Xem mẫu
- Phần 17
Trong số những người tiến sang lãnh thổ Đức có quyền cướp đồ và gửi đồ về nhà,
những kẻ trong cơ quan SMERSH có nhiều điều kiện để vơ vét nhất. Bọn này cũng ở
trên mặt trận nhưng luôn luôn ở ngoài tầm súng của địch, không sợ bị phi cơ địch tấn
công, họ ở những nơi mà cán bộ hành chánh, bọn công an chưa kịp tới. Những sĩ quan
SMERSH lại hoạt động bí mật. Không ai dám kiểm soát những quân xa được niêm
phong của họ, họ có quyền xung công những tài sản lớn của địch để giữ cho chính
phủ và họ tha hồ chiếm công vi tư. Từng đoàn quân xa, từng đoàn tàu, từng đoàn phi
cơ chuyển đồ của SMERSH từ mặt trận về. Các sĩ quan ấp úy chỉ cần tinh khôn một
chút là có thể gửi về cả ngàn ký, sĩ quan cấp tá có thể gửi về cả chục ngàn ký và
Abakumov gửi về cả triệu ký.
Abakumov hiện có nhiều vàng, y gửi số vàng này ở Thụy Sĩ nhưng y cũng biết rõ
hơn ai hết là số vàng lớn này vẫn không thể cứu được y thoát chết nếu y mất chức
Tổng trưởng Bộ An ninh. Vàng bạc không còn giá trị gì cả khi người ta đã bị mất đầu.
Trong cơn say sưa vơ vét tài sản của những ngày chiến tranh gần kết liễu ấy
Abakumov không thể điềm nhiên khoanh tay nhìn bọn sĩ quan thuộc cấp thi nhau gửi
đồ về nhà cho vợ con chúng, y đặc phái những đội đặc biệt đi tìm đồ vật quý giá. Y
ngẩn ngơ xuất thần trước hai va ly đừng đầy dây thắt lưng da. Y cũng bị làn sóng
tham lam ấy cuốn đi.
Nhưng cái tài sản vơ vét được đó cũng là một tai họa cho Abakumov. Nó vô du
nguyện đối với y và lúc nào y cũng sợ tội trạng của y bại lộ. Thực ra chẳng có ai dám
tố cáo Tổng trưởng Bộ An ninh nắm quyền sinh quyền sát trong tay nhưng nếu vị
chúa tể biết tội đó thì tình hình khác hẳn. Nếu Abakumov gửi những vật quý ấy về
cho Beria hay Stalin thì không sao, nhưng y lại giấu đi làm của riêng. Đó là một tội
trạng không thể tha thứ được. Nhiều lúc Abakumov hối hận vì đã quá tham lam nhưng
bây giờ muộn quá mất rồi.
Abakumov đến vào lúc 2 giờ 30 sáng tới 3 giờ 30 sáng y vẫn còn đi đi lại lại quanh
quẩn ở phòng đợi, hai bàn tay ướt đẫm mồ hôi nắm quyển sổ mới tinh y mang theo để
ghi chỉ thị, sự hồi hộp mỗi lúc được tăng mạnh hơn trong y, hai vành tai y bắt đầu
bỏng cháy. Đêm nay, đặc biệt là đêm nay, Abakumov ước mong Stalin sẽ hỏi đến giàn
máy điện thoại đặc biệt và y chưa nghĩ được lời nói dối nào cho xuôi cả.
Nhưng cánh cửa gỗ dày đã mở, nhưng chỉ mở hé. Poskrebychev từ trong thò đầu ra,
giơ tay vẫy y. Abakumov bước vào, cố gắng đi cho thật nhẹ. Không dám mở cánh cửa
lớn hơn, y lên tấm thân hộ pháp của y qua khe cửa. Chưa qua hẳn cửa, y đã hỏi vào:
"Kính chào Iosif Vissarionovich, cho phép tôi được vào."
Vì quá hấp tấp y đã quên hắng giọng trước từ bên ngoài. Giọng nói của y khàn khàn
nghe thiếu âm thanh trung thành.
Stalin bận bộ áo khuy vàng chói và nhiều huy chương trên ngực, nhưng không có
cầu vai đang ngồi viết ở bàn. Viết xong hàng chữ Stalin mới ngẩng lên chiếu đôi mắt
cú vọ nhìn người vừa văn phòng.
Người không nói gì cả.
Một dấu hiệu xấu. Người không nói nửa tiếng.
Người lại cúi xuống viết.
