Xem mẫu
- Phần 9
Toà lâu đài huyền diệu
Trong nhiều năm – trong thời gian chiến tranh và sau đó – Yakonov ngồi vững với
địa vị kỹ sư trưởng Sở Tiếp liệu đặc biệt. Y mang với một vẻ trang trọng đáng kính
đôi cầu vai nền bạc viền xanh ở giữa có ba ngôi sao mà sự hiểu biết của y đã đem lại
cho y. Chức vụ của y đặc biệt đến nỗi y có thể hoạt động trên một địa bàn rất rộng:
đôi khi đọc một báo cáo đầy những danh từ khoa học trước những nhân viên cao cấp
trong guồng máy nhà nước, đôi khi thảo luận một cách thông minh với một ngôn ngữ
đầy những danh từ chuyên môn với những kỹ sư về những phát minh mới nhất. Nhìn
chung, y tự tạo cho y cái uy tín là một nhà chuyên môn nhưng không phải lãnh trách
nhiệm về bất cứ một chuyện gì, và mỗi tháng y được lãnh vài ngàn đồng ruble.
Yakonov chủ tọa cuộc lễ khai sinh ra tất cả những phòng chuyên môn, những cuộc
phát động thực hiện kế hoạch, y biến mất trong giai đoạn khó khăn của kế hoạch để
rồi lại xuất hiện trước quan tài của những kẻ thất bại hoặc để choàng vòng hoa chiến
thắng lên đầu những kẻ thành công.
Anton Nikolayevich Yakonov không còn đủ trẻ và đủ tự tin để mơ tưởng đến
chuyện có ngày đoạt được huy chương Sao vàng hoặc giải Stalin, hoặc mỗi khi có dịp
là vồ lẫy người dự án lớn, quan trọng do Tổng thống hay do chính Thủ lãnh tối cao
đưa ra. Y đã có đủ kinh nghiệm và tuổi đời để khôn ngoan lẩn tránh hệ thống rắc rối,
phức tạp những xúc động, sợ hãi, âu lo do tham vọng thái quá gây ra.
Với những quan điểm đó về cuộc đời, y sống an nhàn, đầy đủ, sung sướng cho đến
tháng Giêng năm 1948. Trong tháng Giêng ấy có một kẻ nào đó đề nghị với Cha chung
của dân tộc Nga La Tư ý kiến chế tạo một dàn máy điện thoại đặc biệt chỉ để dành
riêng cho Lãnh Tụ Tối Cao dùng mà thôi. Dàn máy điện thoại đó sẽ được chế tạo sao
cho không một kẻ nào có thể hiểu được Lãnh tụ nói gì, dù cho máy có bị cắm lén nghe
trộm. Với ngón tay thần thánh, ngón tay vàng vì khói thuốc lá, vị Cha hiền dân tộc chỉ
lên tấm bản đồ. Ngón tay đặt đúng lên Mavrino. Lúc ấy Mavrino là một xưởng chế
tạo máy truyền thanh xách tay cho cảnh sát dùng. Câu nói lịch sử của Người trong dịp
này là “Ta cần những máy truyền thanh này để làm gì? Để bắt kẻ trộm à? Ai thèm để
ý đến bọn ăn trộm?”
Người ra thời hạn: ngày mùng một tháng Giêng 1949. Người suy nghĩ rồi nói: “Thôi
được. Cho đến mùng một tháng Năm”.
Công tác này được đặt vào hàng ưu tiên số một và quan trọng số một. Thời hạn của
công tác quá chặt chẽ, quá gấp rút. Ở Bộ An ninh, người ta thảo luận lỹ và người ta
lựa Yakonov để trao cho việc đích thân đốc xuất công tác này. Yakonov cố gắng một
cách vô ích để trình bày rằng y đã phụ trách quá nhiều việc và y không thể nào làm
tròn được hai việc cùng một lúc. Nhưng Foma Guryanovich Oskolupov, giám đốc Nha
Kế hoạch Bộ An ninh, thượng cấp trực tiếp của Yakonov, chiếu cặp mắt xanh như
mắt mèo nhìn thẳng vào mắt Yakonov – và Yakonov nhớ lại vết đen trên hồ sơ an ninh
của y. Chính y cũng đã từng phải ở tù sáu năm. Vì vậy, y ngậm miệng lại không dám
nói gì nữa.
