Xem mẫu
- Phần 15
Sinh nhật của người hùng
Căn phòng nhỏ hẹp và trần phong thấp. Phòng có hai cửa ra vào nhưng không có cửa
sổ, tuy vậy không khí trong phòng vẫn mát và dễ chịu. Một kỹ sư đặc biệt thường
trực chịu trách nhiệm giữ cho không khí trong phòng này lưu thông và trong sạch. Một
phần lớn của căn phòng bị choán vì chiếc ghế dài có thành tựa bọc da nâu trên có
những chiếc gối dựa bọc vải hoa. Trên tường, hai bóng đèn điện hồng nằm trong lồng
kiến mờ soi sáng căn phòng.
Trên chiếc ghế dài có một người đàn ông nửa nằm nửa ngồi. Người đàn ông này là
người mà khuôn mặt, dáng người đã được điêu khắc trên đá, vẽ bằng dầu, bằng màu
nước, bằng phấn, bằng sơn, bằng bột, bằng chì, bằng than với đủ thứ màu sắc, được
đắp bằng những viên đá, viên sỏi, bằng vỏ sò vỏ ốc, bằng gạo, bằng những hạt đậu
nành, bằng ngói, được chạm trổ trên ngà, trên gỗ quý, trên sừng, được đan bằng sợi,
trồng bằng cỏ, được hợp lại bằng những đoàn phi cơ bay trên trời, được chụp hình,
được quay phim. Trong khoảng ba tỷ năm dài của trái đất này chưa có người nao được
người đời tạo hình nhiều đến như người đàn ông này.
Y nằm đó hai chân để trên cao, hai chân y đi đôi giày da cao cổ, kiểu giày của người
Caucase, làn da mềm như giày chỉ là đôi vớ dày. Y bận chiếc áo làm việc có bốn túi
lớn, hai túi ở ngực, hai túi bên dưới – chiếc áo đã cũ, đã được mặc nhiều lần, một
trong những chiếc áo bốn túi được y mặc kể từ thời nội chiến và từng được y thay
bằng bộ quân phục Thống chế kể từ sau trận Stalingrad.
Tên người đàn ông này được đăng trên báo chí, được cả ngàn xướng-ngôn-viên của
cả ngàn đài phát thanh trên thế giới nhắc đến bằng hàng trăm thứ tiếng, được hô lớn
bởi những diễn giả ở đầu và cuối những bài diễn văn, được hát bởi những giọng ca
trong trẻo của những em nhi đồng, được thốt lên từ miệng những vị Giám mục. Tên
người đàn ông này thấp thoáng trên môi những tù binh hấp hối, giữa những hàm răng
tê cóng của những người tù rạc trong những trại tập trung. Tên người đàn ông này
cũng được đặt cho vô số những thị trấn, những công viên, đường phố và đại lộ, những
lâu đài, những đại học đường, trường học, bệnh viện, núi, sông, xưởng máy, hầm mỏ,
nông trường, công xã, chiến hạm, tàu phá băng sơn, tàu đánh cá, ấu trĩ viện và được
một nhóm ký giả báo chí Mạc Tư Khoa đề nghị đặt cho sông Volga và dùng để gọi
mặt trăng.
Y chỉ là một người đàn ông hơi già với một cái cằm chẻ đôi hơi xệ – trong những
bức hình chụp y người ta không bao giờ thấy cái cằm xệ này – với cái miệng đượm
mùi thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ, những ngón tay y mập và có dầu thường để lại những vết
như vết mỡ trên những trang giấy mỏng. Hôm qua và hôm nay y không được dễ chịu
và khoẻ lắm: Ngay cả trong bầu không khí ấm áp của căn phòng y vẫn cảm thấy lành
lạnh ở lưng và hai vai, trên vai y choàng chiếc khăn lông lạc đà màu nâu.
Y không bận rộn vì bất cứ chuyện gì. Y ngồi đó lật giở từng tờ một quyển sách
nhỏ bìa da nâu với vẻ hài lòng hiện trên nét mặt. Y nhìn với một vẻ chú ý lên những
tấm hình in trong quyển sách và thỉnh thoảng, y đọc vài đoạn trong sách mặc dù y đã
dần thuộc lòng trọn quyển sách này. Và y lần giở từng trang. Quyển sách này càng
thêm tiện lợi vì khuôn khổ của nó nhỏ bỏ vừa vào túi áo ngoài của mọi người, nó có
thể đi theo người ta bất cứ đâu trong suốt cả một đời. Nó gồm hai trăm năm mươi
trang và được in bằng chữ khá lớn và rõ để cho những người đã già mắt kém hoặc
- những người ít học cũng có thể đọc được dễ dàng. Nhan đề của nó được in trên bìa
bằng chữ vàng: Tiểu sử Iosif Vissarionovich Stalin.
