Xem mẫu

  1. Sự tích gấu Me2You Trong một làng nhỏ vùng Sussex , gần với Arundel của nước Anh, ngôi nhà cũ kỹ và nh ỏ nhất mà bạn có thể tưởng tượng đã sắp sửa bị phá đổ. Tất cả những đồ vật một thời đã từng làm nên một ngôi nhà đẹp đẽ và ấm cúng đã bị vứt bỏ và chất thành đống rác bỏ hoang trên mảnh vườn trước nhà, từ chiếc giường lò xo rộng rãi và êm dịu mà những người chủ của nó thường ngủ trên đó đến các tấm ván sàn bằng gỗ cổ kính mà họ thường đi lại,... và thậm chí, chú gấu nhồi bông màu nâu bé bỏng cũng không ph ải là một ngoại lệ. Chú gấu đã bị mắc kẹt cùng với tất cả những đồ bị bỏ hoang khác. Chú đã cố gắng để nhấc mình ra khỏi đây nhưng không sao di chuyển được. Thất vọng , lẻ loi, chú cứ sống ở đó từ ngày này sang ngày khác... Rồi một ngày.... một ngày rất lạnh, một thứ gì đó từ trên trời cao rơi xuống.... một bông tuyết bé xíu xiu xoay xoay trong gió rồi khẽ khàng đậu xuống chiếc mũi cũng bé xíu xiu của gấu bông nh ư đùa gi ỡn cùng chú. Nhưng mùa đông không thật hiền dịu để đùa chơi, những làn tuyết trắng xóa tuôn rơi mỗi lúc một nhiều. Gấu bông bắt đầu cảm thấy lạnh, lạnh thật sự và không chỉ còn là cảm giác lạnh nữa, mà bàn tay, bàn chân, đôi mắt, vầng trán, trái tim chú đang dần giá buốt...Cái mũi bé xíu của gấu bông bắt đ ầu chuy ển sang màu xanh và bộ lông của chú cũng dần dần chuyển sang màu xám. Gấu bông lạnh cóng, nhưng cảm giác đơn độc lẻ loi còn đáng sợ hơn muôn vạn lần cái lạnh giá đang bao quanh gấu bông nữa...Gấu bông tủi hờn lắm, có ai hiểu được và san sẻ với gấu bông cảm giác này? Tất cả vỡ òa và tan biến như những bông tuyết chỉ vừa kịp chạm mặt đất. Thời gian dần trôi, cuối cùng thì mùa đông lạnh giá cũng đi qua và tiết xuân ấm áp đã dần trở lại. Vào một buổi sáng mùa xuân đẹp trời, một cô gái nhỏ đang chơi đùa gần ngôi nhà cũ bị bỏ rơi th ủa nào, và cô bé đã phát hiện ra chú gấu màu xám trong đống đồ bỏ hoang. Chú gấu trông không giống nh ư nh ững chú gấu mà cô bé đã từng trông thấy . Cô bé đã lôi chú gấu ra khỏi nơi mà chú bị mắc kẹt. Cô bé lau sạch bụi cho chú gấu bông bé nhỏ, nhấc chú lên cao và ngắm nhìn chú một cách say mê - "Một chú gấu bông màu xám…với một cái mũi màu xanh" cô bé nghĩ. "Th ật là kỳ lạ!" Chú gấu bông dường như muốn khóc. Chú nghĩ cô bé không thích chú và có th ể lại ném chú vào trong đống đồ bỏ hoang một lần nữa. Những ngày tháng đã qua đã khắc một vết thương rất sâu lên trái tim gấu bông, tất cả đã làm cho chú trở nên thật nhạy cảm và bi quan... Nhưng khác hẳn với điều gấu bông lo sợ, cô bé cảm thấy chú thật đáng yêu và cần được che ch ở.