Abakumov đóng cánh cửa sau lưng lại nhưng không dám tiến lên khi chưa nhận
được một cái gật đầu hoặc một cử chỉ cho phép đến gần. Y đứng đó người hơi cúi về
- đằng trước, hai tay để xuôi bên mình, nụ cười chào mừng kính cẩn nở trên môi. Hai tai
y như bị lửa đốt.
Abakumov từng đến cả hai văn phòng của Lãnh tụ – văn phòng chính thức để làm
việc ban ngày và căn phòng nhỏ ban đêm này.
Văn phòng chính thức ở trên lầu rộng lớn hơn nhiều, sáng sủa hơn, có ánh nắng và
nhiều cửa sổ như mọi cửa sổ, có những tủ sách trong xếp đầy những quyển sách bìa
màu ghi lại những tư tưởng của nhân loại cùng những nền văn minh do loài người tạo
được kể từ ngày trái đất có loài người. ở đó trên bức tường cao có bức hình được
Lãnh tụ ưa thích nhât, trong hình Lãnh tụ bận bộ quân phục Thống chế mùa đông. Ở
đó có nhiều ghế lớn ghế nhỏ, đi văng, bàn vuông, bàn tròn. Đó là nơi Lãnh tụ tiếp
những phái đoàn ngoại giao hoặc mở hội nghị. Đó cũng là nơi Lãnh tụ ngồi chụp hình.
Ở đây, trong nhiều văn phòng ban đêm này, đồ vật không có nhiều, không có hình
treo trên tường và những ô cửa sổ đều nhỏ xíu. Bốn kệ sách thấp kê sát vào những
tấm vách lát gỗ và một bàn viết kê ở cuối phòng. Góc phòng đối diện với bàn viết kê
một giàn máy hát và một giá đựng đĩa hát. Ban đêm Stalin thích nghe lại những bài
diễn văn của chính y được thâu vào đĩa.
Abakumov kính cẩn cúi mình và chờ đợi.
Stalin vẫn tiếp tục viết. Y viết với sự nhận thức là những dòng chữ này sẽ đi thẳng
vào lịch sử. Ánh đèn đặt bàn chỉ chiếu sáng những trang giấy, những bóng đèn giấu
trong tường trên cao chỉ soi lờ mờ. Stalin không viết luôn tay, thỉnh thoảng y ngừng
viết và đưa mắt nhìn lên trần, hoặc nhìn vào tường, hoặc nhìn Abakumov với vẻ mặt
như khó chịu vì sao gã này lại đứng đó. Nhiều lúc Stalin ngừng viết, nghiêng tai như
đang nghe như một tiếng gì đó mặc dù trong phòng không có qua một tiếng động nhỏ.
Không ai biết vì sao, lúc nào, từ bao giờ Stalin bắt đầu có thái độ chỉ huy này? Mỗi
cử chỉ nhỏ nhặt của y đều mang ý nghĩa, một hiệu lệnh. Ngày xưa chú Koba – ở miền
Caucase người ta gọi Stalin bằng cái tên ấy – chắc cũng giơ tay, cũng nhíu mày, cũng
nhìn người ta y như bây giờ nhưng ngày xưa những cái đó chẳng làm cho ai kính sợ,
không ai nhìn thấy những mệnh lệnh nằm trong những cử chỉ ấy. Chỉ sau khi số người
bị bắn chết lên tới một con số nào đó người ta mới bắt đầu nhìn thấy ở những cử chỉ
này những ý nghĩa ghê gớm của chúng. Người ta thấy chúng là những mệnh lệnh,
những quyết định, những cảnh cáo, những hài lòng hoặc bất mãn. Và nhận thấy mọi
người nhận thấy như thế về mình, Stalin tự nhận xét y, và y cũng thấy trong cử chỉ,
trong mắt nhìn của y có những ý đe dọa ngầm, y tìm cách kết thúc chúng, do đó mỗi
ngày những cử chỉ của y càng ảnh hưởng mạnh hơn đến những người quanh y.
Sau cùng Stalin nghiêm khắc nhìn Abakumov. Y ra lệnh bằng tẩu thuốc gắn trên
miệng cho biết Abakumov được ngồi trên chiếc ghế nào.
Abakumov run lên, đi tới và ngồi xuống – nhưng y chỉ ngồi mớm trên mép ghế để
có thể đứng dậy được ngay khi cần đến.
"Sao?"
Stalin miệng hỏi, tay xếp lại những tờ giấy trên bàn.
Giây phút chờ đợi đã đến.