Những dòng chữ rất thường, dễ hiểu và lương thiện trong quyển sách này tất nhiên
là phải có tác động đến trái tim người đọc. Tài ba về chiến thuật – chiến lược thần kỳ
của Stalin, sự nhìn xa thấy rộng của Stalin…tất cả đều được ghi lại trong quyển sách
này. Kể từ năm 1918, y đã trở thành một phụ tá đắc lực của Lênin. (Đúng, đúng,
chuyện này đúng). Người lãnh đạo cuộc cách mạng bị bối rối vì tình trạng lộn xộn
tưởng như không sao giải quyết nổi, chính là nhờ Stalin mà cách mạng đã toàn thắng.
(Đúng, thật đúng.) Chúng ta may mắn vô cùng nên mới có được một vị lãnh tụ tài ba và
giàu kinh nghiệm – Đại Lãnh Tụ Stalin – dẫn dắt trong những ngày khó khăn, bi thảm
đó. (Đúng vậy, dân tộc này quả là may mắn.) Tất cả chúng ta đều có dịp thấy rõ sự
sáng suốt vô biên của người, tinh thần quang minh tuyệt vời của người. (Đúng vậy,
không nên khiêm tốn giả dối, ta phải nhận đó là sự thực.) Tình yêu thương đồng bào
của người. Lòng nhân ái của người. Khả năng thông cảm sâu xa của người. Bản tính
khiêm tốn kỳ diệu của người. (Khiêm tốn –phải đấy, mình khiêm tốn thật.)
Tốt. Và họ nói sách này bán chạy lắm. Ấn bản thứ hai này in năm triệu cuốn. Nhưng
với một nước rộng như thế này thì con số đó vẫn còn là quá nhỏ. Ấn bản thứ ba phải
in ít nhất là mười triệu cuốn, hoặc hai mươi triệu cuốn. Sách phải bán thẳng cho các
xưởng may, trường học, nông xã.
Y cảm thấy hơi lợm giọng. Đặt quyển sách xuống, y bóc vỏ một trái cam tươi trên
mặt bàn tròn và cắn vào trái cam. Nếu y mút chất nước của trái cam, y sẽ hết lợm
giọng và miệng y sẽ dễ chịu vì chất nước chua chua ngọt ngọt của trái cam để lại.
Y nhận thấy, nhưng y sợ không dám nhìn nhận, là sức khoẻ của y mỗi tháng một
kém đi. Y có những phút quên lãng. Y khổ sở vì chứng lợm giọng buồn nôn. Y không
đau đớn gì rõ ràng cả nhưng một sự mệt mỏi khó chịu thường giữ y ngồi dính xuống
ghế nhiều giờ đồng hồ trong một ngày. Ngay cả việc ngủ cũng không làm cho y dễ
chịu. Sau giấc ngủ, y tỉnh dậy và vẫn bải hoải, rã rượi, bần thần như trước khi ngủ,
đầu y vẫn nặng và y không còn muốn đi lại, làm việc.
Ở miền Caucase, một người đàn ông bảy mươi tuổi vẫn còn là trẻ, vẫn còn leo núi,
cưỡi trên lưng ngựa, trên bụng đàn bà. Và xưa kia, y mạnh khoẻ biết chừng nào. Y
vẫn tin chắc là y sẽ sống đến chín mươi tuổi. Có chuyện gì đã xảy ra? Vì sao y lại
thay đổi, lại yếu đi đến thế này? Trong khoảng những năm gần đây Stalin không còn
có thể hưởng thụ cái khoái lạc lớn nhất trong đời y nữa - cái khoái lạc đó là việc ăn
uống. Nước cam tươi làm cho lưỡi y rát, caviar dính vào kẻ răng y, và y ăn với một vẻ
lãnh đạm không thấy gì là ngon cả những món ăn nhiều ớt, nhiều tiêu của miền
Georgia. Y cũng không còn khoái uống rượu như xưa nữa – mỗi lần uống rượu y lại
nhức đầu. Và chỉ cần nghĩ đến đàn bà thôi cũng đã đủ làm cho y kinh tởm.
Vì đã quyết định sẽ sống đến năm chín mươi tuổi, Stalin buồn rầu nghĩ rằng những
năm sắp tới sẽ không đem lại cho y được một nỗi vui riêng nào, y sẽ phải chịu đựng
hai mươi năm trời nữa vì hạnh phúc của nhân loại.
Một ông bác sĩ đã cảnh cáo y như thế – (và ông này đã bị bắn chết chính vì thế) –
Những ông nghe run rẩy trong bàn tay của những nhân vật nổi tiếng nhất trong giới y
khoa ở Mạc Tư Khoa. Những ông này không bao giờ tiêm thuốc cho Stalin. (Chính
Stalin đã ra lệnh không được dùng thuốc chích). Họ chỉ dùng khoa chạy điện và
khuyến cáo y dùng nhiều trái cây hơn.