  2. Cô bé chạy nhanh về nhà với mong muốn nhờ người Bà của mình có thể sửa và vá lại những ch ỗ rách cho chú gấu. Cô bé chăm chú đứng quan sát bà sửa lại chú gấu, bà thay bông độn bên trong và đơm nh ững mi ếng vải xám vào những lỗ thủng. Có quá nhiều miếng vá lên chú gấu nhưng cô bé lại không h ề cảm thấy gấu bông xấu xí mà còn thấy chú đáng được yêu thương và che chở nhiều hơn. Chú gấu bông bé nhỏ đã được sưởi ấm trong trong ngôi nhà của cô bé và chú gấu bông bé nhỏ nh ư cảm thấy trái tim mình trở nên ấm cúng và hạnh phúc hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, chiếc mũi của chú vẫn màu xanh và bộ lông của chú vẫn là màu xám và có lẽ nó sẽ không bao giờ có thể chuyển sang màu nâu được nữa... Cô bé ôm chặt chú gấu vào lòng. Cô yêu chú gấu nhồi bông của mình hơn bất kỳ thứ gì khác trên đời này... chú gấu xấu xí..... có chiếc mũi màu xanh.... và có bộ lông màu xám.
  3. Nhân vật mèo Garfield ra đời như thế nào ? Garfield là nhân vật chính hư cấu của truyện tranh Garfield của tác giả Jim Davis. Nó là một con mèo mướp lười biếng, mập, ích kỷ, lông màu cam, giống như người thích ăn, ngủ, trộm đồ ăn của Jon, và rất keo kiệt với Odie khi luôn đá con chó văng khỏi bàn. Nó ghét Thứ hai bởi vì nó th ường gặp xui xẻo vào ngày hôm đó, như bị đập bởi một cái bánh không biết từ đâu bay t ới, và nó cho rằng mình thông minh h ơn người, chó, hay bất kỳ sinh vật nào khác. Nó cũng thích múa may trên hàng rào gỗ vào giữa đêm, mặc dù thường bị chê bai và oanh tạc bằng đủ các đồ vật khác nhau bởi những khán giả kích động. Nó ghét nhện, và thường đập chúng bằng một tờ báo hoặc bất cứ thứ gì ở gần đó. Đôi khi, nó xé nát màn cửa của Jon và phá hoại/ăn cây dương xỉ của cậu, mà kết quả là sự tức giận của Jon đối với nó. Nó cũng nổi tiếng vì hay phá hoại vườn hoa của Jon và bà hàng xóm Feeny, cũng như hành hạ con chó của bà. Nó ghét bị đưa t ới bác sĩ, và thường trốn Jon khi được thông báo hoặc nếu nó cảm thấy "muốn bệnh". Trong chuỗi truyện tranh dài nhất vào năm 1986, địa chỉ nơi Garfield, Jon và Odie sống là số 711 đường Maple. Jim Davis đặt tên Garfield theo tên của bà nội ông, James A. Garfield Davis. Theo một cuộc ph ỏng vấn với Jim Davis trong cuốn sách diễn giải Garfield thứ hai, Garfield Gains Weight, cái tên "Garfield" khi ến ông nghĩ đến "...một con mèo mập...hoặc một con St. Bernard (chó cứu người)...hoặc một hàng đồ lót đang phơi." Nó "nói" thông qua khung hội thoại suy nghĩ nghĩ, và mặc dù các con thú khác có th ể hi ểu đ ược nó, hầu như như Jon không nghe được cuộc nói chuyện của nó, tuy đôi lúc cậu có ph ản ứng với suy nghĩ của nó. Lịch sử Garfield sinh ra trong một căn bếp của Nhà hàng Ý Mama Leone và cực kỳ yêu thích món lasagna từ cái ngày mà nó sinh ra. Kể từ đó, lasgna là món ăn ưa thích của nó.Theo như bà ngoại của nó, không mấy bất ngờ, nó sinh ra nặng năm pound, sáu ounce, và phải cố gắng nằm vừa chiếc giường bé xíu. Về sau, Garfield tình ngờ đi ngang qua Mẹ mình một lần vào đêm Giáng sinh, và gặp ông nội của nó lần đ ầu tiên. Khi Jon nhận nuôi nó, cậu đã phải chọn giữa Garfield, một con cự đà, và một pet rock. Theo như truyện tranh, Garfield đứng