Từ đó – đã gần hai năm trời trôi qua – văn phòng trưởng Phòng Kỹ sư ở Tổng bộ An
ninh vẫn để trống không có ai ngồi. Trưởng Phòng Kỹ sư Yakonov sống suốt ngày
đêm ở Viện Nghiên cứu Mavrino nằm ở ngoài thành Mạc Tư Khoa, nơi có một tầng
tháp hình lục lăng nổi cao trên mái tòa giáo đường xưa cũ.
- Thoạt đầu, việc một mình có toàn quyền quyết định mọi việc là một lạc thú,
Yakonov cảm thấy khoái lạc trong việc đóng cánh cửa chiếc xe hơi Pobeda dành riêng
cho y di chuyển với cử chỉ mệt mỏi. Y khoan khoái ngồi trong chiếc xe êm đưa y tới
Mavrino, đi ngang người binh sĩ chào nghiêm với cây súng trên tay ở vọng gác ngoài
cổng để vào tòa nhà chung quanh có dây thép gai. Cuộc sống thật dễ chịu trong mùa
xuân, khi cảnh vật đều trẻ trung và tươi mởn, đi bộ dưới những hàng cây để từng
sống cả trăm năm bao quanh Mavrino với một đám thiếu tá, đại úy tùy tùng. Trong thời
gian đầu, những vị thượng cấp của Yakonov không ai đòi hỏi gì ở Mavrino – Yakonov
chỉ có việc đều đặn gửi về Tổng bộ một lô những chương trình kế hoạch, sơ đồ và
lời hứa sẽ làm trọn những “bổn phận đối với chế độ”. Và vật dụng đủ thứ được tới
tấp đổ xuống Viện Nghiên cứu khoa học Mavrino: những bộ phận máy radio do Nga
Xô chết tạo và những bộ phận do ngoại quốc chế tạo, máy điện, dụng cụ nghiên cứu,
bàn ghế, tủ, tủ sắt, một tủ sách gồm ba mươi ngàn quyển sách chuyên khoa kỹ thuật,
những tù nhân chuyên viên được lấy ra từ những trại tập trung, những sĩ quan mật vụ
ưu tú nhất được phái đến, những viên chức lưu trữ hồ sơ được biệt phái tới làm việc
và sau cùng, một đại đội binh sĩ phòng vệ đặc biệt kéo đến. Cũng trong thời gian đầu,
Yakonov phải cho sửa lại tòa nhà, làm thêm phòng, chuyển những căn phòng trong nhà
y thành phòng thí nghiệm và văn phòng, xây hầm đặt máy điện. Cho đến khi những
hàng cây để nở hoa vàng và tỏa ngát hương thơm, tiếng nói buồn rầu của những tù
binh Đức được gửi đến làm lao công vang lên trong vườn tòa nhà.
Những tên Phát xít lười biếng đang sống nằm tù thứ tư sau chiến tranh ấy không
muốn làm bất cứ một việc gì. Trước mắt những người Nga, cảnh bọn tù binh Đức
chuyển những viên gạch từ trên những chiếc xe vận tải xuống là một cảnh chướng
mắt chịu không nổi: chúng xếp hàng một từ xe vào đến chỗ xếp gạch, chúng chuyền
tay nhau từng viên gạch chậm chạp, cẩn thận, như đó là những khối vàng nén. Chúng
cố tình làm chậm như thế và chúng chỉ chuyển hết số gạch trên một chiếc xe xuống là
hết ngày. Trong lúc những công nhân đặt máy thông hơi, máy sưởi ở cửa sổ và lát ván
lại những căn phòng trong nhà, bọn tù binh Đức đi lang thang khắp nhà, chúng vào cả
những căn phòng tối mật và đứng nhìn những thùng đồ ghi chữ Đức và chữ Anh. Bất
cứ một chú học sinh người Đức nào cũng có thể đoán biết phòng thí nghiệm gì được
lập lên ở đó. Rubin đã ghi tất cả những chi tiết này trong một bản báo cáo gửi đến đại
tá kỹ sư Yakonov, báo cáo này ghi nhận đúng nhưng cũng rất phiền cho hai sĩ quan
phụ trách an ninh ở đây – Shikin và Myshkin – (bọn tù nhân gọi hai nhân vật này bằng
cái tên chung là Shishkin và Myshkin) – bởi vì lúc đó, người ta chẳng còn sửa chữa gì
được nữa. Họ không thể gửi báo cáo đó lên thượng cấp vì sự sơ xuất đó là lỗi của họ.