Ba ngày trước đây là ngày kỷ niệm sinh nhật thứ bảy mươi rực rỡ của y. Họ đã
- thực hiện lễ kỷ niệm nay từng giai đoạn: Trong đêm hai mươi Traicho Kostov đã bi
đánh đến chết, chỉ sau khi ánh mắt của tên hèn hạ ấy đã mờ đi, lạc thần những cuộc
liên hoan mới thực sự bắt đầu. Trong ngày hai mươi mốt có một cuộc lễ lớn được tổ
chức ở Đại Hí viện Bolshoi, Mao Tse-Tung và Ibarruri cùng nhiều đồng chí khác đọc
diễn văn mừng thọ ở đây. Và sau đó là một bữa tiệc lớn, rồi tiếp ngay sau đó là một
bữa tiệc nhỏ. Họ uống những chai rượu quý được cất trong hầm rượu Y Pha Nho để
dành vào những dịp đặc biệt này. Y uống rượu với sự thận trọng, vừa uống vừa để ý
quan sát ngầm những khuôn mặt đỏ khê quanh y. Sau nữa, y và Lavrenty uống rượu
Kathetinskoye và hát những bài ca miền Goergia. Trong ngày hai mươi hai có một cuộc
tiếp tân ngoại giao đoàn vĩ đại. Trong ngày hai mươi ba, y ngồi coi hai cuốn phim Trận
chiến Stalingrad của Đạo diễn Virta (phần hai) và phim Năm 1919 khó quên của Đạo
diễn Visnhevsky. Cả hai phim này đều có hình ảnh y do hai diễn viên điện ảnh đóng.
Mặc dù việc ngồi coi phim làm cho y mệt mỏi y vẫn thích hai cuốn phim này. (Cả
hai đạo diễn đều được lãnh giải Stalin.) Hiện giờ vai trò của y trong cuộc nội chiến
cũng như trong trận đại chiến Thế giới thứ hai, trận chiến tranh thần thánh bảo vệ
quy hoạch, đã được diễn tả đúng và đầy đủ. Người ta đã thấy rõ ngay từ xưa y đã là
một nhân vật vĩ đại đến là chừng nào. Y nhớ rằng y từng nhiều lần cảnh cáo và sửa
lỗi cho Lênin. Lênin quá cả tin và đôi khi khờ khạo. Và đạo diễn Visnhevsky đã làm
đúng khi để cho y nói trong phim: “Bất cứ người công nhân nào cũng có quyền nói lên
ý kiến của mình. Có ngày chúng ta sẽ ghi điều ấy vào hiến pháp”. Việc đó có ý nghĩa
gì? Ý nghĩa của việc đó là trong khi ở Yudenich để chỉ huy cuộc bảo vệ Petrograd,
Stalin đã nghĩ đến việc soạn thảo một hiến pháp dân chủ trong tương lai. Thời đó tình
trạng xã hội được gọi là “vô sản chuyên chế” – nhưng đâu có quan hệ gì, chỉ biết là
chế độ đó đúng, chế độ đó mạnh.
Và trong cuốn phim Trận chiến Stalingrad của Virta, đoạn phim ban đêm Stalin tâm
sự với một người bạn là đoạn phim tốt, thành công. Thực ra, suốt đời Stalin, y chưa
từng bao giờ có một người bạn nào lý tưởng như vậy cả, bởi vì loài người xảo trá và
không bao giờ thành thực, nhưng khi ngồi coi đoạn phim cảm động đó chiếu trên màn
ảnh, Stalin vẫn cảm thấy nghẹn ngào trong cổ họng và nước mắt ứa ra trên mi – (tâm
hồn y còn là tâm hồn nghệ sĩ nữa) – và y thèm khát được có một người bạn thẳng
thắn, không ích kỷ, một người bạn mà y có thể nói hết tất cả những gì y nghĩ ngợi
trong những đêm dài.
Nhưng dù không có cũng không sao. Quần chúng bình dân yêu mến Lãnh tụ, hiểu y
và yêu y, vậy là đủ rồi – và đó là tình trạng có thật. Y nhìn thấy sự yêu mến và thông
cảm ấy hiển hiện trên những trang báo, trên phim ảnh, qua những tặng phẩm sinh
nhật. Ngày sinh nhật của y đã trở thành một ngày quốc khánh, và đó là một điều làm
cho y ấm lòng. Không biết bao nhiêu là điện văn chúc thọ được gửi đến. Từ những
viện, những cơ sở, những tổ chức, những xưởng máy và những tư nhân. Nhật báo
Pravda đã xin phép được đăng tải mỗi ngày hai cột báo những điện văn này. Họ có thể
đăng hết năm này qua năm khác mà vẫn không bao giờ hết được điện văn. Được lắm,
đó cũng là một ý kiến hay.
Và những tặng phẩm chất đầy mười gian phòng trong Viện Bảo tồn Cách mạng.