trên hai chân đầu tiên vào ngày 17 tháng 5, 1981. Tuy nhiên, điều này mâu thuẫn với các tập trước. Ví dụ, người ta đã vẽ nó nhảy clacket trên đầu Jon trong cuốn truyện ngày 6 tháng 5, 1979. Tương tự, trong tập truyện ngày 16 tháng 9, 1979, Garfield đã mộng du đi trên hai chân. Trong bộ phim truyền hình đặc biệt Garfield Gets a Life, chiếc xe của Jon có biển đăng ký xe ở Indiana vào cuối ch ương. cho thấy họ sống ở Indiana. Trong Garfield Goes Hollywood, trong khi Jon, Odie và Garfield đang ở Pet Search, người giới thiệu nói rằng họ đến từ Muncie, Indiana. Điều này có thể do Jim Davis là ng ười Indiana, và Paws, Inc. nằm ở Muncie. Trong các lần xuất hiện trong truyện tranh, Garfield th ường làm những trò láu cá trong các chương truyện. Vào tháng 6 năm 1983, truyện tranh giới thiệu nhân vật Amoeba Man, một trong nhũng nhân vật thay thế của Garfield, nh ưng nó ch ỉ xuất hi ện trong 6 ch ương truyện (6-20 đến 6-25). Amoeba Man chỉ là một trong những nhân vật thay thế tưởng tượng mặc dù, nhân vật phổn biến nhất là Caped Avenger. Và trong một khoảng thời gian rất ngắn, Garfield trở thành mồi
  4. nhử cho nhiều loại chó khác nhau như Bungee Dog, Warm up dog v.v. sẽ đuổi bắt nó ở bất cứ đâu. Đôi khi Garfield sử dụng "hộp tè" (litter box), như trong truyện năm 1978, nó nói rằng nó ghét đồ thương mại vì nó quá ngắn cho một chuyến thăm đến cái hộp. Nó cũng cho thấy vào ngày 1 tháng 7, 1983 nó không thích nho khô. Sinh nhật nó là vào ngày 19 tháng 6 năm 1978, ngày mà truyện Garfield đầu tiên phát hành. Garfield thường tham gia nhiều cuộc phiêu lưu, như bị kẹt trong một cái thùng lăn, cãi nhau với chuột, và bị nhốt trong chuồng thú. Vào năm 2005, Garfield và Jon xuất hiện trong vài tập truyện tranh Blondie trong lễ kỷ niệm 75 năm của cuốn truyện. Garfield rất phấn khích vì nó không phải suy nghĩ n ữa. Blondie cũng từng có mặt trong truyện Garfield xuất bản ngày 1 tháng 4, năm 1991. Garfield là một trong những nhân vật hoạt hình có mặt trong Cartoon All-Stars to the Rescue. Ăn uống Một trong những đặc điểm thu hút của Garfield đó là nó là con vật vô cùng phàm ăn. Nó thường được vẽ lúc nào cũng ngấu nghiến thức ăn có nhiều chất béo. Trong các món spaghetti, pizza, bánh bích quy (nh ất là bánh do mẹ Jon làm), hamburger, cả một con gà, bắp rang bơ, bánh nước, bánh rán, kem, và mứt mà nó từng ăn, món ăn khoái khẩu của nó luôn luôn là lasagna và nó th ường được mô tả trong t ư thế ăn đặc trưng với cái đầu uốn cong, miệng mở rộng, xúc thức ăn vô miệng với một nụ cười toe toét trên mặt. Mặc dù ăn là thú vui của nó, Garfield khá kén ăn. Nó ghét thức ăn cho mèo (hiếm khi thấy nó ăn thức ăn dành cho mèo), nho khô, ốc sên, bánh trái cây, bưởi và rau, đặc biệt trong những bữa ăn kiêng hiếm hoi của nó. Những thứ này thường đi kèm với những ảo giác về một số món khoái khẩu bay xung quanh nó, đang đợi được ăn. Sau đó, câu chuyện vui xuất hiện khi Jon cố gắng bắt Garfield phải ăn kiêng. Để trả đũa, Garfield s ẽ tìm những cách để giấu thức ăn, hoặc cố làm đau Jon. Câu chuyện về: Chú chó Snoopy Một chú chó khá kiệm lời nhưng luôn làm những hành động ngộ nghĩnh khiến không một cô cậu bé nào