Và đến lúc đó bọn tù binh Đức đã được trở về Đức quốc. Yakonov rùng mình kinh sợ
khi nghĩ rằng nếu trong bọn tù binh ấy có tên nào trốn sang Tây Đức, tên đó sẽ có thể
kể lại vị trí Viện Nghiên cứu này với bọn gián điệp đế quốc tư bản. Sau đó, những
biện pháp bảo vệ bí mật đến tối đa được áp dụng ở Mavrino: tù nhân làm việc ở
phòng thí nghiệm này không được đặt chân sang phòng thí nghiệm khác, các tù nhân
không được tiết lộ những công tác nghiên cứu với nhau, trừ khi nào được ban giám
đốc cho phép. Việc Yakonov được cử đi điều Viện Nghiên cứu khoa học Mavrino
cũng được giữ kín ở Tổng bộ An ninh. Ở trong Bộ, hỏi đến đại tá kỹ sư Yakonov đều
được yêu cầu ghi tên, cấp bậc và lý do cần gặp lên giấy và sẽ được trả lời sau. Nếu
cần phải gặp những người này, bao giờ Yakonov cũng về Bộ để gặp. Y không tiếp
bất cứ ai ở Mavrino.
- Khi bọn tù bình Đức được gửi về nước, họ đưa tới Mavrino đám tù khác để làm lao
công. Đám tù này giống hệt những tù nhân làm việc chuyên môn trong việc trừ điểm
quần áo của họ dơ dáy hơn, rách rưới hơn và họ không được quyền ăn bánh mì trắng.
Đám tù Nga này làm việc khác hẳn bọn tù binh Đức: họ vừa làm việc vừa chửi rủa tục
tĩu những viên gạch bay tới tấp từ trên xe vận tải xuống sân và kết quả là gần như
không còn viên gạch nào lành lặn hoàn toàn. Với tiếng: “Một… hai… ba…” bọ tù Nga
quăng tấm mui xe bằng vải bạt chùm lên xe và chúng chui và đó để đi về nhà giam,
trên đường đi chúng đùa giỡn với những nữ tù nhân. Buổi sáng chúng được đưa đến
làm việc, buổi chiều đưa trả về nhà giam.
Và tòa lâu đài huyền diệu đó, nằm riêng rẽ ở một khu ngoài thành phố, một khu tuy
không thấy có gì khác lạ nhưng bọn thường dân không dám tới gần, được thay đổi
gần như toàn diện: lâu đài có một bồn chứa nước, một hệ thống đốt rác tối tân, một
nhà máy điện riêng, những căn phòng cửa sắt được sưởi ấm vào mùa đông và những
bồn hoa tươi trong vườn cỏ.
Cũng trong thời gian đó, Viện Nghiên cứu khoa học được ưu đãi đặc biệt này mỗi
ngày một phát triển lớn hơn, đông nhân viên hơn. Viện tiếp nhận cả một Viện Nghiên
cứu khác với toàn thể nhân viên của viện này. Đó là Viện Nghiên cứu được trao cho
thiếu tá kỹ sư Roitman chỉ huy. Viện này cũng được lập lên để nghiên cứu về điện
thoại và truyền tin. Thiếu tá kỹ sư Roitman trở thành vị phụ tá của đại tá kỹ sư
Yakonov. Người khai sinh và bảo vệ Viện Nghiên cứu bị sáp nhập này là đại tá Yakov
Ivannovich Mamurin, nguyên Trưởng Sở Liên lạc đặc biệt và nguyên là một viên chức
cao cấp, quan trọng của chính phủ Xô Viết. Trước đó ít lâu, đại tá Mamurin đã biến
mất trong trường hợp bi thảm như sau này.
Số là có một lần vị lãnh đạo Nguyên liệu tiến bộ nói chuyện bằng điện thoại với
một người ở tỉnh Yenan và Lãnh Tụ bất mãn vì đường dây rè rè khó nghe, khó nói quá.