Để khỏi ngăn cản những công dân Mạc Tư Khoa đến đó chiêm ngưỡng những tặng
phẩm ban ngày, Stalin đã tới đó coi vào ban đêm. Đó là tác phẩm, chế tạo phẩm của cả
ngàn tay thợ khéo, đó là những tặng phẩm đẹp nhất thế giới, những tặng phẩm hằng
hà sa số được đặt, bày, treo, dựng trước mắt y. Nhưng ở đó y cũng cảm thấy lãnh
- đạm, chán chường. Những tặng phẩm này có ích gì cho y? Y coi thường tất cả và chán
nản tất cả. Khung cảnh Viện Bảo tồn này gợi trong ký ức y một kỷ niệm khó chịu
nào đó, một khó chịu mơ hồ thường ám ảnh y ít lâu nay. Y không sao biết rõ được
nguyên nhân nó, y không nắm được nó, y chỉ thấy nó mơ hồ ẩn hiện và làm cho y khó
chịu. Y đi qua ba gian phòng đầy tặng phẩm nhưng không chọn qua một món nào hết.
Rồi y đứng lại trước một giàn máy Tivi lớn hơn hàng chữ khắc “Nhân viên Cheka kính
tặng Đồng chí Stalin vĩ đại”. [2]
(Giàn Tivi này được chế tạo ở Viện Mavrino – đây là giàn Tivi duy nhất, lớn nhất
được chế tạo ở Liên bang Xô Viết.)
Rồi y quay gót và đi ra.
Những ngày liên hoan trôi qua như thế. Y chẳng cảm thấy có gì là vui, là phấn khích
hết.
Có một cảm giác gì đó nặng nề trong lồng ngực làm cho Stalin lo âu và thắc mắc,
cảm giác đó có từ lúc y đứng trong Bảo tồn viện, có một cái gì trong đó đã gây cho y
cái cảm giác khó chịu ấy nhưng y vẫn không biết rõ vì cái gì.
Quần chúng muốn y, điều đó đúng, đúng lắm nhưng quần chúng không biết nhìn xa.
Làm cách nào sửa được khuyết điểm ấy? Chế độ cộng sản sẽ được thực hiện nhanh
chóng và hoàn hảo biết chừng nào nếu không có những tên công chức vô hồn, nếu
không có những tên cán bộ cao cấp ngu dốt, nếu không có những sơ hở, yếu kém trong
công tác giáo dục và hướng dẫn quần chúng. Ngay cả bọn đảng viên cũng lầm lạc và
xao lãng nhiệm vụ lịch sử của chúng. Lại còn những chậm trễ trong những kế hoạch
xây dựng, những chậm trễ trong kế hoạch sản xuất, sự thiếu thốn những hóa phẩm
tốt, những chương trình sai lầm, sự lãnh đạm của tất cả trước những cố gắng áp dụng
kỹ thuật mới và dụng cụ mới, sự từ chối của bọn trẻ lười biếng không chịu xung
phong đi công tác ở những miền xa để mở rộng biên cương, năng suất nông phẩm tụt
dốc, tình trạng hoang phí của bọn cán bộ thuế, tình trạng trộm cắp trong những kho
chứa, tình trạng tham nhũng, biển thủ, chiếm công vi tư của bọn ủy viên, bọn tù nhân
phá hoại ngầm, rồi lại còn bọn công an chủ trương tự do, bọn hành nghề chợ đen hỗn
xược, bọn đàn bà nội trợ tham lam, đòi hỏi, bọn trẻ con hư vì được quá nuông chiều,
bọn chuyên bàn tán nhảm trên xe buýt, bọn văn nghệ sĩ đòi tự do sáng tác, bọn “phê
bình, chỉ trích” láo lếu, bọn làm điện ảnh phá phách không còn biết đến kỷ luật là gì.
Thật vậy, quần chúng có quá nhiều lỗi lầm cần phải sửa đổi.
Như trong năm 1941 chẳng hạn, cái gì đã làm cho họ rút lui? Họ đã được lệnh ở lại
đó cho tới chết. Tại sao họ không chịu làm thế? Năm đó, ai đã rút lui, ai đã bỏ chạy,
nếu không phải là quần chúng?
Nhưng nhớ lại năm 1941, Stalin cũng không sao tránh thoát được việc nhớ lại những
yếu đuối và lầm lẫn của chính y – y đã vội vã đi khỏi Mạc Tư Khoa trong tháng mười
năm ấy, sự bỏ đi của y không cần thiết. Tất nhiên đó không phải là y bỏ trốn, bởi vì
trước khi đi, Stalin đã để lại nhiều người có trách vụ. Y đã ra lệnh cho những người
phải ở lại chiến đấu bảo vệ thủ đô đến giọt máu cuối cùng, nhưng hỡi ơi, chính
những đồng chí được tin cẩn này lại yếu tinh thần, trước sức tấn công của quân Đức
Quốc Xã, họ bỏ chạy và sau cùng Stalin lại phải trở về và tự lực bảo vệ thủ đô.