Đây là lúc Abakumov biết y phải nắm lấy cơ hội đừng để vuột mất, y phải nói, nói
nhiều, nói liên tiếp để cho Lãnh tụ không còn đủ thì giờ đặt câu hỏi. Y hắng giọng và
bắt đầu nói, giọng y, đúng với giọng để báo cáo, không lên bổng xuống trầm, nó đều
đều, trơn tru, như học trò đọc bài. (Sau đó Abakumov có thể tự sỉ nhục y vì thái độ
- quỵ lụy, khiếp nhược quá đáng của y trước mặt Stalin, nhất là những lời hứa bừa bãi
của y, nhưng y không biết rằng Nhà Độc tài còn càng có vẻ lãnh đạm với y chừng nào,
càng không đòi hỏi gì ở y, y càng sốt sắng phơi bày gan ruột, càng hứa hẹn nhiều và
càng ngày y càng rơi sâu xa hơn trong vực thẳm khiếp nhược và hèn hạ.)
Trong những cuộc báo cáo ban đêm này cuả Abakumov, Stalin có vẻ chú trọng nhất
đến tình trạng những nhóm chống đối được phát giác. Abakumov biết như thế và
trọng tâm bản báo cáo của y đặt vào việc phát giác những nhóm chống đối. Đêm nay y
báo cáo với nhà độc tài về nhóm sĩ quan chống đối chế độ trong Trường Võ bị Frunze.
Y có thể nói nhiều và nói vào chi tiết vụ này.
Nhưng thoạt đầu, y trình bày những thắng lợi, những tiến triển như ý, khách quan –
chính y cũng không biết chắc những thắng lợi, tiến bộ này có thật hay chỉ là những
chuyện bày đặt do bọn thuộc viên báo cáo lên y – đa số những tiến bộ này nằm trong
kế hoạch ám sát Tito. Y nghiêm trọng báo rằng một trái bom nổ chậm sẽ được đặt
dưới du thuyền của Tito trước khi du thuyền này rời bến đưa Tito đến hải đảo Brioni.
Stalin ngẩng đầu lên, đưa tẩu thuốc tắt vào miệng, hút vài hơi không có khói. Người
không tỏ vẻ gì là chú ý đến âm mưu này nhưng Abakumov cũng đủ thông minh và đủ
biết về người để biết rằng y đã nói đúng vào chuyện phải nói.
"Còn Rankovich? Stalin hỏi."
"Thưa, Tito, chúng ta sẽ lo cho bọn Rankovich, cả tên Kardel, tên Moja Pijade… Cả
bọn chúng sẽ tan xác. Việc đó sẽ xảy ra vào cuốn mùa xuân năm nay."
(Trái bom nổ chậm được nói là sẽ giết Tito trên nguyên tắc cũng làm tan xác cả
thủy thủ đoàn của chiếc du thuyền, nhưng Abakumov không đề cập gì đến chuyện và
Người Bạn Thân Nhất của Các Thủy Thủ cũng không hỏi gì đến.)
Nhưng ngay lúc này người đang nghĩ gì trong lúc người ngậm tẩu thuốc tắt trên
miệng, nhìn mà như không thấy vào bộ mặt kính cẩn của Abakumov qua đầu mũi
khoằm của Người?
Tất nhiên là lúc đó Người không nghĩ đến sự kiện Đảng đã công khai lên tiếng
không chấp nhận, không sử dụng những hành động khủng bố cá nhân. Chính người
nữa, người cũng từng tuyên bố là không bao giờ người dùng đến thủ đoạn khủng bố.
Trong lúc nhìn bộ mặt no đủ, đôi má phị và đỏ hồng của gã đàn ông hãy còn trẻ ngồi
trước mặt, người bận nghĩ đến cái chuyện vẫn làm người suy nghĩ mỗi khi người
nhìn một tên dưới quyền.
Ý nghĩ thứ nhất của người luôn luôn là câu hỏi: Tên này đáng cho mình tin đến
chừng nào?
Và ý nghĩ thứ hai là: Đã đến lúc mình phải thanh toán tên này chưa?
Stalin biết rõ tội trạng của Abakumov trong chiến tranh, biết Abakumov rất giàu và
gửi tài sản ở ngoại quốc, nhưng chưa thấy cần trừng phạt y. Stalin không bất mãn vì
chuyện Abakumov làm giàu cho cá nhân y, trái lại là khác, nhà độc tài thích dùng những
tên tham lam như thế. Bọn tham lam bao giờ cũng dễ sai khiến hơn, dễ trừng phạt hơn
nữa. Những kẻ không tham, không cần gì cả luôn luôn là bọn khó trị. Stalin đã chán
ngấy những kẻ cam phận chịu nghèo. Lý tưởng của những kẻ chịu nghèo này là một
cái gì Stalin không bao giờ hiểu.