lại không thích mình, Snoopy luôn luôn giữ đuợc vị trí của mình trong thế giới tuổi th ơ. 1.Chú chó thích đi... 2 chân Snoopy chính thức ra mắt độc giả vào ngày 4/10/1950 trong series truyện tranh "Peanuts" nổi ti ếng của hoạ sĩ Charles M.Schulz. Bắt đầu cuộc sống của mình trong "Peanuts" như một chú chó săn nh ỏ bình thường, chẳng mấy chốc, Snoopy đã trở thành nhân vật quan trọng nhất của câu truyện, cũng nh ư một trong những nhân vật hoạt hình được trẻ em trên thế giới yêu thích nh ất. Ban đầu, Snoopy không bi ết nói và chỉ sử dụng hành động để diễn tả suy nghĩ. Phải đến khi được 2 tuổi, anh chàng mới bắt đầu được tự do "tám". Là một chú chó nghịch ngợm, Snoopy rất thích trò bắt ch ước các loài động vậy khác, như chim bồ nông, nai sừng tấm, rắn, tê giác và cả chuột Mickey. Không dừng lại ở đó, Snoopy tiếp t ục bắt đầu đi 2 chân như con người vào năm 1956 và đã nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt của độc giả. Từ đó, Snoopy ch ỉ
  5. chịu đi 2 chân. 2.Chú chó lắm biệt tài Snoopy cực kì thích bia rễ cây, bánh cookie nhưng lại ghét kẹo dừa lắm lắm luôn. Snoopy cũng ch ẳng thích chui vào chỗ cỏ dại mọc um tùm, và đặc biệt luôn sợ chết khiếp những miếng băng tuyết treo lủng lẳng phía trên nóc nhà. Snoopy nhỏ bé là thế mà lại có khá nhiều biệt tài. Đầu tiên là bi ệt tài nghe ti ếng... th ức ăn.Tiếng măm măm kẹo dẻo, tiếng nhai bánh ngọt, thậm chí tiếng bóc vỏ chuối, Snoopy nhà ta đ ều nghe thấy dù cách xa cả dặm. Anh chàng còn có biệt tài khắc ẩn khắc hiện như chú mèo Cheshire trong "Alice lạc vào xứ thần tiên". Đôi khi, Snoopy còn có thể bay vòng vòng bằng cách vẩy vẩy 2 cái tai làm quạt y hệt một chú chó robot. Mặc dù chú hoạ sĩ Schulz đã mất nhưng những ấn bản truyện,phim,games hay cả những hình ảnh của Snoopy đều được cập nhật và làm mới từng ngày một để đáp lại tình cảm của các bé đả dành cho cậu ta. Và chắc chắn tụi mình, ai cũng học được một điều từ Snoopy:"Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, Snoopy vẫn không ghen tị mà luôn sống thật vui với những gì mình có được". DORAEMON Đôrêmon (kana: ドドドドド, romaji: Doraemon) Chú mèo máy của thế kỷ 22, sinh ngày 3 tháng 9 năm 2112, cao 129,3 cm, cân nặng 129,3 kg, rất sợ chuột và có thể chạy với vận tốc 129,3 km/h khi gặp chuột, nhảy cao 129.3 m khi bị dọa dẫm. Chú có bạn gái là cô mèo Mimi, em gái là Đôrêmi, có cậu bạn hậu đậu Nôbita.Ở những tập đầu tiên, Đôrêmon có hình dáng không cân đối, đầu bé thân to, nhưng sau đó thì cân đối hơn với một thân hình "tròn trịa", ngay cả hai bàn tay cũng tròn và vì thế mà luôn luôn thua Nôbita trong trò "oẳn tù tì". Chú mèo còn nổi b ật với làn da xanh, cái chuông vàng và cái mũi đỏ (trong những ấn phẩm màu). Mặc dù được gọi là một người máy "hoàn thiện" của tương lai nhưng Đôrêmon lại trở nên đáng yêu vì s ự không hoàn hảo của mình. Đôrêmon thích bánh rán dorayaki và thường bị mọi người thường mời ăn bánh để thuyết phục chú cho mượn bảo bối. Thêm vào đó tuy được coi là chú mèo máy thông minh (tên đầy đủ của Đôrêmon phát hành lần đầu ở Việt Nam là Đôrêmon - Chú mèo máy thông minh) nên Đôrêmon th ường xuyên bị Nôbita cầu cứu, rồi khi gặp phải tình