Y đã cho đi tù tất cả những kẻ nào không may được chứng kiến và nhớ lại cơn
hoảng loạn trong ngày 16 tháng mười năm đó. Nhưng y cũng tự trừng phạt chính y –y
đã đứng duyệt cuộc diễn binh trong tháng mười ấy. Khoảnh khắc thời gian đó cũng
giống như y bị ngã xuống một hố băng đá ở Turukhansk, nơi y bị lưu đày. Ở
- Turukhansk thời đó chỉ có băng giá và tuyệt vọng, nhưng từ băng giá tuyệt vọng đã trồi
lên sức mạnh. Đó không phải là một sự kiện đáng cười – một cuộc diễn binh trong khi
quân địch đã đến sát chân thành.
Nhưng muốn trở thành nhà Lãnh tụ vĩ đại nhất của muôn đời, nhà Lãnh tụ vĩ đại
nhất của những nhà Lãnh tụ vĩ đại, người ta phải hy sinh, chịu đựng nhiều. Lẽ tự
nhiên rồi.
Mệt mỏi vì bất động, vô tình Stalin để cho tâm trí y bị tràn ngập bởi những tư tưởng
hắc ám nặng nề. Y không chú tâm đến bất cứ vấn đề gì rõ rệt trong lúc này. Y nhắm
mắt lại và nằm đó trong khi những mẩu ký ức rời rạc theo nhau trở về trong óc y.
Không biết vì sao mỗi khi y hồi tưởng, y không nhớ được những kỷ niệm tốt đẹp, êm
đềm, chỉ có những kỷ niệm xấu, khó chịu hiện ra. Nếu y nhớ lại những cảnh vật
miền Gori, nơi y ra đời, những ngọn đồi cỏ xanh ở đó không hiện ra, những dòng sông
Medzhuda, Liakhva nước trong cũng không thấy hiện ra. Y chỉ nhớ lại toàn những gì
đáng thù ghét ở đó, những gì đã ngăn cản không cho y trở lại thăm nơi đó, dù chỉ là
thăm trong một tiếng đồng hồ ngắn ngủi, nơi y đã ra đời, đã sống những ngày thơ ấu.
Không một lần nào y trở về đó để thăm lại mái nhà xưa. Nếu y nhớ lại năm 1917, y
chỉ nhớ có sự kiện Lênin từ ngoại quốc trở về với mớ chủ nghĩa chủ quan và sự kiện
Lênin đảo lộn tất cả những thành quả gặt hái được từ trước, và nhớ sự kiện thiên hạ
đã cười ồ chế nhạo, khinh khi ra sao khi Stalin đề nghị thành lập một đảng hợp pháp
và chung sống hòa bình với chính phủ lâm thời. Họ đã cười nhạo y hơn một lần –
nhưng tại sao họ lại cứ trút những việc khó khăn, nguy hiểm, tối tăm cho y làm? Họ
cười y nhưng cũng chính y chứ không phải người nào khác, trong ngày mùng 6 tháng
bảy năm ấy được họ sai đi từ Lâu đài Kshesinskaya đến đồn Petropavlovsk để thuyết
phục đám thủy thủ ở đây trao đồn này lại cho Kerensky và rút lui về Kronstadt đám
thủy thủ ném đá đuổi về. Người ta phải biết cách nói chuyện với những người dân
Nga. Y nhớ lại năm 1920 và lập tức hình ảnh Tukhachevsky hiện ra khi gã, với đôi
mắt long lên, với vành môi nhăn nhúm, tố cáo lớn tiếng rằng chính là lỗi ở Stalin nên
mới không chiếm được Warsaw. Gã ngu dại ấy chết vì lời tố cáo bậy bạ ấy.
Trong suốt đời y dường như không có qua một chuyện gì êm đẹp. Đời y không
được êm đẹp bởi vì luôn luôn bị người khác can thiệp. Và khi kẻ này bị thanh toán đi,
lại có những kẻ khác hiện ra. Cứ thế và cứ thế người ta quấy rầy y mãi không thôi.
Y nghe tiếng gõ cửa. Những tiếng này không hẳn là tiếng gõ cửa, chúng như tiếng
cào nhẹ của một con chó bên ngoài cánh cửa gỗ dày.
Stalin xoay một nút điện bên tay ghế, đó là nút điện mở khóa cửa từ xa. Khóa cửa
bật ra với một tiếng “cách” khẽ và cánh cửa mở hé. Cửa này không có màn che vì
Stalin không thích quanh y có màn cửa, rèm che giường, bất cứ món gì người khác có
thể ẩn nấp được. Cánh cửa hé mở đủ để cho một con chó len vào nhưng thay vì con
chó, cái đầu hói nhẵn bóng của Poskrebychev rồi bộ mặt lúc nào cũng có vẻ trung
thành lương thiện của gã hiện ra.
