) và phát
hiện được những mục tiêu ( trong đó có cả những mục tiêu giả) mà tư duy kinh nghiệm
hay tư duy sáng tạo không thể nhìn thấy. Khi tư duy trí tuệ tìm thấy mục tiêu giả mà cố
tình tiếp cận và trên mặt đất không có đường đi thì tư duy trí tuệ sẽ bị mắc kẹt. Sự mắc
kẹt vào mục tiêu giả của tư duy trí tuệ là sự hoang tưởng. Oái oăm thay sự hoang tưởng
lại được tư duy trí tuệ chuyên trở. Để tránh sự hoang tưởng, tư duy trí tuệ cần có sự kiểm
tra chắc chắn về các mục tiêu được phát hiện và không hạ cánh ngay vào các mục tiêu đó
khi không có bãi đáp hoặc không thể cất cánh. Trong trường hợp này là tìm bãi đáp rồi từ
đó mở đường bộ tới mục tiêu để nếu là mục tiêu giả thì vẫn có đường ra, con nếu là mục
tiêu mới thì con đường đó giúp cho tư duy sáng tạo và sau đó tư duy kinh nghiệm sử
- dụng. Tư duy trí tuệ tìm đường và khai phá các con đường mới cho mọi tư duy và tạo ra
tri thức mới.
Các loại tư duy như phân tích, tổng hợp, rộng hẹp, nông sâu thể hiện hướng di chuyển và
độ dài đoạn đường di chuyển của các phương tiện tư duy. Tư duy lý luận là dụng cụ định
hướng cho sự di chuyển trong những quá trình tư duy phức tạp.
Các loại tư duy nội dung ( Khoa học, triết học, nghệ thuật, tín ngưỡng...) đều có thể được
chuyên trở bởi các phương tiện tư duy. Tuy nhiên cũng cần phải có sự phù hợp giữa hàng
hoá, phương tiện và môi trường di chuyển. Nói chung chúng đều có thể được cả ba
phương tiện tư duy chuyên chở. Sự phù hợp hay không phù hợp tác động đến kết quả tư
duy. Sẽ không có gì mới khi tư duy được chuyển chở bằng tư duy kinh nghiệm. Tư duy
trong môi trường sáng tạo mang tính ứng dụng, còn trong môi trường trí tuệ mang tính
khám phá, phát minh. Các tư tưởng mới được hình thành bởi sự định hướng của tư duy lý
luận, chuyên chở bằng tư duy trí tuệ trong môi trường hoạt động trí tuệ.
Tư duy sáng tạo hay hoạt động trí tuệ không phải là cái gì đó quá xa lạ, chúng tiềm ẩn
trong mỗi con người với những mức độ khác nhau. Điều quan trọng là cần nhận biết và
nắm bắt được chúng (mặc dù là không dễ). Nếu không thực hiện được điều này thì mọi
cố gắng để sử dụng chúng sẽ không có hiệu quả và có thể có kết quả ngược lại. Cần có
thái độ đúng mực với tư duy để tránh lạm dụng và tránh cao siêu hóa đến mức e ngại
không dám tư duy.
Nguồn: thuvienkhoahoc.com
nguon tai.lieu . vn