huống khẩn cẩn chú mèo luôn luống cuống rút nh ầm b ảo bối. Nhưng với cái túi thần kì với các bảo bối của thế kỉ 22 và nhất là lòng dũng cảm, quý mến bạn bè (giống như tất cả các nhân vật chính khác), Đôrêmon vẫn là vị cứu tinh cho Nôbita, thậm chí cho cả nhân loại lúc hiểm nguy, và ý nghĩa hơn, là "ông bụt" thời hiện đại, khuyến khích độc giả nhỏ tuổi biết ước mơ và thích ước mơ. Nôbita (ドド太, Nobi Nobita) Cậu học sinh lớp bốn và là con một trong nhà. Có nhiều tính xấu như học dốt, hậu đậu, lười biếng, ham ngủ ngày, tự ái, đố kỵ, yếu đuối và nhu nhược, Nôbita thường gây rắc rối cho chính mình và cho mọi người. Tuy vậy cậu cũng có những tài năng riêng như bắn súng bách phát bách trúng hay ch ơi dây. Trong nhiều câu chuyện, Nôbita cho thấy mình là rất yêu quý gia đình, ông bà ngo ại, bố, mẹ, Đôrêmon và rất yêu
  6. quý động vật (trong khi bà Nôbi lại cấm cậu nuôi chó mèo). Mặc dù h ậu đậu và yếu đuối, trong nhi ều câu chuyện Nôbita lại trở thành "anh hùng" nhờ tính cách tốt bụng và luôn muốn bảo vệ công lý của mình. Xuka (ドドド, Minamoto Shizuka) Bạn cùng lớp với Nôbita và sau này trở thành vợ Nôbita. Xuka là con ngoan, trò gi ỏi, thích ch ơi violon, thích ăn khoai lang nướng và đặc điểm tiêu biểu nhất là thích tắm. Cô rất chăm h ọc và ch ơi th ể thao cũng rất giỏi .Chơi thân với cô là Đêkhi, một cậu bạn học cũng rất giỏi và sức học tập luôn đứng đầu lớp . Tính Xuka tuy dễ thương nhưng nhiều lúc cũng ghê ghớm lắm . Xuka luôn luôn bênh vực Nôbita và nh ắc nhở cậu rằng phải thật cứng cởi thì mới xửng mặt nam nhi . Xuka cũng có lúc mượn bảo b ối của Đôrêmon để làm những việc tốt . Chaien (ドドドドド, Gian, tên thật là Goda Takeshi) Bạn cùng lớp, người hay bắt nạt Nôbita. Chaien là một cậu bé to béo, tính tình thích gây gổ, lấy đ ồ vật của người khác và luôn tự hào về giọng hát kinh khủng của mình. Tuy hay bắt nạt bạn bè nhưng Chaien rất yêu thương em gái mình là Chaikô và trong những tình huống nguy hiểm, cậu luôn là người bình tĩnh và đáng tin cậy nhất. Xêkô (ドド太, Honekawa Suneo) Bạn cùng lớp với Nôbita, thường được gọi là Xêkô mỏ nhọn vì hay khoe khoang, khoác lác, về sự giàu có của gia đình mình với bạn bè. Cậu ta khoe nhièu thứ với bạn bè và luôn cho Nôbita ch ỉ làm người ngoài lề . Tuy nhiên, cậu là người sẵn sàng hi sinh vì bạn bè Tóm tắt Đôrêmon là một chú mèo máy được Nôbitô, cháu ba đời của Nôbita gửi về quá khứ cho ông mình để giúp đỡ Nôbita tiến bộ, tức là cũng sẽ cải thiện hoàn cảnh của con cháu Nôbita sau này. Còn ở hiện tại, Nôbita là một cậu bé luôn thất bại ở trường học, và sau đó là thất bại trong công việc, đẩy gia đình và con cháu sau này vào cảnh nợ nần. Các câu chuyện trong Đôrêmon thường có một công thức chung, đó là xoay quanh những rắc rối hay xảy ra với cậu bé Nôbita lớp bốn, nhân vật chính của bộ truyện. Đôrêmon có một chiếc túi thần kỳ trước bụng với đủ loại bảo bối của tương lai. Cốt truyện thường gặp nhất sẽ là Nôbita trở về nhà khóc lóc với những rắc rối mà cậu gặp phải ở trường hoặc với bạn bè. Sau khi bị cậu bé van nài hoặc thúc giục, Đôrêmon sẽ đưa ra một bảo bối giúp Nôbita giải quyết những rắc rối của mình, hoặc là để trả đũa hay khoe