Người bèn gọi Beria tới và nói bằng tiếng địa phương Georgian: “Lavrety… Anh để
cho thằng ngu nào giữ Sở Liên lạc đặc biệt vậy? Tống cổ nó đi”.
Và như thế là Mamurin bị tống đi. Bị tống đi có nghĩa là đi tù. Họ giam Mamurin vào
nhà tù Lubyanka. Họ tống y đi nhưng họ không biết sau đó phải giải quyết tình trạng
của y ra làm sao, phải đối xử với y như thế nào. Họ không có chỉ thị phải làm về vụ
Mamurin, không có lệnh phải xử tù Mamurin và nếu xử tù thì cho tù bao nhiêu năm.
Nếu Mamurin không phải là anh em đồng chí của họ, họ đã xử y “một phần tư thế kỷ
và năm năm khóa mõm”, nghĩa là tù khổ sai hai mươi lăm năm và năm năm mất quyền
công dân, và tống y đi Norilsk. Nhưng họ bị ám ảnh bỏi lời nguyền: “Hôm nay tôi, mai
đến bạn”, những người bạn đồng nghiệp cũ của Mamurin ngấm ngầm ủng hộ y. Khi
họ biết chắc rằng Stalin đã quên Mamurin, họ dàn xếp cho Mamurin đến sống ở Viện
Nghiên cứu khoa học Mavrino.
Vì vậy, trong một đêm mùa hạ năm 1948, họ đưa một tù nhân mới đến Mavrino. Tất
cả mọi sự kiện liên can đến tù nhân này đều khác thường: Y được đưa tới trên một
chiếc xe hơi du lịch chứ không phải trên một chiếc xe Maria Đen như tất cả những tù
nhân khác. Y được viên quản đốc nhà tù đích thân đi đón về, và y được mời ăn bữa
đầu tiên trong nhà tù ở trong văn phòng của viên quản đốc, bàn ăn của y đêm đó có trải
khăn trắng đàng hoàng.
Những tù nhân có trước trong nhà tù này nghe biết – trên nguyên thể, họ không được
nghe, thấy biét gì hết nhưng trên thực tế, họ vẫn nghe, vẫn thấy và vẫn biết hết mọi
chuyện – tù nhân mới đến này nói rằng y không thích ăn xúc xích và viên quản đốc lễ
- phép mời y chịu khó ăn nhiều cho khỏe. Một tù nhân bị đau trên đường đi tới phòng
khám bệnh nghe lỏm được những lời trao đổi này. Anh trở về kể sự lạ ấy với các bạn
và đám tù nhân bán tán xôn xao một lúc về sự lạ ấy. Họ đi đến kết luận là dù sao đi
nữa, kẻ mới đến cũng chỉ là một anh tù. Sau đó, họ ngủ.
Những sử gia của Nhà tù đặc biệt Mavrino không bao giờ xác định được rằng đêm
đầu tiên ấy kể mới đến ngủ ở đâu. Sáng sớm hôm sau, ở một khu mà các tù nhân bị
cấm không được đặt chân đến, một tù nhân chuyên viên thợ tiện, tình cờ chạm trán
với một kẻ mới đến trong đêm qua.
"Ê bạn…" - người tù thợ tiện hỏi vội với ngón tay thô chọc mạnh vào ngực kẻ mới
tới – "Bạn từ đâu đến? Bị vồ ở đâu? Vì sao? Ngồi đây, hút thuốc không?"
Nhưng kẻ mới đến lùi xa người tù thợ tiện với vẻ kinh hãi khinh mạng hiện rõ trên
mặt. Người tù thợ tiện trợn mắt nhìn cái đầu hói và đôi mắt trắng của kẻ mới đến,
anh giận dữ nói:
"Đồ phách chó. Để rồi khi anh vào ở chung với chúng tôi anh có chịu nói chuyện với
chúng tôi hay không."