Tuy vậy Stalin cũng vẫn không thể tin được Abakumov. Đa nghi là bản tính của
Iosif Djugashvili. Không tin ai hết là phương châm xử thế của Stalin.
Người không tin cả bà mẹ đẻ ra người. Người không tin ở vị Chúa Trời mà người
- từng cúi đầu dưới chân trong suốt mười một năm trời khi người còn trẻ. Sau đó, người
không tin những đồng chí cùng đảng với người, nhất là những kẻ giỏi nói, nói hay.
Người không tin ở bọn nông dân trừ trường hợp họ bị cưỡng bách lao động và năng
suất của họ được kiểm soát chặt chẽ. Người không tin bọn công nhân trừ khi năng
suất của họ có tiêu chuẩn và thời hạn nhất định phát đạt được. Người không tin bọn
trí thức: Bọn này luôn luôn chống đối và phá hoại. Người không tin bọn tướng lãnh và
binh sĩ: Bọn này chỉ chịu chiến đấu vì sợ những tiểu đoàn trừng giới và những giàn
súng máy bắn bở ở hậu tuyến. Người không tin những người thân. Cả vợ người,
những tình nhân của người, cũng không được người tin. Người không tin con cháu. Và
luôn luôn những sự kiện xảy ra cho người thấy rằng người không tin như vậy là đúng.
Trong suốt cuộc đời đa nghi ấy, Stalin chỉ tin có một người, một người mà thôi, một
người có thể là bạn tri kỷ cũng có thể là kẻ thù bất đội trời chung. Một mình trong số
những kẻ tử thù của Stalin, trước sự nhìn xem đầy hồi hộp, kích động của toàn thế
giới, người ấy đã quay mặt lại với Stalin, đã long trọng mời Stalin làm bạn.
Và Stalin đã tin người đó.
Người đó là Adolf Hitler.
Stalin đã ngồi yên nhìn ngắm một cách thích thú khi quân đội của Hitler chiếm Ba
Lan, Pháp quốc, Bỉ quốc, khi những đoàn phi cơ của Hitler bay đen kịt trên nền trời
Anh quốc, Molotov sợ hãi bay về từ Bá Linh. Những sĩ quan tình báo tới tấp báo cáo
Hitler đang tập trung quân đội để mở mặt trận miền Đông. Hees bay sang Anh quốc.
Churchill khuyến cáo Stalin về một trận tấn công vào lãnh thổ Nga sắp xảy ra. Mọi
người la hoảng chiến tranh sắp đến, Đức sắp tấn công Nga. Bọn đàn bà đi chợ bàn tán
về chiến tranh. Riêng một mình Stalin vẫn thảnh thơi vô tư lự.
Stalin tin tưởng ở Hitler.
Lòng tin ấy, chỉ còn thêm chút nữa, là làm cho Stalin mất đầu.
Sau lần tin người duy nhất ấy, Stalin hoàn toàn không tin bất cứ ai, không bao giờ
còn tin ai.
Abakumov có thể tỏ ra cay đắng vì tình trạng không được tin cẩn ấy, nhưng y
không dám. Theo y, Stalin đã hành động không đứng đắn khi cho gọi Petro Popivod, gã
nhà báo khù khờ ấy đến để ra chỉ thị mở chiến dịch báo chí đả kích Tito, Stalin không
nên từ chối trao công tác ám sát Tito cho những đặc viên của Abakumov đã khổ công
tuyển chọn chỉ vì lý lịch của bọn này không mấy minh bạch. Lẽ ra Stalin phải tin mới
phải. Kế hoạch ám sát Tito mà y đang báo cáo đây là do chính Stalin đặt ra. Do đó y
không thể biết chắc được kết quả sẽ ra sao nhưng y vẫn cứ phải trả lời về sự thành
công hay thất bại của kế hoạch.
Nhưng Abakumov cũng biết rõ tình hình ông chủ của y. Y biết người ta không nên
làm việc hết cho mình Stalin, không nên trổ hết tài ba, bản lãnh với Stalin. Stalin không
chấp nhận thất bị nhưng cũng không chấp nhận cho người khác thành công. Người
khác càng thành công rực rỡ chừng nào càng bị Stalin thù ghét và càng sớm chết chừng
ấy. Sự thành công của người khác làm cho Stalin cảm thấy giá trị cùng tài ba của mình
kém đi. Không ai khác có quyền thành công trừ Stalin. Với Stalin, chỉ có Stalin mới có
thể thành công mà thôi.