khoang với bạn bè của cậu. Nôbita sẽ lại thường đi quá xa so với dự định ban đầu của Đôrêmon, thậm chí với những bảo bối mới cậu còn gặp rắc rối lớn hơn trước đó. Đôi khi những người bạn của Nôbita (thường là Xêkô hoặc Chaien) lại lấy trộm những bảo bối và sử dụng chúng không đúng mục đích. Tuy nhiên thường thì ở cuối mỗi câu chuyện, những ai sử dụng sai mục đích bảo bối sẽ phải chịu hậu quả do mình gây ra, và người đọc sẽ rút ra được bài học đạo đức từ đó. Chủ đề Bối cảnh của Đôrêmon là xã hội Nhật Bản những năm 1970 được thu nhỏ trong một khu phố ngoại ô của Tokyo, nơi đó có những gia đình khá giả với biệt thự, xe hơi như gia đình của Xêkô, nhưng cũng có những gia đình bình dân mà ông bố chỉ là một viên chức nhỏ còn bà mẹ luôn phải lo lắng cho chi tiêu trong nhà như gia đình của Nôbita. Chủ đề chính trong Đôrêmon thường xoay quanh mối quan hệ bè bạn của nhóm bạn Đôrêmon - Nôbita - Xuka - Chaien - Xêkô hay quan hệ giữa các cô bé, cậu bé trong nhóm với gia đình, họ hàng, thú nuôi trong nhà. Do là manga dành cho lứa tuổi thiếu nhi nên các mâu thuẫn, rắc rối trong Đôrêmon nếu có nảy sinh thì cũng chủ yếu xuất phát từ suy nghĩ trẻ con của nhóm bạn và nhanh chóng được giải quyết vào cuối câu chuyện. Tuy nhiên đôi khi tác giả cũng đặt nhóm bạn của Đôrêmon vào những chủ đề "nghiêm túc" hơn như bảo vệ môi trường, sự phụ thuộc của con người vào khoa học công nghệ hay mâu thuẫn giữa các thế hệ trong gia đình, qua đó đưa ra cho độc giả nhỏ tuổi những bài học đạo đức nhẹ nhàng. Không chỉ đề cập tới các "bảo bối" vốn xuất phát từ trí tưởng tượng của mình, tác giả Fujimoto còn thông qua Đôrêmon giới thiệu với người đọc những thành tựu lớn của khoa học - kỹ thuật thập niên 1970 như các nghiên cứu về Lý thuyết tương đối, tia laser hay du hành vũ trụ. Theo ông Ito Zensho, một người thân cận của họa sĩ Fujiko F Fujio và là giám đốc công ty Fujiko Pro. thì nhân v ật Nôbita đã thể hiện phần nào hình ảnh của chính họa sĩ Fujiko, một cậu bé kém thể thao nhưng luôn thích tìm hiểu những kiến thức khoa học và xã hội. Hai tác giả Fujimoto Hiroshi và Abiko Motoo cũng thể hiện mỗi thế mạnh riêng của từng người qua bộ truyện Đôrêmon, với Motoo là khả năng miêu tả tâm lý nhân vật xuất sắc, còn ở Fujimoto là khả năng xây dựng những bối cảnh và nhân vật có vẻ ngoài bình thường nhưng lại ẩn chứa bên trong những điều tuyệt vời bí mật
  7. Câu chuyện về: MICKEY - MINNIE Chuột Mickey (Mickey Mouse) là một nhân vật họat hình đã trở thành biểu tượng của hãng Walt Disney. Mickey được tạo ra bởi ngài Walt Disney và Ub Iwerks và được lồng tiếng bởi chính Walt Disney. Chú được đánh dấu sự ra đời vào ngày 18/11/1928 khi phim Steamboat Willie được công chiếu. Còn hiện t ại, chú là nhân vật chính trong seri Playhouse Disney "Mickey Mouse Clubhouse" trình chi ếu trên Disney Channel. Sự ra đời Chuột Mickey ra đời như một sự thay thế cho nhân vật Oswald Chú Thỏ May Mắn (Oswald the lucky rabbit) - một nhân vật họat hình trước đấy được tạo ra bởi Disney studio (cũ) cho một hãng khác. Do một số mâu thuẫn và rắc rối về ngân sách cũng như bản quyền nhân vật Oswald, Walt Disney đã rời b ỏ đ ội làm việc bấy giờ và