Chú ý đến tình trạng sức khoẻ đêm nay của Lãnh tụ, Poskrebychev thấy Stalin nằm
dài trên ghế với chiếc khăn lông lạc đà đắp trên vai, nhưng gã không hỏi thăm đêm nay
Lãnh tụ có mạnh khoẻ hay không – sức khoẻ Stalin bao giờ cũng được coi là hoàn hảo
– gã chỉ nói nhỏ đủ nghe:
"Yos Sarionich Abakumov sẽ có mặt vào lúc hai giờ rưỡi. Ông có tiếp hắn không?
Có thể cho hắn về?"
Iosif Vissarionovich mở nút túi áo ngực rút ra chiếc đồng hồ – (cũng giống như
- những người sống theo kiểu cách cũ, y không chịu nổi loại đồng hồ đeo cổ tay).
Chưa đến hai giờ sáng.
Y không muốn thay y phục và rời căn phòng này để vào văn phòng. Nhưng y cũng
không thể để cho kỷ luật bị lỏng lẻo. Nếu y lỏng tay cương một chút, chỉ cần một
chút thôi, bọn họ sẽ biết ngay tức khắc.
Stalin trả lời với vẻ mệt mỏi và đôi mắt chớp luôn mấy cái:
"Để coi. Ta chưa biết."
"Dạ. Vậy thì cứ để cho hắn tới, cho hắn chờ."
Poskrebychev nói và gật đầu liền ba cái. (Gã biết rằng càng tỏ ra con nít và khờ
khạo chừng nào địa vị của gã càng vững chắc chừng ấy). Rồi nét mặt gã nghiêm lại,
gã chú ý nhìn Lãnh tụ:
"Xin ông cho lệnh về đêm nay?"
Stalin nói dưới chòm ria mép:
"Sasha, đi đi. Để ta yên."
Poskrebychev gật đầu thêm một lần nữa và lùi ra, khép chặt cánh cửa lại.
Iosif Vissarionovich nhấn nút điện khóa cửa lại và kéo chặt chiếc khăn đắp lên vai,
xoay mình nằm nghiêng qua phía bên kia.
Y nhìn thấy trên mặt chiếc bàn nhỏ ở đầu ghế có một quyển sách nhỏ, in trên giấy
báo thường, bìa màu đen và đỏ.
Đột nhiên y nhận ra cái gì đã làm cho y khó chịu, cái gì đã đè nặng tim y, đã cháy âm
ỉ trong ngực y và làm cho lễ sinh nhật của y mất hứng thú: Cái đó là một người, một
người đã can thiệp bậy vào đời y mà y vẫn chưa thanh toán được, người đó là Tito.
Tito!
Tại sao chuyện này lại có thể xảy ra được? Sao y lại có thể lầm lẫn đến như thế
về con bọ cạp đó? Những năm 1936, 1937 là những năm vinh quang rực rỡ nhất trong
đời y. Trong hai năm đó y đã trừ khử được những kẻ khó trừ khử nhất, không biết bao
nhiêu đầu người đã rơi trong hai năm ấy nhưng vậy mà y đã để cho Tito lọt qua kẽ tay
y.
Với một tiếng gừ, Stalin buông hai chân xuống sàn. Y ngồi thẳng lên và giơ tay lên
vuốt nhẹ mái tóc hung hung, xám xám, mái tóc đã có một miếng hói thấy rõ. Những sự
bất-như-ý, những bất mãn chất chứa trong dĩ vãng ào ào trở lại làm cho y choáng váng.
Như một người hùng trong huyền thoại, suốt đời Stalin đã bận rộn với việc chặt đầu
con quái long, nhưng vừa chặt xong đầu này con vật lại mọc ngay đầu khác. Trong
những năm qua y đã chặt đầu kẻ thù chất lên thành núi, nhưng y đã vấp phải một cái
rễ cây.
Isoif đã ngã vì Isoif. [3]
Kerensky, tuy trước đây cũng là kẻ thù của Stalin, vẫn còn sống ở đâu đó nhưng
Kerensky không đáng cho y để ý đến nữa. Với Stalin, dù bây giờ Nicholas Đệ nhị hay
Kolchak có sống lại cũng vậy thôi, y không thấy thù hận gì với hai người này, họ là
những kẻ thù công khai của y, họ không lẩn tránh để rồi bày đặt thực hiện một chế
độ xã hội tốt đẹp hơn chế độ xã hội của Đại Lãnh tụ Stalin.
Một chế độ xã hội tốt đẹp hơn? Một chế độ xã hội khác với chế độ xã hội của
Stalin? Mẹ kiếp. Ai có thể thành lập được chế độ xã hội mà không có Stalin? Vô lý.