Vì vậy, mặc dù luôn luôn tỏ ra cố gắng tận tình, Abakumov thực sự chỉ làm nửa vời
– tất cả mọi người khác cũng đều như thế.
Như ông vua Midas trong truyện Ngụ ngôn Thần thoại sờ tay vào vật gì là vật đó
- biến ra vàng, Stalin làm cho tất cả biến thành tầm thường.
Nhưng đêm nay Abakumov thấy rằng nét mặt Stalin có vẻ tươi lên khi nghe y báo
cáo. Trình bày xong những chi tiết về kế hoạch ám sát Tito, Abakumov chuyển ngay
sang nhóm chống đối ở Trường Võ bị Frunze, rồi đến nhóm chống đối ở Trường Thần
học, y nói liên tiếp, nói tới tấp. Y tránh không nhắc đến hai tiếng điện thoại và tránh
nhìn cả vào chiếc máy điện thoại để cho Lãnh tụ khỏi nhớ đến.
Nhưng Stalin đang nhớ…. Ngay lúc đó người đang nhớ đến một chuyện gì đó và
chuyện ấy có thể là giàn máy điện thoại đặc biệt. Trán người nhăn lại vì nhiều nếp
răn và gân mũi người chun lại. Người chiếu cặp mắt sắc nhìn vào mặt Abakumov
(ông Tổng trưởng làm ra vẻ thẳng thắn, lương thiện) nhưng rồi người không nhớ
được. Ý nghĩ mơ hồ trôi tuột đi trong óc người. Rồi những nếp nhăn trên trán người
mờ đi.
Stalin thở dài, nhồi thuốc vào tẩu và đốt hút.
"À," người đã nói với việc thở ra làn khói đầu tiên. Người đã nhớ, nhưng mà là nhớ
một chuyện khác chứ không phải chuyện người muốn nhớ lại hồi nãy. "Gomulka bị
bắt chưa?"
Mới đây Gomulka đã bị cách chức và lập tức rơi ngay vào vực thẳm.
"Thưa, đã"
Abakumov nói ra như người vừa trút được gánh nặng, y nhô người trên ghế (việc
bắt Gomulka đã được báo với Stalin, chắc là người chỉ hỏi để kiểm soát). Bắt người
là công tác dễ nhất trong những công tác mà Bộ An ninh phải làm.
Ấn một nút điện trên bàn Stalin bật sáng đèn phòng. Những bóng đèn điện trong
tường sáng lên. Stalin đi xa bàn viết và với tẩu thuốc thả khói sau lưng, bắt đầu đi đi
lại lại trong phòng. Abakumov hiểu rằng cuộc báo cáo của y đã đến lúc Lãnh tụ ra chỉ
thị. Y mở quyển sổ ghi mới tinh để trên lòng và rút viết máy ra chờ sẵn. Lãnh tụ ưa
thấy những chỉ thị của mình được cẩn thận ghi lại.
Nhưng Stalin đi tới chỗ đặt giàn máy hát đĩa rồi đi trở lại, vừa đi vừa hút thuốc,
không có câu nào. Người như đã hoàn toàn quên Abakumov. Khuôn mặt có làn da xám,
điểm những vết sẹo đậu mùa của Stalin nhăn lại trong một cố gắng nhớ lại thiểu não.
Khi người đi ngang mặt Abakumov, y nhìn thấy hai vai người gù xuống làm chón có
vẻ thấp hơn, nhỏ bé hơn. Và – mặc dù Abakumov vẫn sợ hãi gạt bỏ những ý nghĩ
tương tự ra ngay khỏi óc, vì sợ có thứ máy móc bí mật nào giấu trong tường ghi nhận
được chăng – khi nhìn thấy Lãnh tụ gù xuống như thế, Abakumov nghĩ rằng người
chưa chắc đã sống được nổi mười năm nữa. Người sắp chết. Abakumov mong mỏi
cái chết của người đến thật nhanh. Tất cả những người sống gần Lãnh tụ đều thầm
nghĩ rằng sau khi người chết, họ sẽ được sống một đời tự do, dễ dãi và sung sướng.
Stalin cảm thấy khó chịu nhiều vì sự quên lãng này. Người vừa nhờ rằng có một
chuyện gì đó cần hỏi Abakumov nhưng không sao nhớ ra đó là chuyện gì. Bộ óc của
người dường như đã từ chối không chịu làm việc. Trong cơn bất lực, Stalin không biết
phải ra lệnh cho phần óc nào làm việc để có thể nhớ lại.
nguon tai.lieu . vn