thành lập một Disney studio mới, với ba thành viên chủ chốt là Walt Disney, Ub Iwerks và Les Clark. Mùa xuân năm 1928, Disney đề nghị Ub Iwerk tạo dựng những nhân vật hoàn toàn mới. Iwerks đã phác thảo rất nhiều những con vật khác nhau nhưng không hình tượng nào khiến Disney vừa lòng (có nhi ều nhân vật trong đấy sau này được sử dụng trong những bộ phim khác của hãng). Cảm hứng về nhân vật Mickey được Disney lấy từ chú chuột cưng hồi trước ông nuôi ở trang trại của mình. Năm 1925, một người tên Hugh Harman từng vẽ nhiều phác họa về chuột dựa trên.. bức ảnh của Disney, và điều này đã gợi ý cho Ub Iwerks tạo hình Mickey chô Disney. Thọat tiên h ọ đã sử dụng cái tên Mortimer Mouse, nhưng sau đó Lillian - vợ của Disney - đã đổi tên thành Mickey Mouse. Mickey và Minnie (người yêu của Mickey) lần đầu tiên xuất hiện là ở cartoon ngắn Plane Crazy (15/5/192, được đạo diễn bởi Walt Disney và Ub Iwerks. Iwerks là họa sĩ chính cho phim này và đã thực hiện nó trong 6 tuần. Nội dung của Plane Crazy khá đơn giản. Mickey đang cố gắng trở thành phi công trong cuộc cạnh tranh với Charles Lindbergh. Sau khi tự tạo một chiếc tàu bay của riêng mình, chú đề nghị Minnie tham gia vào chuyến bay đầu tiên của mình (và trong suốt quá trình bay, Mickey đã tìm mọi cách để có thể "kiss" Minnie nhưng liên tiếp thất bại). Minnie vì thế đã nhảy dù khỏi tàu bay, và do mải chú ý Minnie mà
  8. Mickey mất kiếm soát tàu bay. Và đấy chính là điểm bắt đầu của cái gọi là tàu-bay-mất-kiểm-soát dẫn đến một chuỗi những hậu quả hài hước và máy-bay-rơi. Winnie the Pooh Winnie-the-Pooh: Chú gấu con hay mặc áo T-Shirt ngắn và rất thích ăn mật ong. Tigger (đọc là Tíc-gơ như trong tiếng Việt): Chú hổ giọng khàn, hay di chuyển bằng cách nhảy tưng tưng bằng đuôi. Piglet: Con lợn con màu hồng tai to nhút nhát nhưng luôn cố gắng chi ến thắng sự sợ hãi. Eeyore (I-yo): Chú lừa màu xám hay bi quan, buồn rầu. Rabbit: Chú thỏ thực dụng màu vàng. Lumpy the Heffalump: Chú voi con. Kanga: Một con kangaoo cái, mẹ của Roo. Roo: Một chú kangaroo con, con trai của Kanga. Darby: Cô bé tóc đỏ sáu tuổi có đôi mắt to hay đội mũ lưỡi trai. Buster: chú chó của Darby. Christopher Robin: Một cậu bé trong phim. phim kể về chú gấu Pooh cùng những người bạn của mình trở lại cánh rừng xưa, chú lừa Eeyore đánh r ơi mất chiếc đuôi của mình, chú đi tìm khắp nơi, gấu Winnie Pooh thì phải ch ống ch ọi với cái đói, cú mèo triệu tập mọi người cứu cậu bé Christopher Robin… Gấu Pooh được coi là nhân vật nổi tiếng và khá thành công của hãng Disney, t ừ thập niên 60 của thế kỷ trước hãng này đã cho ra đời nhiều bộ phim điện ảnh và truyền hình lấy đề tài gấu Pooh. Trong đó, Những cuộc phiêu lưu của gấu Pooh do phòng sản xuất phim hoạt hình nhiều tập của hãng Disney s ản xuất vào những năm thập niên 70 là khởi nguồn cho thời đại Winnie-the-Pooh được biết tới trên toàn th ế giới. Với nội dung trong sáng, đề cao tính sáng tạo tinh thần nghĩa hiệp, lòng can đảm, tính vị tha, sự chia s ẻ (sự cho đi để được nhận lại),... nên Winnie the Pooh không ch ỉ là một phim giải trí thông th ường mà nó còn giúp trẻ hoàn thiện tính cách từ đó dần trưởng thành hơn.