Nhưng “Phách chó” không bị nhốt vào phòng ngủ chung với tù nhân. Bên cạnh hành
lang đưa tới những phòng thí nghiệm, ở tầng thứ ba, ban quản đốc làm được cho y
một căn phòng nhỏ, trước đây phòng này được dùng làm phòng tối rửa hình, họ khiêng
vào đó một cái giường, một cái bàn, một cái tủ, một chậu cây cảnh và một cái bếp
điện. Họ gỡ những tám ván ra khỏi khung cửa sổ, cửa sổ này không mở ra ngoài trời
mà là nhìn ra một cầu thang nhỏ. Vì vậy ngay cả những buổi trưa trời nắng nhất, ánh
sáng cũng không lọt được tới khung cửa sổ căn phòng nhỏ này. Cửa sổ còn có chắn
song sắt. Những chấn song này có thể gỡ ra được nhưng ban quản đốc nhà thù, sau
nhiều do dự, quyết định để nguyên. Những người có quyền ở đây cũng không ai hiểu
rõ về tình trạng rắc rối bao quanh tù nhân này và họ cũng không biết phải xử sự làm
sao cho đúng.
Từ đó, tù nhân mới tới được đặt tên là “Người mặt nạ sắt”. Trong một thời gian rất
lâu sau đó không ai biết tên y là gì. không ai có thể nói chuyện được với y. Qua khung
cửa sổ, những tù nhân đi lại trên cầu thang nhỏ trông thấy y ngồi cúi đầu trong căn
phòng cô đơn, hoặc đi vất vưởng như bóng một cô hồn dưới hàng cây đề trong những
giờ tù nhân bị cấm ra khỏi phòng giam. Mặt nạ sắt cũng gầy gò, xanh xao như bất cứ
một tù nhân nào sau hai năm bị giam cầm nhưng việc y từ chối không chịu ăn xúc xích
cho người ta biết rằng không phải y gầy xanh vì thiếu ăn hay vì bị thẩm vấn.
Lại qua một thời gian rất lâu sau nữa, khi Mặt nạ sắt làm việc với phòng Số bảy, tù
nhân được những viên chức tự do cho biết rằng y chính là đại tá Mamurin, người khi
còn là giám đốc Sở Liên lạc đặc biệt, đã cấm không cho bất cứ ai đi ngang cửa văn
phòng của y được đặt gót giày xuống sàn, nghĩa là tất cả mọi người đi qua cửa văn
phòng y đều phải đi kiễng chân, nhón gót để khỏi gây ra tiếng động. Nếu không, y sẽ
từ trong phòng hầm hầm chạy ra, quát lớn: “Đồ thô tục. Có biết văn phòng ai đây
không? Tên là gì?”.
Về sau, người ta được biết rằng sự khổ sở của Mamurin thuộc về tinh thần. Thế
giới những người tự do hắt hủi, chê bỏ y và y không thể gia nhập thế giới của những
người bị tù đày. Thoạt đầu, trong cảnh cô đơn, y đọc sách. Y đọc những tác phẩm bất
hủ như quyển Chiến đấu cho hòa bình của Panferov, quyển Chàng kỵ sĩ sao vàng của
Babayevsky. Y đọc Sobolev, Nikulin, rồi đọc thơ của Prokofiev và Gribachev. Và trong
tâm hồn y một sự chuyển biến kỳ diệu xảy ra: y bắt đầu làm thơ. Người ta biết rằng
- sự bất hạnh và tình trạng đau khổ về tinh thần thường sản xuất ra những nhà thi sĩ và
sự đau khổ của Mamurin sắc nhọn hơn sự đau khổ của nhiều tù nhân khác. Sống trong
nhà tù đã hai năm nhưng không bị thẩm vấn cũng không bị đưa ra tòa xử, không có án,
y vẫn sống giống hệt như y sống trước khi bị tù, nghĩa là tuân theo đúng những chỉ thị
của Đảng, tôn thờ Lãnh tụ Tối cao. Mamurin thú thật với Rubin rằng không phải thức
ăn trong nhà tù tồi tàn – (những bữa ăn của y được nấu riêng) – cũng không phải vì
tình trạng phải xa những người thân trong gia đình – (mỗi tháng y được bí mật đưa về
nhà riêng ủa y, nơi y ngủ lại một đêm) – y khổ sở và cay đắng chính là vì tình trạng
Yosif Vissarionovich Stalin không còn tin cẩn y nữa. Y đau đớn vì y không còn là một
vị đại tá, vì y bị thất sủng. Chính vì vậy mà những người như Rubin và Mamurin sống
khổ sở trong tù hơn là những người tù khác thù hận, chống đối chế độ.