Đó không phải là vấn đề Tito có thành công hay không. Làm sao tên ngu đần đó có
thể thành công cho được. Nhất định là thế rồi. Stalin nhìn Tito như một ông bác sĩ già
ở đồng quê, đầy kinh nghiệm, từng mổ không biết bao nhiêu là bộ phận trong cơ thể
- những người bệnh, trong những túp lều không có lò sưởi, trên những tấm ván đặt ngay
bên cạnh đường đi, nhìn một chú y sĩ tập sự bận áo trắng loay hoay giải phẫu.
Những công trình do Lênin để lại đã được đổi mới ba lần, những lý thuyết của
Marx và Hegel đã được sửa lại hai lần. Tất cả những kẻ không đồng ý với Stalin,
những kẻ được nhắc đến từ thời Lênin còn sống, những kẻ đòi thực hiện xã hội chủ
nghĩa theo những đường lối khác với chủ trương của Stalin đều ngủ yên dưới đáy mồ,
đều đã bị quên lãng, khi từ cả những cánh rừng xa xôi nhất ở miền Bắc không còn
vang lại qua một hoài nghi, một chỉ trích nào, đột nhiên Tito từ trong bóng tối chui ra
với lão lý thuyết gia – tín điều Kardel và tuyên bố chủ nghĩa xã hội cần được thực
hiện theo một lối khác.
Nghĩ tới đây Stalin nhận thấy con tim y đập mạnh hơn, mắt y mờ đi và toàn thân y
có những cái co giật bắp thịt khó chịu.
Y cố gắng điều hòa nhịp thở. Y đưa tay vuốt mặt và sờ nhẹ bộ ria mép. Y không
thể bỏ qua được. Nếu y chịu bỏ qua, Tito sẽ làm cho y mất hoan lạc trong những năm
cuối cùng của đời y, sẽ làm cho y ăn mất ngon ngủ mất yên.
Khi mắt y đã nhìn rõ lại, một lần nữa Stalin lai nhận thấy cuốn sách hai bìa màu đen
đỏ nằm trên bàn. Cuốn sách này không có tội gì cả. Stalin với tay cầm cuốn sách mở ra
xem và y tỏ vẻ hài lòng, y đặt lại cái gối dựa để thoải mái hơn, và y lại nửa nằm, nửa
ngồi với cuốn sách mở trên tay trong nhiều phút.
Đây là cuốn sách được ấn hành nhiều chục triệu cuốn, được dịch ra 10 tiếng Âu
Châu, nhan đề của nó là: “Tito, tên phản bội” và tác giả của nó là Renaud de Jouvenel
– (Nội dung cuốn này giá trị ở chỗ tác giả, một người Pháp, một người có cái tên quý
phái, đã đứng ngoài cuộc tranh chấp, đã tỏ ra hoàn toàn vô tư và khách quan) - Stalin đã
đọc kỹ cuốn sách này trước đó ít ngày và cũng như đối với những cuốn sách làm y
khoan khoái, y vẫn để nó quanh quẩn bên mình y. Cuốn sách này sẽ làm cho tên độc tài
tàn ác, hèn nhát, gian trá đó phải mở mắt. Tên phản bội dơ dáy. Tên ngu đần đệ nhất
thiên hạ. Điều đáng giận nữa là cả những đảng viên Cộng sản ở Tây Âu cũng có
nhiều người bị tên phản bội này làm hoang mang. Lão André Marty – già đầu rồi mà
còn ngu si, lão đã bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Pháp – đã lên tiếng bênh vực Tito.
Y lật dần những trang sách. Những sự thực được ghi rõ ở đây. Sau khi đọc cuốn
này, không ai còn có thể ca tụng được tên phản bội Tito nữa: Sự thực là đã hai lần vì
hèn nhát, Tito đã muốn đầu hàng quân đội Đức Quốc Xã, nhưng Arso Jovanovich,
Tổng trưởng Bộ Nhân viên, đã ép buộc Tito phải ở lại chức vụ Tổng Tư lệnh. Arso đã
bị giết, Petrichevich cũng bị giết: “Bị giết vì yêu mến Stalin.” Sách ghi như thế. Ở
khắp nơi người ta giết lẫn nhau, những người tốt nhất bị giết chết trước nhất, bọn
người xấu xa nhất được để dành cho Stalin giết.
Tất cả sự thật đều nằm trong sách này, tất cả – Tito rõ ràng là một tên gián điệp
của bọn Ăng-lê, bằng chứng là hắn tỏ ra kiêu hãnh với những chiếc quần soọc trắng
đi vớ cao tới đầu gối bắt chước bọn Ăng-lê của hắn, hắn tỏ vẻ vênh vang với những
huy hiệu hoàng gia thêu trên ngực áo, trên mũ hắn, người ngợm, mặt mũi hắn trông
ghê tởm, y như là tên Goering, hắn còn khoái phô trương lòe loẹt, nào là cả trăm huy
chương trên ngực, nào là nhẫn kim cương đeo ở ngón tay (với một gã dốt nát về binh
pháp như hắn còn có cái gì để mà kiêu căng nữa?)