  9. Câu chuyện về: HELLO KITTY Cuộc sống của người Nhật rất tất bật. Trong thời đại công nghiệp, máy tính và tên lửa, người lớn đi làm, trẻ em đi học, cứ thế hàng ngày, hàng tuần... Họ ít có thời gian để ý đến nhau. Cuộc sống tẻ nhạt, nhưng có lẽ họ không cảm thấy vậy, vì họ còn quá bận rộn với công việc hàng ngày. Một cô bé sống trong một gia đình điển hình như vậy. Bố mẹ đi làm thì cô bé đến trường, rất ít khi g ặp nhau. Cô muốn nói chuyện nhưng không biết nói với ai. Chẳng ai có thì giờ ngồi nghe cô nói. Bạn bè cũng cuốn quýt với những ca học, một số thì mải mê với trò chơi điện tử hiện đại với hình ảnh ảo ba chi ều như thật. Cô bé cảm thấy cô đơn và thu mình vào vỏ ốc. Nhưng cô cũng không được yên, vì cô rất bé nhỏ và nhút nhát nên hay bị những đứa trẻ lớp trên trêu trọc, giật cặp sách, giật tóc, đôi khi cả đánh nữa. Một buổi chiều, khi bị nhóm bạn lớp trên lôi ra làm trò đùa, cô buồn bã đi ra công viên g ần nhà, ng ồi trên ghế đá và khóc. Khóc một lúc, cô ngẩng lên thì thấy một ông già đang ngồi cạnh mình. Ông già th ấy cô ngẩng lên thì hỏi: -Cháu gái, tan học rồi sao không về nhà mà lại khóc? Cô bé lại oà lên tức tưởi: -Cháu không muốn về nhà. Ở nhà buồn lắm, không có ai hết. Không ai nghe cháu nói! - Vậy ông sẽ nghe cháu! Và cô bé vừa khóc vừa kể cho ông già nghe tất cả những uất ức, những buồn rầu trong lòng bấy lâu nay. Ông già cứ im lặng nghe, không một lời phán xét, không một lời nh ận định. Ông chỉ nghe. Cuối cùng, khi cô bé kể xong, ông bảo cô đừng buồn và hãy đi về nhà. Từ đó trở đi, cứ tan h ọc là cô bé vào công viên ngồi kể chuyện cho ông già nghe. Cô thay đổi hẳn, mạnh dạn lên, vui vẻ lên. Cô bé cảm th ấy cuộc sống vẫn còn nhiều điều để sống. Cho đến một hôm, cô bé bị một bạn trong lớp đánh. Vốn yếu đuối không làm gì được, cô uất ức và nóng lòng chạy đến công viên để chia sẻ cho vơi bớt nỗi buồn tủi. Cô bé vội vã, chạy qua đèn đỏ... Ngày biết tin cô bé mất, vẫn trong công viên, vẫn trên chiếc ghế đá mà cô bé hay ngồi, có một ông lão lặng lẽ đốt một hình nộm bằng giấy. Đó là món quà mà ông muốn đưa cho cô bé ngày hôm trước, nh ưng không
  10. thấy cô bé đến. Hình nộm là một con mèo rất đẹp, trắng trẻo, có đôi tai to, mắt tròn xoe hiền lành, nh ưng không có miệng. Ông già muốn nó ở bên cạnh cô bé, mãi lắng nghe cô mà không bao gi ờ phán xét. Từ đó trở đi, trên bàn học của mỗi học sinh Nhật thường có một búp bê hình mèo không có mi ệng...
nguon tai.lieu . vn