Cơ quan là một đảng viên Cộng sản. Nhưng sau khi nghe những lời thở than, tâm sự
của Mamurin và nhất là sau khi đọc tập thơ của Y. Rubin trở thành lẩn tránh y. Rubin
vui vẻ sống với những người chỉ trích anh một cách bất công nhưng chịu chung cảnh
ngộ với anh.
Về phần Mamurin, y bị thôi thúc vì một ý muốn, ý muốn này cũng làm cho y nhức
nối, khó chịu như những cơn đau răng da diết: ý muốn chứng tỏ giá trị con người của
y qua việc làm. Nhưng than ôi, những hiểu biết chuyên môn của Mamurin về liên lạc
và truyền tin, mdà y từng là một viên chức cao cấp trong ngành, chỉ là việc nhấc ống
điện thoại lên quay số và nói. Do đó y không sao có thể tự y làm việc được, y chỉ có
thể sai khiến người khác làm việc mà thôi. Nhưng việc điều khiển một dự án nào đó
do dự án của người khác làm việc ra không bao giờ có thể làm cho y chiếm lại được
sự tin cẩn của Người Bạn Thân Nhất của công nhân truyền tin [3] , y cần phải nghĩ ra
một dự án riêng để đệ trình lên Lãnh tụ.
Trong thời gian Mamurin phát minh ra được điều này, Viện Nghiên cứu Mavrino
đang sửa soạn thực hiện hai dự án đáng kể, hứa hẹn nhiều vinh quang. Đó là dự án
chế tạo máy Vocoder, một máy đo tiếng nói, và thiết lập Phòng Nghiên cứu số Bảy.
Vì những nguyên nhân sâu xa nhưng vô lý nào đó, người ta thường có cảm tình hay
ác cảm với nhau, chịu nhau hay không sao chịu nổi nhau, ngay từ giây phút gặp gỡ đầu
tiên, từ cái nhìn thấy mặt nhau thứ nhất. Yakonov và Roitman có ác cảm với nhau và
không chịu nhau. Thời gian trôi quan, sự ác cảm này càng nặng nề, họ như hai con vật
cùng bị một bàn tay mạnh hơn đưa vào kéo chùng một cái gông, họ như hai con ngựa
bị ghép chung vào một cái xe, hai con ngựa không sao thoát ra được nhưng kéo đi về
hai hướng khác nhau. Khi công tác chế tạo máy điện thoại bí mật được thực hiện ở
Mavrino, Roitman quy tụ tất cả những tù nhân chuyên viên xuất sắc mà y có thể quay
tụ được vào làm việc trong Phòng Âm thính. Để trả đũa, Yakonov cũng nhặt nhạnh tất
cả những chuyên viên tài giỏi trong nhà tù về làm vệic trong Phòng số bảy do y lập ra
và điều khiển. Yakonov còn đêm tất cả những dụng cụ khoa học tốt nhất tập trung về
Phòng số bảy. Trong trận tranh chấp quyết liệt và tàn nhẫn này, Roitman có vẻ yếu
thế hơn.
Yakonov bắt buộc phải lập lên Phòng Nghiên cứu số bảy vì y không thể để cho
Roitman làm hết mọi việc ở ngay thiết bị Viện Nghiên cứu mà y được cử làm giám
đốc. Y phải chứng tỏ cho thượng cấp biết là y mẫn cán, y có khả năng. Kể từ ngày đó
Yakonov có thể có mặt trong Viện ban đêm hay không tùy ý. Và người tù cô đơn với
đôi mắt nhiều tròng trắng hơn tròng đen, viên cựu đại tá từng giữ chức giám đốc Sở
Liên lạc đặc biệt, người tù từ chối không chịu ăn uống, tạm đè nén hứng thơ để làm
- việc như một tên nô lệ cho đến hai giờ sáng trong Phòng số bảy. Chỉ có một mình
Mamurin có thể làm việc được nhiều giờ như thế vì ý là tù nhân duy nhất không bị
viên chức canh gác trong nhà tù này.
nguon tai.lieu . vn