Một cuốn sách vô tư đứng đắn. Không rõ Tito có tật xấu nào về tình dục chăng?
Chuyện đó cũng cần viết vào đây chứ!
“Đảng Cộng sản Yugoslav nằm trong tay bọn sát nhân và bọn gián điệp. Tito chỉ có
- thể nắm được quyền lãnh đạo nhờ có Béla Kun và Traicho Kostov ủng hộ.”
Kostov! Cái tên này làm cho Stalin khó chịu đến là chừng nào. Cơn giận cuồn cuộn
chảy trong máu y. Y đá mạnh chân y ra như y đá vào mặt tên khốn kiếp Kostov. Và đôi
mi mắt xám của Stalin rung động vì cảm giác công lý đã được thi hành.
Tên Kostov đốn mạt, tên chó đẻ dơ dáy.
Và giờ đây khi hồi tưởng, Stalin thấy rõ những thủ đoạn của bọn khốn kiếp đó. Y
đã tự hóa trang một cách tài tình, khéo léo. Y đã thắng được Bela Kun vào năm 1937
nhưng mới trước đây có mười ngày, Kostov đã làm ô danh tòa án Xô Viết, bằng thủ
đoạn tráo trở thâm độc của hắn. Stalin từng thành công rực rỡ trong nhiều vụ kết án ly
kỳ, không biết bao nhiêu kẻ thù của y đã bị y làm cho thành hèn hạ, tự hạ và thú nhận
những tội lỗi đểu giả nhất – vậy mà y đã thất bại trong vụ kết án Kostov. Đó là một
xấu xa nhục nhã cho chế độ xã hội vì vụ này bị cả thế giới biết. Kostov trong lúc bị
thẩm vấn đã lừa được cả những chuyên viên thẩm vấn kinh nghiệm nhất, hắn khóc
lóc, van xin, hắn lê gối lạy lục – để rồi khi ra trước phiên tòa xử công khai, trước mắt
những thông tín viên ngoại quốc được mời đến nghe hắn thú tội, Kostov đã chối tất
cả, chối hết. Hắn không còn biết gì đến liêm sỉ. Lương tâm đảng viên cộng sản của
hắn để đâu? Còn đâu là tình đoàn kết vô sản thiêng liêng? Hắn chết nhưng hắn phải
biết chết có lợi gì cho đảng mới phải chứ?
Stalin ném cuốn sách xuống bàn. Không, y không thể nằm yên ở đây được. Y phải
tiếp tục chiến đấu.
Một quốc gia không lo âu có thể ngủ yên nhưng vị cha hiền của dân tộc không thể
ngủ được, Stalin đứng dậy nhưng không đứng thẳng hẳn người. Y mở cánh cửa thứ
hai trong phòng – cánh cửa này không phải là cánh cửa hồi nãy Poskrebychev thò đầu
vào – bước qua và khóa cửa lại. Y lê chân đi qua một hành lang hẹp, quanh co, không
có cửa sổ, hành lang được soi sáng bởi những miếng kiến lợp bên trên, y đi ngang
những tấm gương soi chỉ thông suốt có một chiều: Y có thể nhìn qua gương ra bên
ngoài nhưng người bên ngoài không thể nhìn được vào trong, để vào phòng ngủ. Phòng
ngủ này cũng hẹp, trần thấp, không cửa sổ, cũng có máy điều hòa không khí. Phòng
này có những tấm thép dày gắn trong vách gỗ dát kín bốn bức tường và bên ngoài là đá
đảng.
Dùng chiếc chìa khóa nhỏ xíu đeo ở dây lưng Stalin mở nắp kim khí của một bình
đựng rượu và rót chất rượu kích thích mà y thích uống nhất và một chiếc ly nhỏ, y
uống cạn ly rượu ấy rồi lại khóa nắp bình rượu lại.
Đi tới đứng trước gương, y soi mặt y trong gương. Đôi mắt y trong, sắc và nghiêm
kinh khủng. Ngay cả những vị Chủ tịch Hội đồng Nội các cũng không sao giữ được
trầm tĩnh trước đổi mới này. Bên ngoài của y nghiêm trang, đơn giản, đúng là bên
ngoài của một lãnh tụ.
Y nhấn chuông gọi tên hầu cận người miền Georgia của y vào sửa soạn y phục cho
y thay.
Ngay cả trước mắt những kẻ hầu hạ luôn luôn ở sát bên y, Stalin cũng tỏ ra trang
nghiêm y hệt hình ảnh của y trong lịch sử.
Lúc nào y cũng là con người thép. Tinh thần, ý chí lúc nào cũng như thép.
nguon tai.lieu . vn